Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Giác Hải (1023-1138) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Nhân Tông và Vua Lý Thần Tông) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺

12/10/202108:34(Xem: 18874)
Thiền Sư Giác Hải (1023-1138) Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông (Vào thời Vua Lý Nhân Tông và Vua Lý Thần Tông) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺


Thiền Sư Giác Hải (1023-1138)
Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông
(Vào thời Vua Lý Nhân Tông và Vua Lý Thần Tông)
🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺


Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước
 






Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Năm, 07/10/2021chúng con được học về Thiền Sư Giác Hải, đời thứ 10, Thiền Phái VôNgôn Thông. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 296 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

 

Sư họ Nguyễn, quê làng Hải Thanh, thuở nhỏ làm nghề chài lưới, thường dùng một chiếc thuyền con làm nhà, sống lênh đênh trên khắp sông hồ. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư dứt bỏ thế nghiệp xuất gia làm Tăng. Ban đầu, Sư cùng Thiền sư Không Lộ đồng thờ thầy Hà Trạch ở chùa Diên Phước, Hải Thanh. Sau, Sư lại kế thừa dòng pháp của Không Lộ và trụ trì luôn chùa này.

 

Sư Phụ giải thích:

- Tiểu sử của Sư Giác Hải có nhiều chi tiết không rõ ràng, không có năm sanh và năm tử. Sư Phụ cho biết tài liệu gần đây ghi năm sanh và năm mất, 1016-1119, Sư trụ thế đến 103 năm, là một trong những vị thọ nhất ở Việt Nam. Sư Phụ có kể thêm trong lịch sử có thiền sư Trung Hoa đạo hiệu Hư Vân sinh năm 1849 và thị tịch vào năm 1959, thọ  thế 112 tuổi, Ngài Hư Vân nổi tiếng thế giới về công hạnh tam bộ nhất bái, ba bước một lạy, từ Phổ Đà Sơn đến Ngũ Đà Sơn trong 7 năm và gần đây có Hòa Thượng Hải Hiền (1900-2013), một hành giả chuyên ròng niệm Phật vãng sanh, Hòa Thượng trụ thế đến 112 năm.

Thiền Sư Giác Hải là bạn cùng tu với thiền sư Không Lộ (1024- 1119), 2 vị đều theo xuất gia với Thiền Sư Lôi Hà Trạch, dù TS Không Lộ nhỏ hơn ngài đến 8 tuổi, nhưng TS Không Lộ xuất gia và thọ giới trước nên có lẽ Sư phụ giao ngài Giác Hải cho sư huynh Không Lộ hướng dẫn tu hành, chính vì thế mà về sau Ngài Giác Hải trở thành người kế thừa gia tài Pháp bảo của TS Không Lộ và trở thành vị Tổ đời thứ 10 của Thiền Phái Vô Ngôn Thông.

Sư phụ cũng nhắc thêm Thiền sư Lôi Hà Trạch dù không có một chút tiểu sử nào được ghi chép nhưng nhờ Quốc Sư Thông Biện nhắc đến trong lời giải đáp thắc mắc của Thái Hậu Ỷ Lan về lịch sử truyền bá các Thiền Phái vào xứ sở VN. Có thiền sư Lôi Hà Trạch mới có  thiền sư Không Lộ và thiền sư Giác Hải.

Thiền Sư Giác Hải là người đồng hương và cũng đồng nghiệp với Thiền sư Không Lộ, làm nghề chài lưới đánh cá, theo cha truyền con nối ở làng chài nhưng đến năm 25 tuổi, ngài Giác Hải đã ý thức nghề chài lưới không thích hợp nên từ bỏ và đi xuất gia. Sư Phụ nhắc lại, thiền sư Tư Nghiệp làm nghề đồ tể, đang cầm dao chuẩn bị thọc huyết heo thoạt dừng lại và đọc bài kệ:

Hôm qua tâm dạ xoa

Ngày nay tâm Bồ Tát 

Bồ Tát cùng dạ xoa

Không cách một sợi chỉ.

Ngài Tư Nghiệp vứt đao chạy lên chùa Văn Thù xin xuất gia. Thiền sư Đạo ở chùa Văn Thù hỏi đệ tử “Trong lúc giết heo, ông thầy cái gì mà đòi xuất gia?” Ngài Tư Nghiệp im lặng không đáp nhưng đưa tay lên với tư thế là mài dao. Tư thế mài dao là giết giặc phiền não là hồi đầu thị ngạn.



Đời vua Lý Nhân Tông (1072-1127), Sư cùng Thông Huyền bị triệu vào hầu. Bỗng đâu có hai con cắc kè cất tiếng kêu chát tai. Vua bảo Thông Huyền làm cho nó đừng kêu. Thông Huyền thầm niệm thần chú, một con rơi xuống. Thông Huyền cười nhìn Sư, bảo: “Để lại một con cho Sa-môn.” Sư chú mắt nhìn nó, chốc lát nó cũng rơi xuống. Nhà vua kinh dị, làm thơ tặng:

Giác Hải tâm như biển,
Thông Huyền đạo lại huyền.
Thần thông gồm biến hóa,
Một Phật, một thần tiên.

(Giác Hải tâm như hải,
Thông Huyền đạo hựu huyền.
Thần thông kiêm biến hóa,
Nhất Phật nhất thần tiên.)

 

Sư Phụ giải thích:

- Ngài Thông Huyền là một đạo sĩ tu tiên, cũng có thần thông, còn Ngài Giác Hải tu theo pháp môn Thiền Chỉ nên đắc ngũ thông dễ dàng và ngài dùng thần thông để giáo hóa trong giai đoạn này, khiến cho Vua Lý Nhân Tông rất kính phục.

