Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuệ Trung Thượng Sĩ: Phản Quan Tự Kỷ

02/06/202406:48(Xem: 1290)
Tuệ Trung Thượng Sĩ: Phản Quan Tự Kỷ


tue trung thuong sy
Tuệ Trung Thượng Sĩ:
Phản Quan Tự Kỷ

Nguyên Giác

Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?  

Sách “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” kể rằng vào đời nhà Trần, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ được ngộ đạo. Cho nên vua Trần Thánh Tông gởi Thái tử Trần Khâm (người sau này trở thành Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông) cho Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy đạo lý. Khi học hỏi gần xong sắp trở về triều, trước lúc từ giã Thái tử hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ: "Bạch Thượng Sĩ, pháp yếu của Thiền tông là gì? ". Thượng Sĩ trả lời: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc".

Nghĩa là, 11 chữ đó cô đọng pháp yếu Thiền Tông nhà Trần, và sau này khi Thái tử Trần Khâm trở thành vua Trần Nhân Tông và rồi thoái vị để xuất gia, thành lập dòng Thiền Trúc Lâm, cũng lấy lời dạy này làm cương yếu.

Nghĩa của chữ "phản quan" là soi sáng, xem xét, nhìn lại (có thể dùng chữ “quán chiếu”). Nghĩa chữ "tự kỷ" là chính mình, tự mình (có thể dùng chữ “thân và tâm của hành giả”). "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" có nghĩa xem xét lại chính mình là việc bổn phận, không phải từ nơi khác mà được.

Để giải thích rõ hơn, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đọc bài kệ cho vua Trần Nhân Tông nghe một bài kệ dài, nơi đây chúng ta chỉ trích dẫn ra tám dòng:

Vô thường chư pháp hành

Tâm nghi tội tiện sanh

Bổn lai vô nhứt vật

Phi chủng diệc phi manh

Nhựt nhựt đối cảnh thời

Cảnh cảnh tòng tâm xuất

Tâm cảnh bổn lai vô,

Xứ xứ Ba-la-mật.

Tạm dịch nghĩa: Tất cả các pháp, các hiện tượng đều vô thường, biến diệt. Khi tâm nghi ngờ, thì tội liền sinh ra. Hãy thấy rằng xưa nay vốn không hề có một vật nào. Vốn không hề có gốc, mà cũng không hề có mầm [nào mọc ra để các pháp xuất hiện].  Ngày ngày, khi đối diện với ngoại cảnh, thì cảnh này với cảnh kia đều từ tâm sinh ra. Khi thấy tâm và cảnh vốn là không, thì khắp nơi đều là Niết bàn.

Hiển nhiên, gần như ai cũng thấy rằng tất cả các pháp đều là vô thường. Tới câu thứ nhì thì có thể nhiều người sinh ra nghi ngờ: Tâm nghi tội tiện sanh (Khi tâm nghi ngờ, thì tội liền sinh ra). Bởi vì, trong Kinh Kalama Sutta, Đức Phật khuyên rằng nên nghi ngờ, đừng vội tin bất kỳ những gì mà mình chưa kiểm chứng xác thực. Thiệt ra không mâu thuẫn gì hết. Khi bạn mới tiếp cận lời dạy của bất kỳ ai, thì cũng nên nghi ngờ, và phải tự kiểm chứng mới có thể vượt qua nghi ngờ. Hành động “vượt qua nghi ngờ” trong Kinh MN 24 gọi là “thanh tịnh bằng cách đoạn nghi” và Kinh EA 39.10 gọi là “để khiến không do dự.”

Bởi vì, hễ còn nghi (tâm còn dao động giữa trắng và đen, giữa đúng và sai, giữa thiện và ác, giữa có thể và không có thể) thì không thể tin chắc thật vào Phật Pháp Tăng và chưa thể tin trọn vào Tứ Diệu Đế. Hễ nghi như thế, có nghĩa là kiếp này và kiếp sau sẽ khó thân cận và khó gặp lại Chánh pháp. Nghĩa là, tự mình cắt đứt nhân duyên với Phật Pháp Tăng.

