Ngày anh ra đi, tôi không được biết. Một tuần sau, Xuân Trang gọi điện thoại từ Mỹ báo tin anh đã mất. Tôi lên đồi thông Phương Bối, chỉ nhìn thấy anh ngồi trên bàn thờ với nụ cười châm biếm, ngạo nghễ mà tôi thường gặp mỗi lần lên thăm chị Phượng và các cháu.
Tôi được biết gia đình anh Nguyễn đức Sơn qua sư cô Chân Không. Dạo ấy, khoảng năm 1986, sư cô có nhờ tôi cứ 3 tháng mang số tiền 100 usd lên cho gia đình anh. Tới Bảo Lộc tôi nhờ 2 người con của Bác Toàn dẫn tôi lên gặp anh. Trước khi đi, bác Toàn có can ngăn tôi: Cô đừng đi, đường lên Phương Bối khúc khuỷu, cây rừng rậm rạp khó đi, hơn nữa ông Sơn kỳ quái lắm, ông ấy không muốn nhận sự giúp đỡ, mà nếu có nhận, ông ấy không cảm ơn, còn chửi người cho nữa. Tôi mỉm cười:
Không sao đâu, tôi chịu được mà!
Đường lên Phương Bối khó đi. Chúng tôi lách qua đám tre rừng, thật vất vả. Cơn mưa cuối mùa và gió lạnh đang kéo tới, chúng tôi phải đi nhanh để kịp đến nhà ông Sơn, một nhân vật quái đản -theo lời nhận xét của gia đình ông Toàn.
Căn nhà cũ nát hiện ra cùng một người đàn ông gầy còm, khuôn mặt khắc khổ. đôi chân gầy yếu đang đạp, vò đám lá chè tươi.
"Đây là ông Nguyễn đức Sơn mà ba cháu vừa giới thiệu với cô", con trai ông Toàn nói.
Tôi cúi đầu chào ông, khẽ nói: Tôi là Thuần, người được sư cô Chân Không nhờ tôi lên thăm gia đình ông. Tôi thật vui khi được đặt chân lên mảnh đất Phương Bối này, được gặp nhà văn Nguyễn đức Sơn, gặp các cháu nhỏ và vợ anh
Ông rất vui vẻ, thân thiện, không khó ưa như người ta đồn đãi.
Thế rồi, ông đi kiếm rau làm bữa cơm chiều. Bữa cơm được dọn ra trên manh chiếu, bên thềm, chỉ có vài đôi đũa, bát và một đĩa nhỏ bầy mấy miếng chả bắp, chín vàng thơm phức. Dưới ánh trăng rừng, gió se lạnh tôi cảm thấy ấm áp khi nhìn thấy gia đình anh hạnh phúc. Tôi ngước nhìn ánh trăng, thầm cảm ơn sư cô đã gửi tôi về Phương Bối để được hưởng những giây phút êm đềm.
Tối hôm đó, tôi ngủ lại trên căn gác, giống cái nhà kho, chứa đầy quần áo cũ và những vật phẩm người ta cho.
Tôi không thể nào chợp mắt được, nằm nghĩ đến thân phận con người, đến thời thế đổi thay. Như rừng thông tươi tốt đang vươn sức sống, bỗng nhiên bị đám người vô lương tri đến tàn phá không chút tiếc thương. Tôi nhin xa xa, dưới làn sương mù, lẩn trong rừng thông cháy xém, tôi thấy dáng người đang lom khom hái từng cây nấm. Bữa ăn sáng, Anh đãi tôi món nấm xào thơm, hương vị núi đồi Phương Bối.
Tôi phải về Saigon, còn đi dạy học. Anh tiễn tôi ra về, băng qua cánh đồi thông cháy dang dở, có cây trơ trụi gốc, để lộ những búp thông non vừa hé mọc, có cây bị cháy một nửa, những cành thông non cố vươn lên giữa đám thông còn những vết cháy đen xì.
Anh kể tôi nghe, một mình Anh đã cố ngày đêm trồng rừng thông này. Công việc tuy vất vả, nhưng anh rất vui vì đã tạo ra mội rừng thông xanh tốt. Qua bao năm tháng trông nom, hàng ngày đi dạo trong rừng thông, Anh cảm thấy hài lòng với điều anh đã chọn lựa
Thế rồi, vào một ngày Anh về Saigon thăm vài người bạn trong nhóm Làng Văn và gửi lá thư đi Pháp, thì trong lúc đó đồi thông yêu quí của Anh đã bị bọn người dã man đến tẩm xăng đốt trụi cả khu rừng !.