 

 Sư nổi tiếng khắp thiên hạ, tăng tục đều quí kính. Vua Nhân Tông mỗi khi ra chơi hành cung Hải Thanh đều ghé chùa thăm Sư.

Một hôm Vua hỏi:

- Phép chân thần túc có thể được nghe chăng?

Sư liền hiện tám phép thần biến: Thân vọt lên hư không cách đất vài trượng, chợt lại trở xuống...

Vua và quần thần vỗ tay khen ngợi. Từ đó Vua ban cho Sư tự do ra vào cung vua.

Đến đời vua Lý Thần Tông (1128-1138), nhiều lần triệu vào cung, nhưng Sư từ chối viện cớ già bệnh chẳng đến được.

 

*

Có vị Tăng hỏi:

- Phật và chúng sanh ai khách ai chủ?

Sư dùng bài kệ đáp:

Gái để chỏm đầu bạc,
Bảo ông, tác giả biết.
Nếu hỏi cảnh giới Phật,
Long môn bị điểm trán.

(A giác nữ đầu bạch,
Báo nhĩ tác giả thức.
Nhược vấn Phật cảnh giới,
Long môn tao điểm ngạch.)

 

Sư Phụ giải thích:

Thiền Sư Giác Hải đọc 4 câu kệ trên để giải đáp câu hỏi “Phật và chúng sanh ai khách ai chủ?”. Ngài Giác Hải bảo “ Gái để chỏm đầu bạc”, là ý nói “Phật và Chúng sanh là không hai, tuy là 2 nhưng thể tánh rỗng lặng bình đẳng. Vì sao ? vì nhìn vào dáng hình cô gái tóc để chỏm nhưng lại ẩn tàng một bà già đầu bạc trong nay mai. Cô gái và bà già chỉ là một, mái đầu không xanh mãi, cô gái và bà già là một không hai, trước là trẻ và kế tiếp là già. Bây giờ là chúng sanh nhưng nếu tu tập giác ngộ và giải thoát, mai kia là Phật.

Sư Phụ nhân dịp này trả lời câu hỏi thắc mắc của Phật tử Thanh Diệu ở Sydney “thế nào là Bất nhị và thế nào là giáo lý nhị nguyên”.

Sư phụ nhấn mạnh rằng câu kệ đầu tiên của Thiền Sư Giác Hải dạy“Gái để chỏm đầu bạc” là nói lên giáo lý bất nhị. Sư phụ cũng dẫn chứng và khuyên đại chúng đọc lại phẩm thứ 9  “Nhập Bất Nhị Pháp Môn” trong Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết (bản dịch của Hòa Thượng Thích Huệ Hưng) để hiểu rõ ý nghĩa vào cửa không hai, vì theo thói thường chúng sanh sống theo lối sống “nhị nguyên”, tức là đời sống tràn ngập đau khổ trong sự phân biệt, đối đãi, thị phi giữa phải quấy, tốt xấu, sống chết, tịnh bất tịnh, thiện bất thiện, tội phước, hữu vi vô vi, thế gian xuất thế gian, phiền não bô đề, sanh tử niết bàn…v.v..và v.v…. cho đến khi nào chúng ta vượt thoát nhị nguyên, hai bên chúng ta mới vào được cửa bất nhị, có nghĩa là Phật và chúng sanh là một, nên không thể nào bỏ chúng sanh để đi tìm Phật sẽ không bao giờ có được. Sự phụ đọc các vần thơ sau để chúng đệ tử dễ hình dung:

 

“ Khi mê bùn vẫn là bùn
Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen”


Hoặc bài Sám Nguyện Niệm Phật mà Cụ bà Tâm Thái trì tụng mỗi ngày, có câu:

“Niệm Phật có phước có duyên
Tấn tài tấn lợi bình yên cửa nhà.
Niệm Phật trừ đặng tà ma
Yêu tinh quỉ quái lánh xa ngàn trùng.
Niệm Phật năng khử độc trùng
Các loài ác thú hóa hung ra hiền".

Từ là nhờ công đức niệm Phật sẽ giúp hóa giải “những loài ác thu hóa hung ra hiền”

 

“ Bảo ông, tác giả biết”

Câu kệ thứ 2, ý nói nếu ai biết rõ “cô gái trẻ đầu bạc” thì sẽ được người đời tôn vinh là bậc tác gia, tức là người có mắt sáng hơn người, vì vị này nhìn thấy “trong cây có hoa, trong đá có lữa, trong cô gái có bà già, trong chúng sanh có Phật”.

 

- Nếu hỏi cảnh giới Phật,

Long môn bị điểm tráng.


2 câu kệ cuối, Ngài Giác Hải đưa điển tích “Cá vượt Long môn cá hóa rồng” là biểu trưng cho sự vượt thoát luân hồi sanh tử qua tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, để thấy Phật và chúng sanh không là hai.

 

 Lúc sắp tịch, Sư gọi chúng nói kệ:

Xuân về hoa bướm gặp nhau đây,
Hoa bướm phải cần họp lúc này.
Hoa bướm xưa nay đều là huyễn,
Giữ tâm bền chặt bướm hoa thây.

(Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.)