Chặng đường dứt “nghi” cũng khó, nếu không tu tinh tấn, trừ phi những người đã có nhiều đời, nhiều kiếp tin Phật. Theo Kinh MN 24, bản dịch của Thầy Minh Châu, lộ trình giải thoát là: giới thanh tịnh => tâm thanh tịnh => kiến thanh tịnh => đoạn nghi thanh tịnh (Sujato: purification through overcoming doubt) => đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh (thấy, biết thanh tịnh về đạo và phi đạo [purification of knowledge and vision of what is the path and what is not the path]) => đạo tri kiến thanh tịnh (thấy, biết thanh tịnh về đạo [purification of knowledge and vision of the practice]) => tri kiến thanh tịnh (thấy, biết thanh tịnh [purification of knowledge and vision]) => vô thủ trước Bát-niết-bàn (extinguishment by not grasping).

Bản kinh A Hàm tương đương là Kinh EA 39.10, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, ghi lộ trình giải thoát là, trích: “Nghĩa giới thanh tịnh là để khiến tâm thanh tịnh. Nghĩa tâm thanh tịnh là để khiến kiến thanh tịnh. Nghĩa kiến thanh tịnh là để khiến không do dự thanh tịnh. Nghĩa không do dự thanh tịnh là để khiến hành tích thanh tịnh. Nghĩa hành tích thanh tịnh là để khiến đạo thanh tịnh. Nghĩa đạo thanh tịnh là để khiến tri kiến thanh tịnh. Nghĩa tri kiến thanh tịnh là để khiến nhập nghĩa Niết-bàn. Đó gọi là ở nơi Như Lai mà được tu phạm hạnh.”

Có nghĩa là, dứt bỏ nghi là phải giữ giới thanh tịnh, để có tâm thanh tịnh, để có kiến thanh tịnh, để thanh tịnh dứt bỏ nghi ngờ. Nghĩa là, trong chặng đường Giới-Định-Huệ, đoạn trừ nghi ngờ nằm trong phần Định. Nếu không đắc định, không thể dứt bỏ nghi ngờ (hay do dự).

Đoạn nghi cách nào? Đức Phật nói rằng phải vào định, mới có kinh nghiệm về thấy và biết để đoạn nghi. Đó là Kinh Ud 5.7 (Kinh này còn tên là Revata Sutta). Vị sư đương cơ trong Kinh này là “Kaṅkhārevata Doubting Revata” (Tôn giả Revata Nghi Ngờ). Nơi đây, chúng ta dịch ra như sau, toàn văn bản kinh ngắn này như sau.

“Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở gần Sāvatthī, trong rừng Jeta, tại tinh xá của Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ Tôn giả Revata Nghi Ngờ đang ngồi cách Thế Tôn không xa, sau khi xếp chéo chân, ngồi thẳng, quán chiếu sự thanh lọc của chính mình bằng cách vượt qua nghi ngờ (reflecting on his own purification through crossing over doubt). Thế Tôn thấy Tôn giả Revata Nghi Ngờ ngồi cách đó không xa, sau khi xếp chéo chân, lưng thẳng, quán chiếu sự thanh lọc của chính mình bằng cách vượt qua nghi ngờ. Khi ấy, Thế Tôn hiểu được ý nghĩa của điều đó, vào dịp đó đã thốt ra lời khen ngợi này:

Bất kể có nghi ngờ gì về đời này hay đời sau,

Có thể hiểu được bởi chính mình, hoặc có thể hiểu được bởi người khác,

Người hành thiền buông bỏ tất cả những điều này,

Những người nhiệt tâm sống đời sống thiêng liêng.” (hết dịch)

Những người đắc sơ thiền có thể rời nghi ngờ vì đây là một kinh nghiệm của hỷ lạc, khi ngôn ngữ dứt bặt trong tâm. Trong Kinh SN 36.11, Đức Phật dạy rằng trong Sơ Thiền (còn gọi là Nhất Thiền, hay Thiền thứ nhất), thì đoạn nghi được, vì lúc đó, trong tâm không còn ngôn ngữ nào khởi lên. Trích bản dịch của Thầy Minh Châu: "...khi chứng được Thiền thứ nhứt, lời nói được đoạn diệt... khi chứng Thiền thứ nhứt, lời nói được tịnh chỉ... khi chứng Thiền thứ nhứt, lời nói được khinh an..." (Bản dịch Bhikkhu Bodhi: For one who has attained the first jhana, speech has ceased... For one who has attained the first jhana speech has subsided… For one who has attained the first jhana, speech has been tranquillized.)

