293. Thiền Sư Tịnh Thiền (1121 - 1193)
Đời 17 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
(Thời Vua Lý Cao Tông)
🙏🙏🙏🌷🌷🌷🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Bảy cuối tuần 01/10/2021, chúng con được học về Thiền Sư Tịnh Thiền, đời thứ 17, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 293 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).
Sư họ Phí tên Hoàn, quê làng Cổ Giao, quận Long Biên. Lúc đầu, Sư cùng bạn đồng học là Tịnh Không thờ Thiền sư Đạo Lâm, chùa Long Vân làm thầy. Ngày ngày Sư thiết tha vì đạo, nên thâm nhập được huyền yếu. Thiền Sư Đạo Lâm biết Sư là pháp khí, ban cho pháp hiệu là Tịnh Thiền và ấn chứng rằng:
Tịnh là trí tịnh tròn mầu
Thiền là tâm thiền lặng lẽ.
Sư Phụ giải thích:
- Phần tiểu sử của Sư rất ngắn nhưng Sư Ông Thanh Từ ghi đủ những chi tiết quan trọng để người đời sau có thể nhìn thấy rõ về cuộc đời tu học và hành đạo của Sư. Sau khi xuất gia, Sư tinh tấn cần mẫn tu tập , mỗi ngày Sư trình pháp với Sư Phụ Đạo Lâm, Sư đã thể nhập được Huyền yếu, là chỗ thấy chính yếu, sâu thẳm của bản tâm, nên được Sư phụ ấn chứng và ban cho pháp hiệu là Tịnh Thiền với ý nghĩa: Tịnh là trí tịnh tròn mầu,
Thiền là tâm thiền lặng lẽ.
Tâm thiền lặng lẽ nhưng phải có trí tuệ rõ biết hiện tiền, diệu dụng nếu không sẽ trở thành không ngơ trơ trọi. Đây là điểm độc đáo của đường hướng Tổ Sư Thiền được trao truyền từ tổ Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, nhị tổ Huệ Khả, tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín và Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền qua Việt Nam
- Lục Tổ Huệ Năng là người làm lớn mạnh Thiền Đốn Ngộ qua lời dạy của ngài trong Pháp Bảo Đàn Kinh:
1/ Vô niệm: trong tâm không khởi lên bất cứ niệm nào, luôn trong Chánh niệm, trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe. Vô niệm là chánh niệm. Lấy vô niệm làm tông.
2/ Vô tướng: tất cả pháp thế gian đều do duyên hợp tạo thành, không có thể tướng nhất định. Lấy vô tướng làm thể.
3/ Vô trụ: không trụ tâm vào bất cứ chỗ nào, thong dong tự tại. Lấy vô trụ làm dụng.
Pháp-Môn đốn ngộ (Kính pháp bảo đàn, lấy: 1/Vô Niệm (không nghĩ tưởng) làm TÔNG, 2/ Vô Tướng (không có hình tướng) làm THỂ. 3/ Vô Trụ (không để tâm vào đâu cả) làm GỐC. Ngồi thiền: Ngoài: tâm niệm không khởi lên gọi là Tọa. ; Trong: thấy tự tánh mình chẳng động gọi là Thiền.- Bên ngoài lià tất cả các tướng gọi là Thiền.- Bên trong tâm chẳng loạn gọi là Định.
Nếu hành giả không đạt đến vô niệm, vô tướng, vô trụ thì phải hành trì, phải thiền tập mỗi ngày ba thời, mỗi thời hai giờ, ngồi thẳng lưng, mắt nhìn xuống, tâm không khởi lên một niệm nào.
Về sự, Lục Tổ dạy: bên ngoài tâm niệm không khởi lên gọi là Tọa. ; bên trong thấy tự tánh mình không động gọi là Thiền. Bên ngoài lìa tất cả các tướng gọi là Thiền. Bên trong tâm không loạn gọi là Định.
Thiền tập cũng giúp viên thành chận đứng ác nghiệp, tẩy trừ nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới, không có nghiệp mới lấy gì để đi tái sanh, ngay đó chứng nhập vô sanh pháp nhẫn. Vì Giới: không tạo các nghiệp ác, tức là tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh ý. Định: Ngoài không nhiễm trần cảnh, trong không tán loạn, trong ngoài vắng lặng. và Huệ: nghĩa là tâm địa thanh tịnh,niệm niệm thấy tánh, tâm địa quang minh, soi thấu muôn pháp.
Thiền Sư Đạo Lâm viên tịch Sư mới dạo khắp các thiền hội, tìm bạn đạo và học hỏi thêm. Đạo duyên thuần thục, Sư về quê nhà trùng tu ngôi chùa Long Hoa rồi trụ trì tại đây. Hằng ngày ngoài giờ tu tập thiền luật, mọi hoạt động Sư đều nhắm vào tâm niệm lợi tha.
Sư Phụ giải thích
- Sư Tịnh Thiền tu tập thiền luật, Ngài chú trọng giới luật, còn Tổ Sư Thiền không chú trọng oai nghi. Sư Phụ kể một giai thoại, có một vị Sư đến giảng pháp tại tu viện Quảng Đức, khi được hỏi thế nào là không chấp tướng, vị ấy đã cởi áo áo tràng để lên bàn và mặc áo vạt hò ngắn tiếp tục giảng pháp, vị này biểu tỏ ý tưởng không chấp tướng!
Năm Thiên Tư Gia Thụy thứ tám (1193) nhằm năm Quí Sửu, ngày 12 tháng 8, Sư tịch, thọ bảy mươi ba tuổi. Môn đệ là Pháp Ký soạn văn bia chùa ghi rằng:
Sư sanh đồng thời, họ Lý trị đời,
Sáu độ đâu quên, tứ hoằng nào bỏ.
Chỗ uống trà, là chỗ thập phương thí chủ dồn về,
Khi chống tích, bốn bộ học đồ qui tụ.
Thần thông khó lường, huyền dụng khôn xét.
Tự chẳng đến trường Phật giác thì đâu thể nêu cao thắng nghiệp.
Thực là vầng trăng báu trong bầu trời, là hoa pháp của linh hồn xóm làng...
(Sư sanh đương Lý nhật xuất trị minh thời.
Lục độ ninh vong, tứ hoằng vật xả.
Hương bôi phù xứ, thập phương tín chủ ba tùy.
Tích trượng chấn thời, tứ bộ học đồ vụ tập.
Thần thông cự trắc, huyền dụng nan lượng.
Tự phi phó Phật giác tràng, an năng du dương thắng nghiệp.
Chân sở vị: Thích thiên bảo nguyệt, pháp uyển hồn thôn...)
Sư Phụ giải thích:
- “Sáu Độ đâu quên, Tứ Hoằng nào bỏ”, là ý nói hành trạng giáo hóa độ sanh của Thiền Sư Tịnh Thiền luôn luôn đem Lục độ vạn hạnh để ban dạy cho người, đó là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ; và Tứ Hoằng Thệ Nguyện, 4 đại nguyện của hành giả không bao giờ được lãng quên, đó là:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Có nghĩa là:
Chúng sanh không số lượng, thề nguyện đều độ khắp;
Phiền não không cùng tận, thề nguyện đều dứt sạch;
Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học;
Phật đạo không gì hơn, thề nguyện đều viên thành.