 

Sư Phụ giải thích:

Hoa bướm là hiện tượng tự nhiên của đất trời, mùa xuân đến thì hoa nở, hoa có nở thì bướm mới bay đến để hút mật, câu thơ này quá hay, nói lên giáo lý nhân duyên, giáo lý duyên khởi, một giáo lý cốt tủy mà Đức Phật đã từng dạy “ Ai thấy pháp nhân duyên là thấy chân lý, ai thấy chân lý là Như Lai”. Mùa đông qua, mùa Xuân đến, hoa nở, bướm tìm đến hút mật, tạo một hình ảnh vui tươi của mùa Xuân.

Xuân đến trăm hoa cười 

Xuân đi trăm hoa rụng.

Cái này có, cái kia có. Cái này sanh cái kia sanh, cái này diệt, cái kia diệt…

Hoa là ngoại cảnh là y báo. Bướm tượng trưng là con người, là tánh biết là Chánh báo.

 

Hoa bướm phải cần hợp lúc này 

Hoa bướm xưa nay đều là huyễn, y báo và Chánh báo đều là huyễn, nhưng mượn thân ngũ uẩn để dụng tu đạt tới giác ngộ và giải thoát.

Pháp tu nền tảng mà hành giả có thể áp dụng là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.

 

Sư Phụ giải thích trong Tương Ưng Bộ Kinh, Phật dạy bố thí là nền tảng của tất cả pháp tu, bố thí là mạng lưới an toàn của cuộc đời mình, bố thí giống như đào giếng, càng đào xuống sâu càng có nhiều nước, đừng sợ nghèo, sợ đói mà không chịu bố thí.

Phật dạy rằng:

"Bố thí những vật thực,
Là bố thí sức mạnh.
Bố thí những y phục,
Là bố thí sắc đẹp.
Thí phương tiện đi lại,
Là thí sự an lạc.
Bố thí đèn thắp sáng,
Là bố thí đôi mắt.
Người bố thí chỗ ở,
Là bố thí tất cả.
Bậc giảng dạy chánh pháp,
Là thí pháp bất tử".

Sư Phụ khuyên đại chúng nên tìm đọc tác phẩm “Phước Bố Thí” do Hòa Thượng Hộ Pháp biên soạn, có phổ biến trên trang nhà Quảng Đức. 

Tìm Hiểu Phước Bố Thí_Hòa Thượng Hộ Pháp-1Kính mời xem:
https://quangduc.com/a34842/tim-hieu-phuoc-bo-thi

 

Đêm ấy có ngôi sao lớn rơi xuống góc Đông Nam thất Sư, Sư ngồi ngay thẳng an nhiên thị tịch. Vua hạ chiếu quyên ba mươi hộ để cúng hương hỏa. Hai đứa con Sư cũng được ân thưởng làm quan.

 

Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Giác Hải do Thượng Tọa Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:

   

Trần gian một thuở ruổi theo duyên
Tìm kế sanh nhai chốn nước-thuyền
Dứt bỏ duyên đời quy Phật đạo
Xa lìa cõi tục hướng thiền viên
Kinh mai mõ sớm khơi nguồn diệu
Kệ tối chuông chiều mở lẽ huyền
Hoàng đế triệu hầu khen kệ thưởng
Thần thông biến hoá rạng chơn nguyên.!

  

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Giác Hải, Sư để lại bài kệ diễn đạt rất ấn tượng kỳ tuyệt về pháp môn bất nhị, trong cô gái đã có ẩn tàng mái tóc bạc, trong người đồ tể có ẩn tàng một vị Phật, là chân tâm Phật tánh luôn hằng  toả sáng bên  trong của tất cả chúng sanh vạn loài.

 

  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montréal, Canada). 

 


296_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Giac Hai


Thiền Sư Giác Hải (1023-1138)
Đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông

(Vào thời Vua Lý Nhân Tông và Vua Lý Thần Tông)

Kính dâng Thầy bài trình pháp về Thiền Sư Giác Hải....Kính bạch Thầy con đã vận dụng khả năng và cố gắng để ghi lại nhưng bài pháp thoại quá sâu sắc và súc tích với trải nghiệm của Thầy về Pháp học và Pháp Hành qua mọi tông phái nên còn rất nhiều thiếu sót . Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc sức khỏe Thày, HH



Dù Thiền Sư Giác Hải được  Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) tặng bài thơ ca ngợi sự chứng  đắc của Ngài và có những thần thông hiện  bày do công phu tu tập Thiền Chỉ đạt tới mức độ thâm cao....

 "Giác Hải tâm như hải

Thông Huyền đạo lại huyền

Thần thông cùng biến hóa

Một Phật, một thần tiên".

nhưng hai bài thi kệ còn lưu lại trên thi đàn Nhà Lý mới chứng minh đạo lý về Bất Nhị Pháp môn và Lý Duyên khởi  cũng như định luật Vô thường đã được Ngài ứng dụng vào thơ văn với bút pháp tuyệt diệu, huyền ảo lung linh.

 - Bài kệ thứ nhất : 

Bất giác nữ đầu bạch - Ai biết má đào mà bạc tóc

不覺女頭白  

不覺女頭白,

報你作者識。

若問佛境界,

龍門遭點額。

Phiên âm

" Liễu dụng nữ đầu bạch

Báo nhĩ tác giả thức

Nhược vẫn Phật cảnh giới

Long môn tao điểm ngạch"

Dịch nghĩa

Nào ai biết rằng trong cô gái trẻ trung đã thấy mái đầu bạc;

Nói cho người học đạo hiểu,

Nếu cứ lo tìm hỏi đâu là cõi Phật,

Thì cũng như cá chép nhảy thi ở Long Môn bị "chấm trán" (thi trượt-không vượt qua Long Môn) mà thôi.