Từ đó Anh trở thành một con người khác, bất mãn và căm thù. Anh căm thù chính bản thân mình, căm thù vợ con, và căm thù xã hội. Anh thấy mình chơi vơi giữa một khối đen ngòm, càng dãy dụa thì thân mình anh càng bị quấn chặt trong khối đen u tối ấy.
Anh trở thành con người bất cần, chửi bới cả thiên hạ, những người nổi tiếng, có chức có quyền, mà tâm địa thì tanh tưởi. Anh chê luôn cả Chúa cả Phật, cả những vị đạo cao đức trọng, Anh nghĩ họ là những người đạo đức giả.
Nguyễn đức Sơn đã trở thành một chí phèo bán thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 như thế.
Nhưng Nguyễn đức Sơn đáng yêu hơn Chi Phèo, vì Anh đã được thấm nhuần Phật Pháp, Anh và cả gia đình ăn chay trường, Anh chưa hề giết một con sâu, con kiến, chưa hề hại ai, chỉ luôn giúp đỡ những người cô thế, cơ nhỡ
Anh giữ gìn 25 mẫu đất Phương Bối cho Thầy Nhất Hạnh, giữa những kẻ tham lam tàn bạo, Anh đã đem bản thân và tính mạng của gia đình đấu tranh với sự sống còn để giữ gìn từng tấc đất, vì Anh có niềm tin vững chắc rằng RỪNG CÂY PHƯƠNG BỐI LÀ THÁNH ĐỊA, là ngọn đồi kết tụ khí thiêng của Trời Đất, là tinh hoa của Thiền Sư NHẤT HẠNH đã làm sáng rỡ bốn biển năm châu bằng dòng Thiền Chánh Niệm của Phật tổ Thích Ca.
Với niềm tin như thế và phong cách sống khắc khổ, bất cần và đôi lúc tâm tư nổi loạn, Nguyễn đức Sơn đã sống rất thật với chính mình, tương tự như thi sĩ Bùi Giáng, cả 2 đã sống điên điên, khùng khùng giữa chợ đời xã hội chủ nghĩa. Thế nhân nhìn những người này thì tưởng họ điên nhưng thật ra họ là những người thức tỉnh. Chỉ có chúng ta mới là những kẻ điên, kẻ say giữa cuộc sống hỗn loạn. Chúng ta đang quay cuồng trong danh vọng, vật chất phù du, mang trong mình những căn bệnh thời đại và trái tim đầy thương tích.
Bước đi chậm rãi bên anh, tôi lắng nghe từng lời tâm sự phát ra từ tấm lòng chân thành pha chút đắng cay:
Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho giáo. Ba tôi rất nghiêm khắc, nóng tính. Ông đối xử với tôi cay nghiệt, cọc cằn. Tôi là đứa trẻ ngang bướng, thế nên tôi đã bỏ nhà ra đi tự bươn chải và cố gắng lên đại học. Tôi được một vị sư giúp đỡ cho ở chùa, tôi nghiên cứu đạo Phật và thấm nhuần giáo lý khá sâu. Tôi làm văn hóa. Cuộc sống tôi thăng hoa từ nếp sống thiền môn, tôi làm thơ, viết văn, sống như một lãng tử. Tôi gặp Phượng ở chùa. Phượng là cháu vị trụ trì, Phượng đẹp dịu dàng, có nét đẹp tây phương và nụ cười e lệ. Lúc đó có anh chàng nhạc sĩ họ Trịnh, anh ta cũng yêu Phượng say đắm, nhưng anh ta nhút nhát, nên người thắng cuộc là tôi.
Sau biến cố 1975, hai chúng tôi không có mái nhà để dung thân. Mọi người ngơ ngác trước cảnh đổi thay, người thì tìm đường thoát thân, người thì về quê để nương tựa. May quá, Trời Phật vẫn còn thương xót nên xui khiến chúng tôi gặp Thầy Châu Toàn, Thầy giao cho chúng tôi bản hồ sơ 25 mẫu đất của Thầy Nhất Hạnh ở Phương Bối, xã Đại Lào, Bảo Lộc, bảo chúng tôi về đó ở và trông coi đất cho Thầy Nhất Hạnh, mai mốt Thầy Nhất Hạnh về sẽ xây dựng Rừng Thiền.