Khi trong tâm dứt bặt ngôn ngữ, bạn sẽ kinh nghiệm được cái thanh tịnh của dứt bặt nghi ngờ. Tới đây, có thể sẽ có một câu hỏi: rằng tại sao Thiền Công Án và Thiền Thoại Đầu lại lấy “nỗi nghi” để thiền tập? Chỗ này thực ra rất đơn giản, chỉ vì cách diễn giải không minh bạch. Nếu bạn tập Thiền Công Án hay Thiền Thoại Đầu, thí dụ, bạn tham chữ “Ai?” hay “Tiếng vỗ của một bàn tay” thì bạn cần để tâm vào “nghi” tức là “tâm không biết” và chữ “nghi” này chỉ có nghĩa là cái “Tâm không biết” (the don’t know mind) nhưng không có nghĩa là cái “Tâm nghi ngờ” (the doubtful mind). Khi bạn tỉnh thức trong “tâm không biết” thì tất cả tham sân si tạm thời biến mất, tất cả “ngôn ngữ, lời nói” tạm thời biến mất, và đó là một cảnh giới thanh tịnh khi ngôn ngữ biến mất trong tâm.

Câu kế tiếp, Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: “Bổn lai vô nhất vật.” Nghĩa là: Hãy thấy rằng xưa nay vốn không hề có một vật nào. Đơn giản là: trong làn gió vô thường, tất cả các pháp chuyển biến, không hề có cái gì gọi được là cái gì. Do vậy, mới nói, xưa nay không thể gọi là có một vật nào.

Câu kế tiếp, tương tự, không gọi được cái gì là gốc, là hạt giống, cũng không gọi được cái gì là mầm mọc lên từ hạt giống, vì trận gió vô thường chuyển biến các pháp sinh diệt không ngừng.

Hai câu kế tiếp: Ngày ngày, khi đối diện với ngoại cảnh, thì cảnh này với cảnh kia đều từ tâm sinh ra. Tại sao nói tất cả các pháp, tất cả hiện tượng đều từ tâm sinh ra? Bởi vì thế giới chỉ có nghĩa là thế giới được nhận biết, nghĩa là tất cả hiện tượng đều là những cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm giác chạm xúc, được tư lường suy nghĩ… nghĩa là, toàn bộ thế giới là hiển lộ của tâm. Phật nói như thế trong Kinh Sabba Sutta: The All (SN 35.23). Do vậy, hãy thường trực nhìn thấy cảnh không lìa tâm.

Hai câu kế tiếp: Khi thấy tâm và cảnh vốn là không, thì khắp nơi đều là Niết bàn. Nghĩa là, trong vô thường, tất cả đều vô ngã, và tất cả đều là không, thì tham sân si tự dứt bặt, và đó là Niết bàn.

Có cách nào đơn giản để phản quan tự kỷ hay không? Trong Kinh MA 110 cùa A Hàm và kinh tương đương bên Nikaya là Kinh SN 35.153, Đức Phật dạy các “thiện xảo quán tự tâm” là hãy thường trực đặt câu hỏi là mình có đang tham hay không, có đang sân hay không, và vân vân. Không cần phức tạp gì hết, bạn cứ thường trực tự hỏi như thế, dần dần sẽ tự lìa tham sân si, tức là giải thoát. Nơi đây, chúng ta trích Kinh SN 35.153, bản dịch của Thầy Minh Châu, ghi lời Phật dạy cụ thể về phản quan tự kỷ  như sau:

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi tai nghe tiếng … khi mũi ngửi hương … khi lưỡi nếm vị … khi thân cảm xúc… Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi ý biết pháp, hoặc nội tâm có tham, sân, si, biết rõ: “Nội tâm ta có tham, sân, si”; hoặc nội tâm không có tham, sân, si, biết rõ: “Nội tâm ta không có tham, sân, si”. Này các Tỷ-kheo, khi ý biết pháp, hoặc biết rõ nội tâm có tham, sân, si: “Nội tâm ta có tham, sân, si”, hoặc biết rõ nội tâm không có tham, sân, si: “Nội tâm ta không có tham, sân, si”. Này các Tỷ-kheo, sự biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú biện luận được hiểu biết?

--- Thưa không, bạch Thế Tôn.

--- Có phải các pháp này, do thấy chúng với trí tuệ nên được hiểu biết?

--- Thưa phải, bạch Thế Tôn.

--- Đây là pháp môn, này các Tỷ-kheo, do pháp môn ấy, Tỷ-kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về pháp môn, hay ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với chánh trí; vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.”…”

Thường trực tự thấy tâm mình như thế, là sẽ tới lúc “sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành…” và đó là lời Đức Phật dạy cách phản quan tự kỷ.

Nguyên Giác

---- California, ngày 31/5/2024.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2025(Xem: 260)
Chỉ còn vài ngày nữa là đến Giao thừa, lại một mùa xuân trên xứ Đức lạnh lẽo co ro, Danh ngồi đếm từng ngày trên tấm lịch để chờ đón cái Tết Ất Tỵ, năm tuổi của chàng vừa tròn 60. Chàng thường nghe nói, 59 chưa qua 60 đã đến, đấy là những năm đại hạn! Ai qua được ngưỡng cửa 60 sẽ sống thọ lâu.
04/01/2025(Xem: 241)
NỘI DUNG SỐ NÀY: · THƯ TÒA SOẠN, trang 2 · DIỆU ÂM CHUYỂN NGỮ: SỨ MỆNH CAO CẢ CỦA NGƯỜI PHIÊN DỊCH TAM TẠNG TRONG THỜI ĐẠI MỚI (Nguyên Siêu), trang 4 · THƯ XUÂN ẤT TỴ (HT. Thích Nguyên Siêu), trang 5 · TẾT VIỆT NAM, TẾT DI LẶC (Nguyễn Thế Đăng), trang 6 · THÔNG BẠCH XUÂN ẤT TỴ 2025 (HĐGP GHPGVNTNHK), trang 8 · THƯ CHÚC XUÂN ẤT TỴ - 2025 (HĐĐH GHPGVNTNHK), trang 9 · NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA CÁC HỌC GIẢ ANH QUỐC... (HT. Thích Trí Chơn), trang 11
08/11/2024(Xem: 832)
Phước báu” không tự nhiên mà có. Tuy nhiên được sinh ra làm người là chúng ta đã sở hữu được một loại Phước báu rất lớn rồi. Bởi ta có quyền được lựa chọn giữa việc tạo ác nghiệp hoặc tạo thêm thiện phước cho mình.
22/10/2024(Xem: 572)
Trong số các bạn, có những người đã ra đi không bao giờ trở lại, em tôi là một trong những người đó. Người dân Miền Nam vẫn luôn giữ hình ảnh hào hùng của các bạn trong trái tim với lòng biết ơn bao la.
17/10/2024(Xem: 1338)
Trong cuộc sống thực tế, rất hiếm gặp những người sở hữu một sức mạnh thầm lặng, biết tự vấn bản thân, trái lại phần đông luôn sống trong những tháng ngày buồn tẻ để rồi khi sóng dậy biển khơi , sợ hãi, chơi vơi, hỗn loạn phiêu du đến rồi đi trong kiếp sống luân hồi.