Huệ Chi và Băng Thanh dịch thơ:

Ai biết má đào mà bạc tóc,

Khuyên người cầu học hiểu cho sâu.

Ví như cõi Phật hoài công hỏi,

Cá vượt Long môn bị điểm đầu.

Lê Mạnh Thát dịch thơ:

"Gái tơ chỏm tóc bạc

Báo ngươi tác giả biết

Nếu hỏi cảnh giới Phật

Long môn gặp điểm trán" [10].

Đỗ Quang Liên dịch thơ:

Má đào ai biết bạc đầu,

Khuyên người cầu học hiểu sâu khỏi nhầm;

Lo tìm cõi Phật mênh mông,

Ví như cá nhảy Long Môn chấm đầu!

Bài thơ này chỉ rõ  là chúng ta ai ai cũng đang sinh hoạt, tồn tại trong cái tương đối, thuộc thế giới nhị nguyên hay tương đối pháp, nhưng phải nhớ rằng đứng trong lập trường kinh DUY MA CẬT phẩm chín nói về Bất Nhị pháp môn thì phải nhận xét như sau " Qua hình ảnh một đứa trẻ còn má đào phải thấy bóng dáng của  người già tóc bạc thì nhận biết đó là tương lai của mình và ngược lại Ở vị trí người già thấy trẻ, biết nó là quá khứ của mình. 

Đó là một trong 16 quy luật sống chính là "luật thời gian " 

Thời gian luôn trôi đi một cách vô tình và không chờ đợi bất kỳ ai hay bất kỳ điều gì. Tất cả sự vật, sự việc đều tồn tại trong dòng chảy của thời gian. Thời gian vô hình chi phối cuộc sống của bạn và bạn cũng phải biết cách dùng khoảng thời gian trong đời mình để tạo nên những giá trị sống hữu ích cho mình và cho người. Hãy biết quý trọng thời gian vì bởi lẽ sinh mệnh con người được đo theo từng nhịp thở thời gian.

Trong bài thơ cũng nhắc đến một"  quy luật thử thách " qua điển tích Cá Vượt Long Môn . Đây là một bài học vô cùng quý báu - bài học về ý chí và nỗ lực của bản thân. Thời gian có thể vô tình lướt qua nhưng không thể làm mờ nhạt ý chí con người, không thể khiến con người ta gục ngã giữa sóng gió cuộc đời. 

Hình ảnh Cá Chép hóa Rồng cũng được sử dụng như một lời răn dạy mọi người phải luôn luôn cố gắng phấn đấu và kiên trì đến cùng để có thể đạt được thành công.

Cá Chép là biểu tượng cho sự kiên trì, bền chí. 

Và  bài kệ thứ  hai khi thiền sư Giác Hải  sắp tịchi cũng được in trong tập Thơ văn Lý Trần

-Hoa điệp  - hoa và bướm

春來花蝶善知時,

花蝶應須共應期.

花蝶本來皆是幻,

莫須花蝶向心持.

Phiên âm:

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,

Hoa điệp ứng tu cộng ứng kỳ.

Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,

Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.

Dịch nghĩa:

Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết.,

Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kỳ hạn của chúng.

Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo

Chớ nên bận tâm về hoa với bướm.

Ngô Tất Tố dịch thơ:

Xuân sang hoa bướm khéo quen thì,

Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ.

Nên biết bướm hoa đều huyền ảo,

Thây hoa, mặc bướm, để lòng chi.

Lê MạnhThát dịch thơ:

Xuân đến bướm hoa khéo biết thì,

Cần nhau hoa bướm biết nhau khi.

Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn,

Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi.

Một lần nữa Thiền sư Giác Hải muốn gửi một thông điệp đến với chúng ta về quy luật vô thường của  cuộc sống

Kính xin mượn đôi dòng chú giải của những học giả nghiên cứu Phật Pháp đã bình như sau : 

Ngay từ khi bắt đầu, câu thơ “Xuân sang hoa bướm khéo quen thì”, mang ý nghĩa xuân về hoa bướm rập rờn cùng nhau như tình tri kỷ. 

Với câu thơ giàu hình ảnh và đậm đà chất thơ về hiện thực tự nhiên mỗi khi mùa xuân về thì trăm hoa đua nở... bướm, ong tìm đến hoa rập rìu. 

Việc xuân về, hoa nở, bướm đến tìm hoa chính là sự hấp dẫn thuận theo tự nhiên và cũng là lẽ thường tình của đời sống... 

Câu thứ hai ....Bằng sự cảm nhận tinh tế về sự vận động thường hằng của vạn vật, thiền Sư khuyên ta hãy tiếp cận một hiện thực vốn thường có trong tự nhiên thông qua câu thơ “Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ”. 

Vạn vận trong tự nhiên luôn vận động không ngừng nghỉ, tuy nhiên mỗi sự kiện trong tự nhiên được diễn ra đều có sự liên hệ với thời vận nhất định và có chu kỳ nhất định. Việc bướm lượn hoa cười... Đó là quy luật tự nhiên của tạo hóa, là Vô thường. 

Ở quy luật tự nhiên đó dù việc bướm tìm đến hoa mỗi kỳ hoa nở là thuận theo tự nhiên nhưng cũng chỉ như mộng ảo. 

Bởi theo Thiền sư Giác Hải, có đấy rồi lại không, hợp rồi lại tan, xuân cuối cùng cùng phải qua đi để đón nhận hè tới, hoa khi tàn cũng sẽ không còn bướm tới. “

Với câu thứ ba ....Nên biết bướm hoa đều huyền ảo”, Ngafi muốn nói những gì mà chúng ta biết thấy trước mắt dù là tình tri kỷ, nhưng đó cũng như là ảo mộng, nếu tham đắm, si mê thì sẽ trôi mãi theo mộng ảo hư huyễn... 