Tôi và Phượng dắt díu nhau lên rừng Đại Lào, tôi rất thích núi rừng, mặc dù lúc đó cánh rừng còn hoang vu. Tôi bắt đầu cuộc sống cơ cực. Phượng thì hái lá chè tươi còn tôi thì chặt Măng mang xuống chợ đổi lấy chút gạo, muối.. Lúc đó sức khỏe tôi còn tốt, tôi bắt đầu làm rẫy để Phượng trồng khoai, rồi tôi xin bên nông nghiệp những cây thông con về trồng.
Cuộc sống tuy cực khổ nhưng chúng tôi rất hạnh phúc, rồi những đứa con lần lượt ra đời như bầy heo rừng. Cùng quẫn, nghèo khổ, tôi trở nên cộc cằn, thô lỗ, coi con cái là lũ nợ luân hồi. Mặc dù tôi rất thương chúng, nhưng không thể hiện được tình cảm.
Hàng xóm, họ coi tôi như gã vũ phu, quái vật, họ bịa đủ điều nói xấu tôi.
Tôi ngắt lời anh:
Anh tự kỷ vậy, chứ chiều hôm qua tôi thấy Phượng khen anh đủ điều, nào anh chăm sóc rất chu đáo những lúc cô ấy ốm đau, nào anh thương con cái, chăm lo khi các cháu bị bệnh, nấu cơm, giặt quần áo cho chúng….
"Tôi cảm ơn Thuần vì chị đã thanh minh cho tôi, chứ tiếng xấu đó nhiều lúc khiến tôi ấm ức, đôi lúc cùng quẫn " Sơn lên tiếng
Anh đi cùng tôi quay lại nhà bác Toàn, tuy khoảng cách từ đồi Phương Bối thật xa, nhưng sao tôi thấy chân không mỏi. Vừa vào đến nhà bác Toàn, anh bỗng dưng nổi cơn thịnh nộ. Khuôn mặt vui vẻ biến mất, anh trở nên một con người khác hẳn, anh mỉa mai, nhiếc móc tôi không tiếc lời. Tôi thật bất ngờ nhìn anh, chỉ thấy tràn dâng một niềm xót thương.
Anh tiễn tôi lên xe về Thành Phố. Anh nắm chặt tay tôi như không muốn buông ra.
Tôi ngồi trên xe, nhìn thấy anh liên tục vẫy tay, rồi anh chạy theo xe, chạy mãi cho đến khi chiếc xe mất hút trong đám sương mai.
Xe đi ngang đèo Bảo Lộc, nhìn từng khối sương mù phủ kin lưng đèo, nhớ lại khuôn mặt nhợt nhạt của Phượng, vợ anh, nhớ lại khuôn mặt bầy trẻ nhỏ, chúng ngơ ngác, ngây thơ, vô tội, tôi cảm thấy niềm xót thương với gia đình Phượng hay với chính bản thân tôi ?.
Hôm nay dịp 49 ngày từ lúc anh ra đi, tôi đang có mặt ở đây cùng với Sư cô Chân Không, với vợ con anh và những người quý mến anh, chia sẻ với anh những lời chân tình nhất
Kỷ niệm của tôi với gia đình anh, nói bao giờ mới hết. Tôi mới chỉ ôn lại một chút để anh nghe, để anh thấy rằng trên thế gian này còn rất nhiều người thương anh. Cô Phượng, vợ anh, một hiền thê luôn nhẫn nhục, cam chịu trước mọi nỗi khổ đau, hy sinh cho chồng, cho con. Các con anh bây giờ đã trưởng thành, các cháu rất thương bố và hãnh diện có người cha là Nguyễn đức Sơn. Các cháu sẽ nối tiếp con đường của Anh, lương thiện, thẳng thắn, chính trực, sẽ thực hiện theo nguyện vọng, di chúc của anh, sẽ làm vẻ vang cho dòng họ NGUYỄN ĐỨC SƠN, sẽ cùng sư ông Nhất Hạnh và Tăng Thân Làng Mai làm đẹp và rạng rỡ NÚI RỪNG PHƯƠNG
Đồi Phương Bối, 29-7-2020
Chân Y Nghiêm
(Phan Thị Thuần)