04/10/2024(Xem: 1078)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến? Một ngày ngổn ngang công việc với hằng trăm thứ lo âu, bắt đầu những giờ phút chạy đua trong cuộc sống vốn dĩ gắn liền với cơm áo, gạo tiền, xa hơn một chút là đời sống trưởng giả, danh vọng và quyền lực. Một bữa ăn sáng vội vã, một ai đó tranh thủ vượt đèn vàng để kịp giờ vào công sở cũng bởi nhịp sống hối hả khiến chúng ta trôi theo không lúc nào ngơi nghỉ, thế nhưng với nhiều người, sự tất bật trong công việc không phải là điều làm người ta mệt mỏi mà điều làm người ta mệt mỏi lại đến từ những điều khác, nó không phải là mớ công việc lao động tay chân, lao động trí óc, không phải là xấp văn bản dày cộm trên bàn làm việc, không phải là lời hối thúc của cấp trên mà nó đến từ lòng người.
02/10/2024(Xem: 1707)
Nguyễn Bá Chung cùng quê hương đại thi hào Nguyễn Trãi. Một sớm tinh mơ nào, vào cuối thu 1949, nhà thơ mở mắt chào đời nơi vùng quê Định Giàng, Đại Đức, cách chân núi Chí Linh, Hải Dương một đường chim bay. Khoảng giữa năm 1954, mới vừa 6 tuổi đã vội vã chạy theo cha mẹ di cư vào Sài Gòn. Bản chất thông minh, học hành quá xuất sắc, nên được Đại học Brandeis cấp học bổng du học tự túc Hoa Kỳ (1971) và sống định cư luôn bên Mỹ, từ đó cho đến bây giờ.
28/09/2024(Xem: 1007)
Lần đầu tiên y gặp tôi, y chắp hai tay và cúi đầu chào. Tôi rất ngạc nhiên, trong đầu xuất hịện câu hỏi:" Sao y laị biết lễ tiết chào trong nhà Phật?". Tôi cũng chắp tay chào đáp lễ. Mọi người xung quanh cười rần rần vì họ thấy lạ mắt quá. Họ hỏi ý nghĩa của việc đó có nghĩa là gì? Tôi vận dụng cái mớ tiếng Anh ba rọi giải thích cho họ hiểu. Họ có vẻ thích thú lắm. Tôi nghĩ y chào như vậy chắc tuỳ hứng bất chợt nhưng tôi đã lầm. Mọi ngày đều như thế cả, suốt một thời gian dài . Mỗi buổi sáng là y chắp tay chào tôi với nụ cười rạng rỡ... Dần dần có thêm vài người nữa cũng chắp tay chào tôi như thế vào mỗi buổi sáng.
25/09/2024(Xem: 4089)
Con vừa ghi lại buổi pháp thoại Thầy thuyết giảng về "Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ 5 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa", con kính gửi Thầy xem và chỉnh sửa thêm trước khi online. Con kính cám ơn Thầy cho phép con phiên tả, vì đây là cơ hội để con chú tâm để hiểu ít nhiều về Phật pháp thêm vào vốn liếng giáo lý quá ít ỏi của con. Bạch Thầy, con chợt nhận ra rằng, Thầy đã dùng phương tiện này để dẫn dắt con, thay vì như Tổ Thiếu Khang cho tiền để trẻ niệm A Di Đà, Thầy đã khéo léo bảo con tường thuật để cột tâm con vào một mối không đi lang thang như khi ngồi nghe giảng hay tụng kinh. Con kính tri ân Thầy.
23/09/2024(Xem: 2120)
Chuyến đi về Việt Nam lần này có thể nói ngoài sự dự tính của chúng tôi. Mặc dù, tôi cũng có ý muốn đến viếng thăm Hà Nội một lần nữa. Vì năm 2003, tôi có dịp đến trung tâm thành Phố Hà Nội và viếng thăm một vài nơi khác chung quanh Hà thành. Nhưng lần này, là do các Phật tử Bảo Khánh, Hiếu Hoa, Từ Nhẫn và Liên Thu có nhã ý mời chúng tôi về Hà Nội và rồi cùng đoàn đi hành hương Trung Quốc, đặc biệt là chỉ hành hương tham quan trong phạm vi tỉnh Vân Nam thôi. Nói đúng
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]