Lục độ vạn hạnh và tứ hoằng thệ nguyện là kim chỉ nam dẫn lối hành giả tu Bồ tát đạo, vượt thoát tam đồ ác đạo
Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Tịnh Thiền do Thầy Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:
Long Vân cổ tự kết thiền nguyên
Tâm chí đêm ngày nhập đạo thiền
Pháp khí thừa đương rền nghiệp tổ
Thiền phong kế thế ngát hương liên
Lợi người sáu độ hoằng sa giới
Ích pháp mười phương rưới pháp duyên
Thạch Trụ Long Hoa tăng tục hướng
Tịnh Thiền pháp hoá rạng trăng huyền…!
Phần thứ hai của buổi giảng, Sư phụ giải đáp
câu hỏi của Phật tử Bảo Minh Toàn: "Thế nào là nói năng như Chánh pháp và im lặng như Chánh pháp "?
Sư Phụ kể, ở nhà Đông, Chùa An Dưỡng Nha Trang có ghi hai câu Phật ngôn rất to: “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như Chánh pháp “.
Câu nói này nguyên gốc phát xuất từ Kinh Thánh Cầu, số 26 thuộc Trung Bộ Kinh (bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu)
Thánh Cầu có nghĩa là tìm cầu đến chỗ thánh thiện, đó là giải thoát, chứng đắc niết bàn.
Trong Kinh Thánh Cầu Đức Thế Tôn dạy 4 vấn đề:
Vấn đề 1. Người xuất gia nghiêm túc hành giải thoát chỉ có hai việc cần làm:
1/. Nói năng như Chánh Pháp, nghĩa là trao đổi, thảo luận về Chánh Pháp.
2/Hoặc im lặng như Chánh Pháp, nghĩa là thực hành thiền định.
Nói năng như Chánh Pháp, Sư phụ dẫn chứng thêm Kinh số 21 Ví Dụ Cái Cưa thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Thế Tôn nói năng như Chánh Pháp phải hội đủ 5 loại ngôn ngữ:
1/Đúng thời hay phi thời
2/ Chơn thực hay không chơn thực
3/Nhu nhuyến hay thô bạo
4/Có lợi ích hay không lợi ích
5/Với từ tâm hay với sân tâm.
Nguyên văn lời Phật dạy như sau theo bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu: “ Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Thầy có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ- kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Thầy cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, như vậy các Thầy cần phải học tập”.
Sư phụ nhấn mạnh rằng “ nói năng như Chánh Pháp” để chận đứng khẩu nghiệp, vì khẩu nghiệp là thừa sai của ý nghiệp, nếu không chánh niệm tĩnh giác, phát ngôn bừa bãi, sẽ lãnh hậu quả:
“Thần khẩu nó hại xác phàm
Người nào nói quá họa làm khổ thân.
Lỡ chân gượng được đỡ lên.
Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi”
Vấn đề thứ 2 trong Kinh Thánh Cầu, Phật dạy: Người xuất gia chỉ có con đường giải thoát cần chọn và thực hiện:
1/ Nếu người đời chọn cái bị sanh, bị già, bị chết, bị sầu ưu, nghĩa là chọn đời sống hưởng thụ với gia đình vợ con, với các sở hữu, tư hữu như súc vật, của cải, các người hầu hạ, phục vụ..., thì sẽ trôi lăn vào sinh tử khổ đau. –
2/ Nếu người xuất gia, muốn thoát ly sinh tử, khổ đau thì dấn thân vào nếp sống thoát ly cái sanh, cái già, cái bệnh, cái sầu ưu. Đó là nếp sống thực hiện đoạn trừ ngũ dục lạc đi vào Tứ Sắc định, Tứ Không định và Diệt thọ tưởng định để chứng đắc Niết bàn. Vấn đề 3: lăn chuyển bánh xe pháp:
Vấn đề thứ 3 trong Kinh Thánh Cầu: Đức Thế Tôn kể chuyện ngài đi xuất gia và từng theo tu học với 2 vị Thầy Àlàra Kalàma và Thầy Uddaka Ràmaputta, đã chứng nhập vào Tứ Sắc định, Tứ Không định, nhưng giải thoát rốt ráo, nên tự thân ngài đến hành thiền quán dưới cội Bồ-đề ở Ưu Lâu Tần Loa (Uruvela) đắc quả giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rồi Ngài đến thành Ba La Nại để lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp, nói pháp Tứ Thánh Đế, hóa độ cho năm anh em ngài Kiều Trần Như. Ngôi Tam bảo được thiết lập tứ đây.
Vấn đề thứ 4 trong Kinh Thánh Cầu: Đức Thế Tôn đã ngần ngại chuyển vận bánh xe Chánh Pháp bởi Pháp do Thế Tôn thực chứng thì thậm thâm vi diệu, khó hiểu, khó chứng, siêu lý luận, ly thủ, ly ái, giữa khi người đời thì khát ái, ham thích hưởng thụ dục lạc. Đức Thế Tôn nghĩ như vầy:
“Sao Ta nói Chánh pháp,
Được chứng ngộ khó khăn?
Những ai còn tham sân,
Khó chứng ngộ pháp này.
Đi ngược dòng, thâm diệu,
Khó thấy, thật tế nhị,
Kẻ ái nhiễm vô minh,
Không thấy được pháp này”.
Nhưng Phạm thiên Sahampati từ cõi trời đích thân xuống Bồ Đề Đạo Tràng để cung thỉnh Đức Thế Tôn vì lòng từ bi đối với chúng sanh mà thuyết pháp giúp họ. Phạm Thiên van xin Đức Thế Tôn như sau:
“Xưa tại Magadha,
Hiện ra pháp bất tịnh,
Pháp do tâm cấu uế,
Do suy tư tác thành.
Hãy mỡ tung mở rộng,
Cánh cửa bất tử này.
Hãy để họ nghe Pháp,
Bậc Thanh tịnh Chứng Ngộ.
Như đứng trên tảng đá,
Trên đỉnh núi (tột cao)
Có người đứng nhìn xuống,
Đám chúng sanh quây quần.
Cũng vậy, ôi Thiện Tuệ,
Bậc Biến Nhãn cùng khắp,
Leo lên ngôi lâu đài,
Xây dựng bằng Chánh pháp
Bậc Thoát Ly sầu muộn,
Nhìn xuống đám quần sanh,
Bị sầu khổ áp bức,
Bị sanh già chi phối,
Đứng lên vị Anh Hùng,
Bậc Chiến Thắng chiến trường.
Vị trưởng đoàn lữ khách,
Bậc Thoát Ly nợ nần.
Hãy đi khắp thế giới,
Bậc Thế Tôn Chánh Giác!
Hãy thuyết vi diệu pháp,
Người nghe sẽ thâm hiểu!”