Và cuối cùng ....Là một Thiền sư, Ngài  đã thấu rõ bướm hoa chỉ là tình đời mộng ảo nên không còn tha thiết bận lòng về tình bướm hoa đó nữa. “

Thây hoa, mặc bướm, để lòng chi”, nghĩa là mặc tình hoa bướm bận lòng làm gì khi biết rõ những điều đó là vô thường mộng ảo. 

 Dù sâu sắc tri kỷ đến đâu cũng chỉ là lẽ thường tình của cuộc đời. Nếu không mặc tình mà tham đắm si mê thì không thể tập trung tu tập giải thoát được. 

Vì vậy, biết rõ tình đời là huyễn ảo vô thường thì mặc tình, đừng bận lòng nữa. 

Trong khía cạnh Khoa học : Tính chất ảo của vạn vật đã được Đức Phật chỉ rõ Lý duyên khởi như sau : 

"Ai thấy lý duyên khởi là thấy Pháp 

Ai thấy pháp là người ấy thấy Phật, " 

Tính chất ảo được khẳng định...chúng chỉ hiện hữu trong mối liên hệ nhân duyên chặt chẽ với nhau và cũng chỉ hiện hữu trong mối quan hệ đối đãi giữa chủ thể và đối tượng . và một vật ảo sẽ không tồn tại vì nó chỉ tồn tại trong nhận thức của chủ thể . theo nghiên cứu khoa học , tất cả nguyên tố vật chất trên địa cầu đều là cấu trúc ảo, . Chính vì Tâm có giác tánh, nó biết kết hợp các hạt ảo theo nhiều kiểu cấu trúc khác nhau để tạo thành các nguyên tố khác nhau như oxy, hydro, nitro, carbon, sắt, đồng, chì, kẽm v.v…Rồi nó biết kết hợp bốn nguyên tố oxy, hydro, nitro và carbon thành nước và các chất hữu cơ khác. Rồi nó biết tạo thành chất sống, thành tế bào, thành các cơ quan có chức năng chuyên môn trong cơ thể sinh vật như tim, gan, phổi, ruột, xương, thịt, mỡ, máu…để duy trì sự sống cho sinh vật. Rồi nó biết tạo thành các cơ quan để sinh vật có thể liên lạc với thế giới bên ngoài như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể, bộ não. 

Tuyệt tác phẩm mà Tâm tạo ra được là con người có bộ não phát triển, có lý trí, có tình cảm. Sinh vật cũng là một cấu trúc ảo có khả năng phát sinh ra nhất niệm vô minh. Nhiều nhất niệm vô minh khởi lên liên tục tạo thành dòng tâm niệm hay tâm thức, từ đó hình thành cái ta bao gồm thân ngũ uẩn và dòng tâm niệm. Con người trở thành một chủ thể biết tư duy vì nó có ký ức, biết ghi nhớ, biết liên kết những sự kiện riêng lẻ của Sự pháp giới lại thành Lý pháp giới.

Tóm lại, Tâm bắt đầu bị phân hoá thành chủ thể và đối tượng khi nó hình thành được sinh vật có cơ thể, bắt đầu hình thành cái ta. Rồi cái ta này nhận thức các vật xung quanh thành đối tượng. Khi đã xuất hiện chủ thể và đối tượng thì không gian, thời gian và số lượng cũng đồng thời hình thành. Tâm vô lượng đã phân hoá thành vô số pháp, vô số chúng sinh, vô số vũ trụ, nói chung là Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới). Chúng sinh ở cõi Vô sắc thậm chí không còn thân ngũ uẩn mà chỉ còn dòng tâm niệm.

Và có phải với bài kệ này Thiền sư, đã gửi gắm qua từng câu thơ để chỉ ra hiện tượng tự nhiên là mùa xuân, là hoa, là bướm để nói lên trí giác ngộ về lẽ vô thường của vạn vật và nếu đã đạt  chân tâm thì không còn ưu phiền bận lòng về mọi vạn vật trong cuộc sống thường nhật nữa ? .

Trộm nghĩ : 

Là đệ tử của Ngài Lôi Hà Trạch ( một Thiền  Sư nổi tiếng của thiền phái Vô Ngôn Thông ) mà chúng ta chỉ được nghe Quốc Sư Thông Biện giới thiệu với Thái Hậu Ỷ Lan , và cũng vừa là huynh đệ và đệ tử nối pháp của Thiền Sư Không Lộ nên sự thành tựu đạo nghiệp của Ngài vẫn còn mang dấu ấn lịch sử chính vì thế mà ngày giỗ hằng năm được dân chúng địa phương  cử hành trọng thể nơi có đền thờ của Ngài .

**(Ngày 4 tháng Giêng hàng năm giỗ sư Giác Hải, làng Yên Vệ (Ninh Bình) nơi có chùa Phúc Long lại tổ chức lễ hội làng, sau khi tế thánh có thi đấu vật.)

 Ngài quả thật là một danh tăng đáng để chúng ta ngưỡng mộ và quý kính  như  Vua Lý Nhân Tông , Lý Thần Tông và văn quan trong triều đã xưng tán và ban bổng lộc ...

Kính trân trọng, 



Kính ngưỡng Thiền Sư Giác Hải ...