Nghe lời cầu thỉnh thành tâm của Phạm thiên Sahampati, với Phật Nhãn thanh tịnh, Đức Thế Tôn nhìn thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Đức Thế Tôn nhìn thấy trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Nên Đức Thế Tôn đã quyết định thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Ngài tuyên bố:
“Cửa bất tử rộng mở,
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp,
Giữa chúng sanh loài Người.”
Vị Phạm thiên Sahampati rất đổi vui mừng vì đã Đức Thế Tôn đã hoan hỷ thuyết pháp, vị này đã đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi biến mất.
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Tịnh Thiền, sự thiết tha vì đạo của Sư rất đặc biệt, thấm nhập huyền yếu và được sư phụ Đạo Lâm ấn chứng ban cho pháp hiệu do từ trí Sư đã Tịnh tròn mầu, tâm Sư đã Thiền lặng lẽ.
Đặc biệt phần thứ hai của buổi giảng là giải đáp thắc mắc, Sư phụ đã dẫn chứng Kinh Thánh Cầu số 26 của Trung Bộ Kinh mà Đức Thế Tôn giảng rõ về phương cách nói năng và im lặng như Chánh Pháp, đặc biệt là sự kiện Phạm Thiên Sahampati từ cõi trời xuống thỉnh cầu Đức Thế Tôn thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Lần đầu tiên con được nghe nguyên văn của bản Kinh này, con quá xúc động. Con thành tâm đảnh lễ và cảm ơn Sư Phụ đã chịu khó nghiên cứu và công bố những tài liệu quý báu này để giúp cho hàng đệ tử chúng con hôm nay có cái nhìn dung thông giữa hai hệ tư tưởng Nam và Bắc Truyền, giữa Nguyên Thủy và Phát Triển, và giữa Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
Thiền Sư Tịnhh Thiền (1121 - 1193)
đời 17 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
(Thời Vua Lý Cao Tông)
Kính dâng Thầy bài viết về Thiền sư Tịnh Thiền và trình pháp lại với câu hỏi của đạo hữu Bảo Minh Toàn đã được Thầy giải thích quá tuyệt vời và dẫn chứng bằng hai bài kinh Thánh Cầu (22) và Vương Tử bố uý (58) trong Trung Bộ Kinh về thế nào là Nói năng như Chánh Pháp và Im lặng như Chánh Pháp. Kính đa tạ Thầy và kính tri ân Thầy đã giúp con ôn lại Kinh Trung Bộ từ lúc nghe pháp thoại về Tổ Sư Thiền để cuối cùng nhận ra rằng " Tất Cả giáo pháp của Phật chỉ có một vị, một con đường - Tất cả đều dẫn tới Chân Lý và tìm được Bản Tâm Thanh tịnh của mình - Và hơn thế nữa cho con nhận ra thêm rằng " TẤT CẢ CÁC BẬC GIÁC NGỘ ĐỀU CÓ CÙNG MỘT KINH NGHIỆM " . Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc Thầy pháp thể khinh an, HH
Theo tài liệu từ Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn, Đạo hiệu TỊNH THIỀN đã được ban cho Ngài khi được ấn chứng về sự thâm nhập vào chỗ huyền nhiệm của Bản Tâm
(Đạo Lâm biết Sư là pháp khí, ban cho pháp hiệu là Tịnh Thiền và ấn chứng rằng:
Tịnh là trí tịnh tròn mầu
Thiền là tâm thiền lặng lẽ)
Có thể ngầm hiểu như sau :
"Lặng lẽ mà rõ biết
Thanh tịnh nhưng phái có trí tuệ ! "
Điều này đã được HT trong một bài giảng về Tâm Thiền cho rằng :
" Khi nói đến tâm thiền tức là nói đến tâm đạo. Tất cả chúng ta đều có sẵn tâm đó. Tuy nhiên nó ở đâu, như thế nào thì không ai có thể diễn tả hay chỉ được. Vì sao? Vì tâm này không hình tướng, không chỗ nơi, làm sao tả làm sao chỉ được. Cho nên nói tới tâm thiền là nói tới chỗ tự chứng tự biết, chứ không phải nói để mà chơi.
Nên nhớ tâm đạo là cái sẵn nơi mỗi người chúng ta, nhưng nếu bị lớp bản ngã bao bọc thì không dễ gì ta sống được với đạo tâm của mình.
Vì vậy người tu Phật, nhất là tu thiền phải thấy như thật bản chất của các pháp, để từ đó không lầm nhận cái giả cho là thật, không lầm nhận thân tâm này nữa. Được vậy mới mong sống được với tâm đạo của mình. Tâm đạo chính là Tâm thiền.
Ngoài ra HT đã chỉ dạy thêm
Sửa quấy liền sanh trí tuệ, dấu lỗi trong tâm chẳng lành.
Người chịu sửa những điều quấy của mình là người phát triển được trí tuệ.
Ngược lại người dấu những cái dở của mình, người đó không phải người tốt.
Pháp tu này rất dễ dàng, nếu chịu áp dụng chúng ta sẽ thấy được an lạc tức khắc thôi. Ví dụ như bây giờ ta biết trong lòng mình còn nhiều bất ổn thì lôi nó ra bỏ đi, đâu phải khó khăn gì. Đừng cho nó hiện hữu trong lòng mình thì sẽ được an ổn, trí tuệ hiện tiền.
Bồ-đề tự nhận nơi tâm,
Huyền đạo cũng chẳng việc ngoài,
Người người theo đây tu hành,
Tịnh Độ ở ngay trước mắt.
Là người tu, nếu chúng ta lăng xăng tìm cầu bên ngoài là sẽ mất mình, tu không được. Người tu nếu không tỉnh giác, không sống được với tánh giác của mình ngay trong mọi sinh hoạt thì không gọi là người tu. Cho nên người tu phải là người tỉnh giác. Đã tỉnh giác rồi, thì mọi hiện tượng chung quanh không còn lầm nữa, thấy được lẽ thực của các pháp, tức là có đầy đủ trí tuệ. Người đầy đủ trí tuệ là người sống được với tâm đạo của mình.
Cũng như trong Thanh Tịnh Đạo cũng chỉ rằng :
Người thanh tịnh thoát tục, tâm không vướng bận.
Thanh tịnh ở đây nên hiểu là Niết-bàn. Niết-bàn không có các cấu uế, nên hoàn toàn thanh tịnh.
Thanh tịnh đạo là con đường dẫn đến sự thanh tịnh bằng bằng nghị lực kiên trì như đã nói, và bằng hành vi đầy giác tỉnh với tuệ quán, vị ấy cần phải - khi đã an trú trong giới - tu tập, phát triển Chỉ và Quán được mô tả bằng từ ngữ Tâm và Tuệ.
Đây là cách đức Thế tôn chỉ rõ đạo lộ đưa đến thanh tịnh dưới những đề mục Giới, Định và Tuệ.
Đức Thế Tôn dạy :
Người trú giới có trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thoát triền.
Bây giờ tôi sẽ đưa ra ý nghĩa chân thực:
Chia thành giới, định, tuệ
Của câu kệ do bậc Đại thánh nói.
Trong giáo pháp đấng Chiến thắng
Có những người tầm đạo từ bỏ gia đình,sống không nhà
Những người khao khát thanh tịnh
nhưng vẫn chưa biết đúng đạo lộ trực chỉ, bảo đảm,
gồm Giới, Định và Tuệ,
Con đường khó tìm, dẫn đến thanh tịnh
Cho những người chưa an, dù đã nỗ lực,
Tôi sẽ giảng Đạo lộ an ổn
đưa đến thanh tịnh
Y cứ lời dạy của những vị cư trú
Trong Đại tinh xá. (*)
Những người khát khao thanh tịnh hãy lắng nghe.
Những điều được nêu lên là Ba môn học (Tam Học: Giới Định Tuệ), giáo lý tốt đẹp trong ba phương diện, điều kiện cần thiết để chứng ba Minh v.v..., sự tránh hai cực đoan và tu tập Trung đạo, cách vượt khỏi những đọa xứ, đoạn trừ ô nhiễm dưới ba khía cạnh, sự đề phòng vi phạm, sự thanh lọc ba thứ nhiễm ô, và lý do đạt đến những quả Dự lưu v.v.
Đó là sự tu tập tăng thượng giới được nêu bằng Giới; tu tăng thượng tâm bằng Định; và tu tăng thượng trí tuệ bằng Tuệ.
Còn yếu chỉ của Tổ Sư Thiền là VÔ NIỆM, VÔ TƯỚNG, VÔ TRỤ
Chúng ta sẽ tìm gặp nơi Thiền Sư Tịnh Thiền với đạo phong cao vút mà nghiêm chỉnh vẫn giữ luật giữ giới ( Hằng ngày ngoài giờ tu tập thiền luật, mọi hoạt động Sư đều nhắm vào tâm niệm lợi tha.)
Bởi thế Đạo Hạnh của Ngài đã được khắc ghi trên bia đá như sau
Sư sanh đồng thời, họ Lý trị đời,
Sáu độ đâu quên, tứ hoằng nào bỏ.
Chỗ uống trà, là chỗ thập phương thí chủ dồn về,
Khi chống tích, bốn bộ học đồ qui tụ.
Thần thông khó lường, huyền dụng khôn xét.
Tự chẳng đến trường Phật giác thì đâu thể nêu cao thắng nghiệp.
Thực là vầng trăng báu trong bầu trời, là hoa pháp của linh hồn xóm làng...
(Sư sanh đương Lý nhật xuất trị minh thời.
Lục độ ninh vong, tứ hoằng vật xả.
Hương bôi phù xứ, thập phương tín chủ ba tùy.
Tích trượng chấn thời, tứ bộ học đồ vụ tập.
Thần thông cự trắc, huyền dụng nan lượng.
Tự phi phó Phật giác tràng, an năng du dương thắng nghiệp.
Chân sở vị: Thích thiên bảo nguyệt, pháp uyển hồn thôn...)
Kính trân trọng .
Kính ngưỡng Thiền Sư Tịnh Thiền,
Đạo hiệu quá tuyệt vời khi được ấn chứng (1)
Nối pháp đời thứ 17 từ Thiền Sư Đạo Lâm (2)
Tam Vô Lậu Học đã thâm nhập vào Tâm (3)
Cũng là cốt lõi Tổ Sư Thiền dẫn đến Giác Ngộ !
Chính là VÔ NIỆM, VÔ TƯỚNG, VÔ TRỤ (4)
Kính tán dương Ngài.... Đạo phong cao vút bao la
Mọi hoạt động đều với tâm niệm lơị tha (5)
Vẹn toàn Lục độ vạn hạnh, Tứ hoằng thệ nguyện (6)
Kệ thị tịch Sư Ông Khánh Hỷ ...thần thông hiển hiện (7)
Chùa Long Hoa thập phương thí chủ đã tìm về (8)
Dìu dắt kiên trì người người thoát khỏi vọng mê
Kính đa tạ Giảng Sư ....
bài pháp thoại tuyệt vời như phần vấn đáp (9)
Thế nào là Nói năng như Chánh Pháp ?
Thế nào là Im lặng như Chánh Pháp ?
Trích dẫn Kinh Thánh Cầu Trung Bộ hai hai (10)
Và kinh 58 Vương Tử vô uý ...luận chiến Như Lai (11)
Lời dạy Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác siêu việt tối thượng
Đúng thời , nhu nhuyến, từ tâm, lợi ích ...hợp đối tượng .
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Thiền Sư Tịnh Thiền tác đại chứng minh
Huệ Hương
Melbourne 2/10/2021
Chú thích
(1) (1121 - 1193)-(Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Phí tên Hoàn, quê làng Cổ Giao, quận Long Biên. Lúc đầu, Sư cùng bạn đồng học là Tịnh Không thờ Thiền sư Đạo Lâm chùa Long Vân làm thầy.
Ngày ngày Sư thiết tha vì đạo, nên thâm nhập được huyền yếu.
Đạo Lâm biết Sư là pháp khí, ban cho pháp hiệu là Tịnh Thiền và ấn chứng rằng:
Tịnh là trí tịnh tròn mầu
Thiền là tâm thiền lặng lẽ.
(2) Đạo Lâm qua đời,
Sư mới dạo khắp các thiền hội, tìm bạn đạo và học hỏi thêm. Đạo duyên thuần thục, Sư về quê nhà trùng tu ngôi chùa Long Hoa rồi trụ trì tại đây
(3) thâm nhập về Đạo và nhận được huyền yếu chính là
Những người khao khát thanh tịnh
nhưng vẫn chưa biết đúng đạo lộ trực chỉ, bảo đảm,
gồm Giới, Định và Tuệ,
Con đường khó tìm, dẫn đến thanh tịnh
Cho những người chưa an, dù đã nỗ lực,
Tôi sẽ giảng Đạo lộ an ổn
đưa đến thanh tịnh
Y cứ lời dạy của những vị cư trú
Trong Đại tinh xá. (*)
Những người khát khao thanh tịnh hãy lắng nghe.
( trích một đoạn thơ trong Thanh Tịnh Đạo )
Những điều được nêu lên là Ba môn học (Tam Học: Giới Định Tuệ), giáo lý tốt đẹp trong ba phương diện, điều kiện cần thiết để chứng ba Minh v.v..., sự tránh hai cực đoan và tu tập Trung đạo, cách vượt khỏi những đọa xứ, đoạn trừ ô nhiễm dưới ba khía cạnh, sự đề phòng vi phạm, sự thanh lọc ba thứ nhiễm ô, và lý do đạt đến những quả Dự lưu v.v.
Đó là sự tu tập tăng thượng giới được nêu bằng Giới; tu tăng thượng tâm bằng Định; và tu tăng thượng trí tuệ bằng Tuệ.