Huynh đệ kiêm Đệ tử nối pháp Ngài Không Lộ (1) 

Noi gương người xưa ...xuất gia từ bỏ nghề nuôi thân (2) 

Một lần thi triển thần thông cùng Thông Huyền ( đạo nhân ) (3) 

Chứng tỏ.. " Lập Địa Thành Phật " Vua ngợi khen ... bài kệ (4) 

Diệu dụng Thiền Chỉ,  tám phép chân thần túc ...thật dễ (5) 



Thượng đường bài kệ nổi tiếng trên thi đàn (6) 

Kính đa tạ Giảng Sư ..

.....Bất Nhị Pháp Môn giáo pháp ....vàng (7)

Giải  thích Nhị Nguyên là gì, từ Kinh Duy Ma phẩm chín (8) 

Kính tri ân Giảng Sư ...

Trong thế gian tương đối, gương Cá Vượt Long Môn ...kiên định (9) 

Đừng tìm cầu Phật tại chốn sâu mầu 

Việc phi thường ..... bình thường hằng nhật bắt đầu 

Hành thiện bố thí ...pháp thứ nhất diệu dụng của Lục Độ (10)



Bài kệ trước giờ thị tịch ...định luật Vô Thường ..tỏ ngộ (11) 

Y báo, Chánh báo ...ngoại cảnh và người 

Hoa, Điệp chỉ là huyễn ảo trong đời 

Đạt chân tâm ...

...thoát khỏi ưu phiền bận lòng chi cuộc sống !!! .



Nam Mô Thiền Sư Giác Hải tác đại chứng minh .



Huệ Hương 

Melbourne 12/10/2021






Chú thích:

(1) 

Ban đầu, Sư cùng Thiền sư Không Lộ đồng thờ thầy Hà Trạch ở chùa Diên Phước, Hải Thanh. Sau, Sư lại kế thừa dòng pháp của Không Lộ và trụ trì luôn chùa này.

(2) 

Sư họ Nguyễn, quê làng Hải Thanh, thuở nhỏ làm nghề chài lưới, thường dùng một chiếc thuyền con làm nhà, sống lênh đênh trên khắp sông hồ. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư dứt bỏ thế nghiệp xuất gia làm Tăng. 

(3) 

Đời vua Lý Nhân Tông (1072-1127), Sư cùng Thông Huyền bị triệu vào hầu. Bỗng đâu có hai con cắc kè cất tiếng kêu chát tai. Vua bảo Thông Huyền làm cho nó đừng kêu. Thông Huyền thầm niệm thần chú, một con rơi xuống. Thông Huyền cười nhìn Sư, bảo: “Để lại một con cho Sa-môn.” Sư chú mắt nhìn nó, chốc lát nó cũng rơi xuống. Nhà vua kinh dị, làm thơ tặng:

Giác Hải tâm như biển,
Thông Huyền đạo lại huyền.
Thần thông gồm biến hóa,
Một Phật, một thần tiên.

(Giác Hải tâm như hải,
Thông Huyền đạo hựu huyền.
Thần thông kiêm biến hóa,
Nhất Phật nhất thần tiên.)

Sư nổi tiếng khắp thiên hạ, tăng tục đều quí kính. Vua Nhân Tông mỗi khi ra chơi hành cung Hải Thanh đều ghé chùa thăm Sư.

(4) Nương theo câu chuyện của TS Từ Nghiệp bao năm làm đồ tể bổng một ngày chợt tỉnh ngộ buông daoan đến chùa sám hối qui y...

Phút trước còn mê lầm, phạm sai lầm, như là làm nghề hàng ngày sát sinh, thế nhưng nếu phút sau, biết tận tình ăn năn hối lõi, giác ngộ, thì chỉ ném cái dao xuống đất là có thể chứng đạo. Như, cái nhà bị bóng tối bao phủ hàng trăm năm, hàng nghìn năm, nhưng nếu rọi đèn vào thì phút chốc trở nên sáng.

Từ đó có câu "Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật”, ném cái đao hàng thịt xuống, thành Phật ngay lập tức. 

(5) Sư nổi tiếng khắp thiên hạ, tăng tục đều quí kính. Vua Nhân Tông mỗi khi ra chơi hành cung Hải Thanh đều ghé chùa thăm Sư.

Một hôm Vua hỏi:

- Phép chân thần túc có thể được nghe chăng?

Sư liền hiện tám phép thần biến: Thân vọt lên hư không cách đất vài trượng, chợt lại trở xuống...

Vua và quần thần vỗ tay khen ngợi. Từ đó Vua ban cho Sư tự do ra vào cung vua.

(6) 

Có vị Tăng hỏi:

- Phật và chúng sanh ai khách ai chủ?

Sư dùng bài kệ đáp:

Gái để chỏm đầu bạc,
Bảo ông, tác giả biết.
Nếu hỏi cảnh giới Phật,
Long môn bị điểm trán.

(A giác nữ đầu bạch,
Báo nhĩ tác giả thức.
Nhược vấn Phật cảnh giới,
Long môn tao điểm ngạch.)

(7) Trong Kinh Duy Ma, Bồ Tát tên là Pháp Tự Tại nói rằng: Sinh với diệt là hai. Các pháp xưa vốn chẳng sinh, nay tất nhiên chẳng diệt. Được pháp nhẫn vô sinh ấy là vào pháp môn “Chẳng phân hai”. Pháp môn “Chẳng phân hai” (Bất nhị pháp môn) dịch nghĩa là “chẳng hai” hoặc “không hai”, nhưng hàm ý ở đây nói đến sự phân biệt, chia chẻ trong nhận thức. “Bất nhị” không ngụ ý nói đến số lượng tính đếm, mà nhấn mạnh vào sự phân biệt đối với các pháp.

Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt. “Bất nhị” là không phải cái này, cũng không phải cái kia. “Bất nhị” còn được gọi là “chân như”, “pháp tính”. “Bất nhị” chỉ trạng thái siêu việt tuyệt đối, vượt khỏi mọi đối lập tương đối. Bất nhị là không hai. Không hai là không lạc vào hai cực đối đãi của một vấn đề, bản chất sự việc như to-nhỏ, cao-thấp, đi-về, một-nhiều… “Bất nhị” thường được xem như là phương pháp thuộc lĩnh vực nhận thức.

“Pháp môn Bất nhị” là pháp môn nhằm làm rõ chân lý tuyệt đối không phân chia. Chương Nhập Bất Nhị Pháp Môn (Chương IX trong 14 chương của Kinh Duy Ma) chuyên thuyết giảng về vấn đề này:Bất nhị tức là không hai, không hai chứ không phải một. Mới nghe tưởng như là chơi chữ nhưng đó là cách diễn đạt con đường buông xả đầy diệu dụng. Thông thường, thế giới được nhận thức qua lăng kính nhị nguyên, nghĩa là luôn có chủ thể và đối tượng, thế giới luôn được phân hai: thiện – ác, tốt – xấu, được – mất, hơn – thua, cao – thấp, trên – dưới, trong – ngoài, ta – người… Không có hai thì thế giới không tồn tại. Tư tưởng kinh Duy Ma cho rằng cái hai ấy không phải là hai vì chúng là song lập, cùng tồn tại bất khả phân ly; nói cách khác, chúng tồn tại trong thế duyên khởi.

Do vậy không thể nhìn riêng bất cứ pháp nào, mà nên nhìn với cái nhìn toàn diện của một pháp. Kinh Duy Ma được xây dựng trên nền tư tưởng Bát Nhã và Hoa Nghiêm: các pháp không có tự tính, không sinh không diệt, vô tướng, bất khả thuyết… Bất nhị là đúc kết lý thuyết chân không diệu hữu mà Bát Nhã và Hoa Nghiêm đã triển khai.

Ngài Duy Ma dạy: “Sắc và không là hai nhưng sắc là không, không phải sắc diệt mới không mà là sắc tính tự không; cũng vậy, thọ, tưởng, hành thức…”. Rõ ràng tư tưởng Bất nhị có sắc thái Nhất nguyên luận. Tuy nhiên ngài Duy Ma không dừng lại ở triết lý siêu việt mà đưa tư tưởng Bất nhị vào đời sống thực nghiệm tâm linh hiện thực rằng: “Nhãn và sắc là hai, nhưng nếu biết nhãn đối với sắc không tham, sân, si thì đó là tịch diệt… cho đến ý với pháp là hai, nhưng ý đối với pháp không tham, sân, si thì đó là tịch diệt, sống trong ấy là nhập vào pháp môn Bất nhị”

(8) Một câu hỏi đến từ Phật tử Thanh Diệu cư ngụ tại Sydney về Giáo lý  nhị và Phân biệt Nhị Nguyên đã được Giảng Sư liên kết với phẩm chín của Kinh Duy Mà đã có ghi chú trên câu 7 

(9) Tích điển Cá vượt long môn cũng nằm trong câu cuối của bài kệ thượng đường 

Truyền thuyết kể rằng khi trời đất mới hình thành chính trời đã tạo ra mưa, gió, giông, sấm sét. Nước có từ mưa hình thành nên sông biển và những sinh vật sống trong nước được trời tạo ra tự nhiên và từu đó hình thành nên mọi thứ trên trái đất.

Vì bận bịu với công việc tạo ra loài người và vạn vật nên trời không có thời gian làm mưa mà sai Rồng là con vật của cõi trời bay lượn trên không trung và phun nước xuống nhân thế làm mưa tưới mát cho cây cối và các loài sinh vật dưới nơi đây.

Số lượng Rồng trên trời không đủ để mang mưa đến khắp nơi nên trời tổ chức một cuộc thi kén chọn các con vật lên làm Rồng với tên gọi là thi Rồng. Khi có chiếu thị ban xuống dưới thủy cung thì các con vật đều tranh nhau đi thi với hi vọng sẽ được hóa Rồng. Cuộc thi gồm ba kỳ, mỗi kỳ phải vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt qua cả ba đợt thì mới đậu để được hóa Rồng.

Trong thời gian khá lâu, một tháng trôi qua, có biết bao nhiêu loài thủy tộc đến tham gia thi đều bị loại, vì không con nào vượt qua được cả ba đợt sóng. Có con Cá Rô nhảy qua được một đợt, đợt sau thì bị rớt. Có con Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột gan vây vẩy râu đuôi đã gần hóa Rồng. Khi đến đợt ba, đuối sức bị té nên lưng cong lại. Đến lượt Cá Chép tham gia vào cuộc thi, con cá này trong miệng lại ngậm một viên ngọc trai. Thấy điều lạ, thần gió tó mò bay đến để xem sự lạ lùng này. Khi thần gió bay đến thì gió, mây ào ạt kéo đến, sấm sét ầm trời, và những đợt sóng cao trổi dậy…Cá Chép nhờ đợt sóng cao đưa lên, vượt luôn một lần qua ba đợt sóng, nhả ngọc vượt qua Vũ Long Môn và hóa Rồng.