Tam vô lậu học là môn học thù thắng gồm có Giới-Định-Tuệ. Ba môn học này chỉ có trong giáo pháp của Đức Phật.
Trong ý nghĩa chiết tự: lậu có nghĩa là phiền não. Do vậy, Tam vô lậu học có ý nghĩa là ba môn học giúp hành giả vượt khỏi sự trói buộccủa mọi phiền não, hoàn toàn tự tại. Lậu cũng có nghĩa là rơi rớt, nên Tam vô lậu học là phương tiện giúp hành giả không còn rơi rớt trong ba cõi, tâm không còn bị ràng buộc bởi mọi lậu hoặc.
Như vậy, Tam vô lậu học là ba môn học đoạn trừ phiền não, chứng nhập quả vị giải thoát hoàn toàn, không còn nằm trong sự kiềm tỏacủa tam giới và không dừng lại ở phước báo sanh thiên.
1.Giới (Sila) tức là «phòng phi chỉ ác«, nghĩa là đề phòng điều trái quấy, dừng chỉ mọi điều ác, cũng có nghĩa là «chỉ ác tácthiện« tức là ngưng làm điều ác, làm mọi điều thiện, trên đây là chỉ về ý nghĩa tổng quát của giới.
2.Định Samàdhi-p) cũng dịch là Tam ma đề, hay chỉ, là chỉ cho trạng thái tâm ý chuyên chú tập trung vào một đề mục, một đối tượng, một biểu thức nhất định ngõ hầu để tâm không bị xao động, nhiễu loạn, phân tán do những tác động chủ quan và khách quan.
3.. Tuệ là nói gọn của hai từ trí và tuệ.
Theo Từ điển Phật học (Phân viện Nghiên cứu PH - Hà Nội) định nghĩa: Trí là đối với đạo lý hết thảy sự vật có khả năng đoán định phải trái, chánh tà... mà chọn lấy hay từ bỏ mặt này hay mặt khác thì gọi là trí. Quán lý Tứ đế hay Thập nhị nhân duyên đều là trí. Tuệ là cái tác dụng phân biệt sự lý, quyết đoán nghi ngờ, thông đạt sự lý... Thông đạt sự tướng hữu vi thì gọi là trí. Thông đạt không tướng vô vi thì gọi là tuệ. Hay định nghĩa chung về trí tuệ là: quyết đoán là trí, tuyển chọn là tuệ. Biết rõ Tục đế là trí, biết rõ Chân đế là tuệ.
Theo Đại cương câu xá luận (HT Thích Thiện Siêu) xác định: «Đặc sắc của trí là tính quyết định, đặc sắc của tuệ là tính phân biệt rõ ràngsự lý các pháp«. Như vậy, tuy có những nhận định khác nhau về trí và tuệ, nhưng ta nhận thấy rằng có một sự đồng nhất về mặt ý nghĩa. Trí có tác dụng của tuệ, tuệ bao hàm tác dụng của trí. Do vậy, gộp chung trí và tuệ lại mà gọi chung là trí tuệ. Nhưng có một quan điểmchung nhất đó là: Thông đạt sự tướng hữu vi, hay chỉ biết rõ Tục đế gọi là trí. Thông đạt không tướng vô vi hay biết rõ Chân đế gọi là Tuệ. Và đây chính là Tuệ vô lậu (Anàsravam).
Theo định nghĩa của ngài Buddhaghosa thì: «Trí tuệ có đặc tính thấu nhập vào các pháp. Trí tuệ có phận sự phá tan bóng tối của ảo tưởng bao phủ tự tính của các pháp - biểu hiện của nó là không bị mê mờ bởi vì thiền định là nguyên nhân trực tiếp của nó« (Tinh hoa và sự phát triển của đạo Phật, dịch giả Chơn Pháp - Nguyễn Hữu Hiệu - Tu thư ĐH Vạn Hạnh, Saigon, 1970). Như vậy, dù nhìn góc độ nào đi nữa thì trí tuệ (vô lậu) vẫn là chất liệu tinh anh cao tột nhất để quyết đoán và chọn lựa đối với mọi sự, mọi vật.
(4)
Thẹn chốt của kinh Pháp bảo đàn, Lục tổ dạy: “Này học chúng, đây là truyền thống thiền phái của ta, xem vô niệm như là đối tượng mà ta nhắm tới.” Có thể dịch vô niệm như là “idealessness”, “thoughtlessness”, hay “giải thoát ra khỏi vọng tưởng.” Ngài Huệ Năng đi xa hơn:
Này học chúng, trong hệ thống đó của ta, cái thấy siêu việt (trí tuệ bát-nhã) sản sinh tám vạn bốn ngàn con đường trí huệ, bởi lẽ đó là con số cấu nhiễm mà chúng ta đối đầu; nhưng khi một người thoát khỏicấu nhiễm, trí huệ tự nó sinh khởi, và không tách biệt với tinh túy của tâm. Những ai biết được pháp đó sẽ giải thoát khỏi vọng tưởng. Thoát khỏi mê đắm bởi ý nghĩ riêng, thoát khỏi bám víu tham dục, thoát khỏi sai lầm, đặt tinh túy của chân như vào mọi hoạt động, dùng trí tuệ bát-nhã để quán chiếu và giữ thái độ không dửng dưng mà cũng không ràng buộc vào mọi sự - đó là những gì được diễn tả khi mỗi người thực hiện tinh túy tâm, hòng đạt Phật quả.
Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta từ xưa đến nay, trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.
Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng. Vô niệm là nơi niệm mà vô niệm. Vô trụ là bản tánh của con người.
**Vô niệm, vô tướng, vô trụ là ba điểm thiết yếu được giảng trong suốt cuốn kinh, vì chúng là ba tính cách của tự tánh hay bản tâm. Tướng là hình tướng, đặc tính của sự vật. Khi phân tích một sự vật cho đến những hạt nhỏ nhất, và nhỏ hơn nữa, chúng không còn cái gì cả, không có tướng nào cả. Vậy thì thấy tướng là một vọng thấy của tâm thức và chạy theo tướng là nguyên nhân của sanh tử luân hồi. Vô tướng chính là thật tướng của sự vật và của tâm. Vô tướng là bản tánh vốn sẵn không có không gian. Niệm là ý tưởng, khoảnh khắc. Khi phân tích một ý tưởng và một khoảnh khắc đến tận cùng, chúng ta không thấy có cái gì cả. Cho nên cho rằng ý tưởng và thời gian dù nhỏ nhất là có thật là một sai lầm. Vô niệm chính là thật tướng của niệm và của tâm. Vô niệm là bản tánh vốn sẵn không có thời gian. Trụ là sự bám trụ, trụ chấp. Vì thế giới, tức là tướng và niệm, không thật có cho nên không thể trụ vào đâu cả. Vô trụ là thật tướng của tâm và thế giới. Vô trụ là bản tánh vốn sẵn không có không gian và thời gian. Chính tướng, niệm và trụ, lỗi lầm của tâm, đã tạo ra thế giới sanh tử khổ đau. Các kinh thường nói, ‘‘tâm như con kén tự nhả tơ để trói buộc, giam nhốt mình’’. Thế nên bất cứ khi nào tâm không bị dính mắc, trói buộc vào tướng, niệm, trụ, khi ấy tâm rỗng rang bao la, thông suốt khắp, tâm ấy là giải thoát, là tánh Không (xem Phẩm Trí Huệ thứ 2). Tâm ấy là bản lai diện mục, khuôn mặt xưa nay của mỗi người. Tu hành là đưa tâm trở lại thực tướng của nó, bản tánh của nó, đó là vô tướng, vô niệm và vô trụ. Khi ấy tướng, niệm, trụ hòa vào bản tánh không có không gian không có thời gian, đây là giải thoát. Tướng vẫn có, niệm vẫn có, trụ vẫn có, không biến mất, nhưng tướng là vô tướng, niệm là vô niệm, trụ là vô trụ.
**Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng. Vô niệm là nơi niệm mà vô niệm. Vô trụ là bản tánh của con người.
Bản tánh ấy nơi thiện ác, xấu tốt thế gian, cho đến kẻ oán người thân, khi nói năng xúc phạm, châm chích, tranh cãi, đều xem là Không, chẳng nghĩ đến đáp trả oán hại. Ở trong niệm niệm chẳng nghĩ đến cảnh trước kia. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối nhau chẳng dứt thì gọi là buộc. Nơi các pháp niệm niệm chẳng trụ thì không có gì trói buộc. Ấy là nghĩa lấy vô trụ làm gốc.
**Vô trụ
Bản tánh hay bản tâm là vô trụ.
Một người bình thường có thể hiểu điều này khi nhận thấy một ngày chúng ta có bao nhiêu ý tưởng hay niệm, mà tâm chúng ta chẳng bao giờ đầy. Các ý tưởng, các niệm cứ sanh khởi, ở đó, biến đổi, và tiêu tan trong tâm bao la. Tâm như bầu trời, như hư không mà những đám mây ý tưởng khởi hiện rồi tan biến.
Tâm vô trụ là tâm như bầu trời, như hư không mà không có một đám mây ý tưởng nào có thể trụ lại, có thể dính cứng vào. Nhưng tánh này, tâm này cần phải được ngộ. Bởi vì không có lý luận nào, hình dung nào của ý thức có thể tiếp cận nó, mà những đám mây của ý thức phải tan vỡ ra, để lộ một bầu trời vô trụ. Như ngài Huệ Năng khi thấy nó: ‘‘Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tánh vốn không động lay, nào ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp’’.
(5) Lợi tha
Theo Phật học Từ điển (Đoàn Trung Còn): Lợi là ích lợi, tha là người khác. Lợi tha là làm tất cả những gì có ích lợi cho người và vật. Lợi tha là đối nghĩa với lợi kỷ, ích kỷ tức chỉ nghĩ đến lợi ích cho riêng mình. Trong đạo Phật, lợi tha là vấn đề quan trọng, nó hàm chứa hầu hết tâm nguyện và công việc của một người Phật tử, giúp tiến bước trên con đường đạo. Người Phật tử không bao giờ chỉ thấy có mình mà không thấy có người, có vật khác hoặc chỉ làm lợi cho mình mà không làm lợi cho người hay vật khác.
(6) LỤC ĐỘ VẠN HẠNH
Độ tiếng Phạn là Ba-La-Mật (Pãramitã) có nghĩa là vượt qua, từ mê mờ qua giác ngộ, từ đau khổ qua cảnh giới an vui, từ sanh tử qua Niết bàn.
Lục độ là 6 hạnh có thể đưa hành giả và chúng sanh vượt qua mê mờ đau khổ thẳng tới cảnh giới an vui thanh tịnh.
Sáu hạnh là : Bố thí Ba La Mật, trì giới Ba La Mật, nhẫn nhục Ba La Mật, tinh tấn Ba La Mật, thiền định Ba La Mật và trí tuệ Ba La Mật.
Lục độ Ba-la-mật là pháp tu của hàng Bồ tát, được hiểu một cách khái quát là sáu phương tiện đưa người qua bờ bên kia, tức từ bờ mê qua bờ giác.
Ba-la-mật cũng là mật hạnh, đại hạnh của Bồ tát. Nếu dùng bố thí độ xan tham, trì giới độ phá giới.... thì còn hạn chế trong việc đối trị; ở đây, lục độ với tinh thần Ba-la-mật có sự hài hòa giữa trí tuệ, từ bi và hùng lực.
Bằng trí tuệ, Bồ tát thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do mê muội không nhận ra, nên mãi tạo nghiệp và trầm luân trong sanh tử.
Vì thế, Bồ tát phát khởi lòng từ bi, nguyện độ tận chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Có từ bi, các Ngài có đủ hùng lực, thi thiết mọi phương tiện quyền xảo tùy căn cơ giáo hóa chúng sinh, dù bao nghịch cảnh vẫn không thối chí.
Ba-la-mật còn có nghĩa là cứu cánh, rốt ráo. Mục đích cuối cùng của đời tu, cũng như bản hoài của chư Phật đối với tất cả chúng sanh, là nhận ra và hằng sống với bản tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Đó là Phật tánh, chân tâm, bản lai diện mục... Nhận ra bản tâm là chánh nhân thành Phật, hằng sống trọn vẹn với bản tâm là viên mãn Phật quả.
Lục độ Ba-la-mật gồm sáu phương tiện:
- Bố thí Ba-la-mật
- Trì giới Ba-la-mật
- Nhẫn nhục Ba-la-mật
- Tinh tấn Ba-la-mật
Mặt khác, tinh tấn phải thường xuyên. Nước mềm đá cứng, nhưng nước chảy thường xuyên sẽ làm đá mòn; giọt nước tinh tấn thường xuyên nhỏ trên tảng đá vô minh sẽ soi thủng được đá. Muốn có lửa phải cọ sát hai khúc cây liên tục, cây nóng dần mới phát tia lửa. Một Thiền sư có bài kệ:
Trong cây vốn có lửa
Tia lửa lại sáng lòa
Nếu bảo cây không lửa
Cọ sát sao lại ra?
Trong chúng ta vốn có lửa trí tuệ, phải tinh tấn cọ sát liên tục, lửa trí tuệ ấy mới phát sinh. Nếu có lúc quá ư siêng năng, nhưng có khi lại bê trễ, thì sự tu hành khó đạt kết quả mong muốn. Chúng ta không cần phải có hình thức sinh hoạt gì đặc biệt hoặc tỏ vẻ khác đời, chỉ cần sống và tu một cách bình thường, không biếng nhác lười mỏi trong công phu, đều đặn ngày này qua ngày khác, như thế là hợp lẽ đạo.
- Thiền định Ba-la-mật
Tiến thêm một bước, thiền định là phương tiện cho trí tuệ vô thượng phát sinh. Có những lúc toạ thiền, tâm hoàn toàn rỗng rang vắng lặng, người tu nhận ra từ trong cõi miền sâu xa của tâm thức, có một năng lực vận hành. Đây là cái BIẾT một cách trực tiếp và thấu thể về tất cả các pháp, biết không qua ý thức phân biệt nhị nguyên, khởi nguồn của TRÍ VÔ SƯ, đỉnh cao của cuộc đời tu hành. Tất cả giáo pháp của Đức Phật đều lưu xuất từ trí tuệ này, nên khi Bồ tát có một trình độ tâm linh khả dĩ, thì sự giáo hóa của các Ngài sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho quần sanh. Nhưng thiền định như thế nào mới khế hợp với tinh thần Ba-la-mật?
Thiền định Ba-la-mật là Bồ tát không chấp vào cảnh giới chứng ngộ. Nhà Thiền có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma” để nhắc nhở người tu không được chấp trước, trú trước và nhiễm trước vào những cảnh giới sở chứng, vì đó chỉ là do tâm biến hiện. Bồ tát luôn học và tu theo tinh thần vô sở cầu vô sở đắc, nên không có niệm ưa thích niết bàn hay chán ghét địa ngục, nhờ vậy mới hoàn thành hạnh nguyện độ sanh.
- Trí huệ Ba-la-mật
Trí huệ Ba-la-mật, còn gọi là Bát nhã Ba-la-mật, là trí huệ của một bậc Bồ tát đã quán triệt chân tướng của vạn pháp. Nhờ trí huệ cứu cánh cùng tột này, Bồ tát thiết lập nhiều phương tiện, tuỳ căn cơ trình độ và sở thích của chúng sanh để giáo hóa họ một cách hiệu quả.
Có ba cấp độ Bát nhã:
1. Văn tự Bát nhã: Đây là giai đoạn đầu dành cho người sơ cơ, nhưng rất cần thiết và được xem là bước căn bản. Chúng ta học trên kinh sách, hiểu lời Phật dạy, sau đó suy gẫm và đối chiếu từ bản thân ta đến các pháp bên ngoài. Trí huệ phát sinh từ đọc và nghe giảng (văn huệ) sau đó phân tích suy luận để hiểu thấu vấn đề (tư huệ) là vốn liếng đầu tiên của một Bồ tát trên bước đường hoằng hóa lợi sanh sau này. Do vậy, trong Tứ hoằng thệ nguyệncó câu “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là ý nghĩa thu gom kiến thức, để tự hoàn thiện mình và để tự có khả năng giúp đỡ giáo dục cho người.
2. Quán chiếu Bát nhã: Bồ tát Quán Tự Tại khi hành sâu Bát nhã Ba-la-mật, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ nạn. Chúng ta tu theo Ngài, gia công quán chiếu để thấy rõ thân tâm này do các duyên hợp lại. Đủ duyên thì thành, hết duyên lại trả về không, nên nó không có thực thể. Như vậy, tự tánh của thân tâm ta là không, nhờ duyên hợp nên tạm có. Thân ta như vậy, thân người khác cũng như vậy; cho đến tất cả cáp pháp thế gian và xuất thế, tự tánh đều là KHÔNG. Vào giai đoạn này, vẫn còn phân biệt tâm năng quán và cảnh sở quán, nên chưa phải là rốt ráo.
3. Thực tướng Bát nhã: Bồ tát quán triệt tự tánh Không của tất cả pháp không phải bằng ý thức tư duy suy luận, mà do trí huệ bát nhã thấu rõ đương thể tức không. Ở đây không còn phân biệt Ta-Người năng sở, mà cả hai đều hòa nhập, viên dung trong trạng thái nhất như. Bồ tát thâm nhập chân lýtuyệt đối, không phải ở một thế giới nào đó xa xôi, ở một thời khắc nào đó của tương lai không với tới, mà ngay thế giới trần tục. Ngay mảnh đất thực tại nhận chân được thực tướng của vũ trụ vạn pháp. Đây chính là trí huệ Ba-la-mật.
TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN
Tứ hoằng thệ nguyện, tứ hoằng thệ nguyện là bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo thuộc về các tông phái Đại thừa. Tùy theo cách dịch, lời lẽ và thứ tự sắp xếp của các đại nguyện này có ít sai biệt nhưng hầu hết xoáy quanh bốn câu sau đây:
- Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ—Tức là Nguyện giải thoát vô số chúng sinh.
- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn —Tức là Nguyện đoạn tuyệt với vô vàn phiền não
- Pháp môn vô lượng thệ nguyện học —Tức là Nguyện tu học Phật pháp nhiều vô lượng
- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành —Tức là Nguyện đạt thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác
(7) “Uổng công thôi hỏi sắc cùng không,
Học đạo gì hơn phỏng Tổ tông.
……
Đại dụng hiện tiền tay nắm vững,
Ai phân phàm Thánh với tây đông”.
(8)
Sư mới dạo khắp các thiền hội, tìm bạn đạo và học hỏi thêm. Đạo duyên thuần thục, Sư về quê nhà trùng tu ngôi chùa Long Hoa rồi trụ trì tại đây. Hằng ngày ngoài giờ tu tập thiền luật, mọi hoạt động Sư đều nhắm vào tâm niệm lợi tha.
Năm Thiên Tư Gia Thụy thứ tám (1193) nhằm năm Quí Sửu, ngày 12 tháng 8, Sư tịch, thọ 73 tuổi. Môn đệ là Pháp Ký soạn văn bia chùa ghi rằng:
Sư sanh đồng thời, họ Lý trị đời,
Sáu độ đâu quên, tứ hoằng nào bỏ.
Chỗ uống trà, là chỗ thập phương thí chủ dồn về,
Khi chống tích, bốn bộ học đồ qui tụ.
Thần thông khó lường, huyền dụng khôn xét.
Tư chẳng đến trường Phật giác thì đâu thể nêu cao thắng nghiệp.
Thực là vầng trăng báu trong bầu trời, là hoa pháp của linh hồn xóm làng...
(Sư sanh đương Lý nhật xuất trị minh thời.
Lục độ ninh vong, tứ hoằng vật xả.
Hương bôi phù xứ, thập phương tín chủ ba tùy.
Tích trượng chấn thời, tứ bộ học đồ vụ tập.
Thần thông cự trắc, huyền dụng nan lượng.
Tự phi phó Phật giác tràng, an năng du dương thắng nghiệp.
Chân sở vị: Thích thiên bảo nguyệt, pháp uyển hồn thôn...)
(9)
Giải thích thắc mắc từ Đạo hữu Bảo Minh Toàn " thế nào là nói năng như chánh pháp Thế nào là Im lặng như Chánh pháp "
(10) kinh Thánh Cầu trong Trung Bộ Kinh bài 22
Khách thập phương viếng thăm cảnh chùa đôi khi bắt gặp câu “Nói năng như Chánh pháp” được thể hiện đâu đó trong khung cảnh trang nghiêm thanh nhã
Đó là câu nói khá quen thuộc của nhà Phật, cốt yếu khuyên nhắc những người con Phật, đặc biệt là người xuất gia, cần phải lưu tâm gìn giữ và vận dụng lời nói của mình sao cho phù hợp với Chánh pháp hay thể hiện lời nói đúng như lời Phật dạy. Nghĩa là những lời nói ra phải bảo đảm mang lại lợi ích cho mình và lợi lạc cho người khác.