Từ câu chuyện dân gian đó, mà hình tượng Cá Chép hóa Rồng đã trở thành biểu trưng cho sự can đảm, may mắn, trót lọt, thành công, chiến thắng của con người cho đến ngày nay.

(10) Thầy giới thiệu SÁch Tìm hiểu Phước Bố Thí của Sư Hộ Pháp 

Con người chúng ta có nhiều cơ hội tạo mọi phước thiện nhất là phước bố thí, không những đem lại sự lợi ích cho mình, mà còn hồi hướng đến cho thân bằng quyến thuộc: ông bà, cha mẹ, thầy tổ, bà con, bạn bè… cùng các chúng sinh đang sống trong cảnh khổ, họ đang mong đợi, trông chờ phần phước thiện mà bà con mình hồi hướng. Khi họ hoan hỉ phần phước thiện ấy, ngay tức khắc, giải thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh cảnh thiện giới: cõi người, cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc. 

Như vậy, con người chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội làm phước bố thí, bởi vì phước bố thí mà thí chủ đã tạo xong rồi, sẽ cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai, dầu tái sanh kiếp nào, là người hoặc chư thiên cũng hưởng được quả báu của phước bố thí ấy, được an lạc lâu dài. Thậm chí, dầu tái sanh làm loài súc sanh, thì loài súc sanh ấy cũng hưởng được quả báu ấy, kiếp súc sanh được an lạc hơn hẳn các loài súc sanh khác. Như chúng ta thường thấy có những con chó, con mèo, con ngựa, con voi… chúng được săn sóc chu đáo, có đầy đủ vật thực ngon lành, còn được trang sức đẹp đẽ nữa. Đó là do quả báu của phước bố thí ở tiền kiếp mà chúng đã tạo 

Đức Phật dạy:

Annado balado hoti,
Vatthado hoti vaṇṇado.
Yānado sukhado hoti,
Dīpado hoti cakkhudo.
So ca sabbadado hoti.
Yo dadati upassayaṃ,
Amataṃdado ca so hoti,
Yo dhammamānusāsati".

[Bộ Saṃyuttanikāya - Sāgathavagga, kinh Kiṃ Dadasutta.]

Đức Phật trả lời câu hỏi của chư thiên trong bài kinh Kiṃ Dadasutta, như sau__

"Bố thí những vật thực,
Là bố thí sức mạnh.
Bố thí những y phục,
Là bố thí sắc đẹp.
Thí phương tiện đi lại,
Là thí sự an lạc.
Bố thí đèn thắp sáng,
Là bố thí đôi mắt. 
Người bố thí chỗ ở,
Là bố thí tất cả.
Bậc giảng dạy chánh pháp,
Là thí pháp bất tử".
Con hết lòng thành kính
Đảnh lễ ngôi Tam bảo: 
Phật bảo, Pháp, Tăng bảo
Cùng các bậc Thầy Tổ. 
Con biên soạn tập sách: 
"Tìm Hiểu Phước Bố Thí".

(11) Lúc sắp tịch, Sư gọi chúng nói kệ:

Xuân về hoa bướm gặp nhau đây,
Hoa bướm phải cần họp lúc này.
Hoa bướm xưa nay đều là huyễn,
Giữ tâm bền chặt bướm hoa thây.

(Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.)

Đêm ấy có ngôi sao lớn rơi xuống góc Đông Nam thất Sư, Sư ngồi ngay thẳng an nhiên thị tịch. Vua hạ chiếu quyên ba mươi hộ để cúng hương hỏa. Hai đứa con Sư cũng được ân thưởng làm quan.






***
facebook
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2023(Xem: 3293)
Hạnh Phúc Trong Từng Hơi Thở (bài giảng của SC TN Giới Bảo)
07/03/2023(Xem: 2160)
Kinh Lương Hoàng Sám- S.C Giới Bảo Dẫn Chúng Trì Tụng Năng Lực Tiêu Trừ Nghiệp Chướng Lớn
23/12/2022(Xem: 12534)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
26/03/2022(Xem: 12178)
❝Trên đường đạo không gì bằng tinh tấn, Không gì bằng trí tuệ của đời ta, Sống điêu linh trong kiếp sống ta bà, Chỉ tinh tấn là vượt qua tất cả.❞ Kính chia sẻ cùng chư Tôn đức, Pháp hữu và qúy Phật Tử Lịch Pháp thoại và khóa tu tại Hoa Kỳ trong tháng 4 và tháng 5-2022 với sự hướng dẫn của Tỳ kheo Như Nhiên. Th Tánh Tuệ CHƯƠNG TRÌNH HAI NGÀY TU HỌC tại Tu viện Đạo Viên tiểu bang Maryland Khóa tu chủ đề: TIẾP XÚC VỚI THỰC TẠI. Với sự hướng dẫn của thầy Thích Tánh Tuệ California, Thầy Viên Ngộ trụ trì Tu Viện Đạo Viên, Maryland và Thầy Tâm Nguyên trụ trì Tu Viện Hạnh Phúc, Florida. Tu học hai ngày thứ Bảy & Chủ nhật (April 09 & 10, 2022) và ngắm Hoa Anh Đào vùng thủ độ Hoa Thịnh Đốn vào ngày thứ hai sau khóa tu.
07/02/2022(Xem: 17110)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
01/02/2022(Xem: 30368)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
09/12/2021(Xem: 17045)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
30/11/2021(Xem: 24175)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
25/11/2021(Xem: 28468)
315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn Đây là Thời Pháp Thoại thứ 315 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 25/11/2021 (20/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567