Đức Phật khuyên chúng ta nên nói đúng thời, nói lời chân thật, nói lời nhu thuận, nói lời có lợi ích và nói với lòng từ bi thương quý mọi người. Ngài nhắc nhở các đệ tử:
“Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Thầy có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ- kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Thầy cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, như vậy các Thầy cần phải học tập”2.
Đúng thời tức là lời nói ra phải đúng lúc, hợp thời, đúng đối tượng, khiến cho người nghe có thể tiếp thu lời nói một cách có hiệu quả. Một người đang ăn hay đang mải mê làm công việc mà nói cho người ta nghe về điều gì đó thì không đúng lúc và lời nói sẽ không có hiệu quả. Hãy để cho người ta rảnh tay đã rồi mới nói thì lời nói mới có tác dụng tốt đẹp. Tương tự, một người đang học cấp một mà nói những vấn đề thuộc trình độ cấp ba thì cũng không đúng lúc và lời nói cũng không có hiệu quả.
Chân thật tức là lời nói ra phải chân chánh đúng đắn, xuất phát từ tâm chân trực, thẳng thắn, không thiên vị, không vụ lợi. Kinh Phật gọi là “nói như hoa”, nghĩa là lời nói đúng sự thật, thấy thì nói có thấy, không thấy thì nói không thấy; biết thì nói có biết, không biết thì nói không biết; nghe thì nói có nghe, không nghe thì nói không nghe3…
Nhu nhuyến tức là lời nói ra phải nhẹ nhàng, từ tốn, hiền hòa, thuận tai, dễ nghe, khiến người khác hoan hỷ, hài lòng, phát khởi lòng tin hướng về thiện pháp. Kinh Phật gọi là “nói như mật” hay nói lời từ tốn, tức là “lời nói không hại, khiến tai ưa nghe, khả ái, đi thẳng đến tâm, lễ độ, được nhiều người ưa thích, được nhiều người thích ý”4, hay “mặt đối mặt với ai, không nói lời mất lòng; chỉ nói từ từ, không có vội vàng”5.
Có lợi ích nghĩa là lời nói ra phải bảo đảm đưa đến lợi lạc cho người nghe, khiến cho người nghe phát khởi tín tâm, tăng trưởng điều lành, giảm thiểuđiều ác, tăng trưởng giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoát và giải thoát tri kiến đức. Để làm được điều này, người con Phật phải biết tránh đề cập các vấn đề thuộc lãnh vực dục vọng thế gian, chỉ tập trung thảo luận hay làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến Phật pháp, khiến cho người nghe tăng trưởng tín tâm mà chuyên tâm thực hành lời Phật dạy6.
Có từ tâm nghĩa là lời nói ra phải xuất phát từ động cơ thương quý người khác, mong muốn cho người nghe được lợi ích an lạc, không phải vì ghét bỏ hay do sân hận bực phiền mà “trút lên đầu người ta” những lời báng bổ. Đức Phật khuyên các học trò mình nuôi dưỡng thái độ tôn trọng và thương quý người khác bằng cách thực thi thân hành từ ái, khẩu hành từ ái, ý hành từ ái đối với hết thảy mọi người, cả trước mặt lẫn sau lưng7. Khẩu hành từ áitức là những lời nói ra có từ tâm, xuất phát từ lòng thương quý người khác, mong muốn cho người khác được tiến bộ lợi lạc trong thiện pháp.
Để hỗ trợ cho việc thực thi lời nói có hiệu quả tốt đẹp, nghĩa là đúng thời, chân thật, nhu nhuyến, có lợi ích và có từ tâm, Đức Phật khuyên mỗi người chúng ta cần phải biết nuôi dưỡng tâm ý trong sáng, không biến nhiễm, có lòng lân mẫn đối với người khác, có nội tâm an tịnh, không hận, không sân, tuyệt không nói lời ác. Bởi mỗi lời nói hay việc làm là hiện thân của ý tưởng hay hệ quả sự vận hành của tâm thức. Vì vậy, nếu một người có tâm ý trong sạch, an tịnh, không cấu uế, không giận dữ bực phiền, có lòng thương quý người khác thì tự nhiên sẽ có lời nói chân chánh, hiền thiện, lợi mình lợi người. Tâm trong sáng hiền thiện thì lời nói trong sạch hiền hòa.
Nhìn chung, “nói năng như Chánh pháp” hay thực thi lời nói phù hợp với Chánh pháp, đúng như lời Phật dạy, là một pháp môn tu tập hết sức căn bảnvà quan trọng của người con Phật. Tu tập lời nói thuộc về phạm trù đạo đức, giúp cho cá nhân cơ hội thực tập và hoàn thiện nhân cách của chính mình, đồng thời khiến cho cuộc
sống trở nên hiền thiện tốt đẹp, đưa đến hạnh phúc an lạc cho nhiều người. Do tầm quan trọng của nó trong cuộc sống, đạo Phật xem lời nói là một phương tiện hữu hiệu, cần được sử dụng đúng đắn và thích đáng để thiết lập hạnh phúc cho mình và tạo an lạc cho người khác. Nói như thế nào để không gây tổn hại cho mình và không phương hại đến người khác, để mang lại lợi ích cho mình và lợi lạc cho người khác. Người con Phật luôn tự dặn lòng mình như thế và tìm thấy các chỉ dẫn căn bản cho việc thực thi lời nói của mình thông qua những lời dạy hiền dần tới nấm mồ hoặc lò hỏa thiêu.
(11)
Kinh Vương Tử Vô uý , Trung bộ Kinh bài thứ 58 trích đoạn .....
Lúc bấy giờ, có đứa con nít ngây thơ nằm giữa trên đầu gối của Vương tử Abhaya. Rồi Thế Tôn nói với Vương tử Abhaya:
-- Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Nếu đứa con nít này, do sự vô ý của Vương tử, hay do sự vô ý của người vú hầu, thọc một cái que hay nuốt một hòn đá vào trong miệng, vậy Vương tử phải làm gì?
-- Bạch Thế Tôn, con phải móc cho ra. Bạch Thế Tôn, nếu con không thể móc ra lập tức, thời với tay trái con nắm đầu nó lại, với tay mặt lấy ngón tay làm như cái móc, con sẽ móc cho vật ấy ra, dầu có phải chảy máu. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì con có lòng thương tưởng đứa trẻ.
-- Cũng vậy, này Vương tử, lời nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy. Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai ở đây biết thời giải thích lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, Như Lại không nói lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như Lai không nói lời nói ấy. Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, ở đây, Như Lai biết thời giải thích lời nói ấy. Vì sao vậy? Này Vương tử, Như Lai có lòng thương tưởng đối với các loài hữu tình