Bốn lần Pháp Nạn của
Phật giáo Trung Quốc
Tác giả: Hàn Cảnh Đồng
Thích Nữ Liên Viên dịch
---o0o---
Vào những năm cuối đời Đông hán, sau khi Phật giáo truyền vào TQ, trải qua những năm chiến loạn của các triều đại như Tam quốc, Tây Tấn 16 nước và Nam Bắc triều, trong chiến tranh và khổ nạn như thế, Phật giáo đã truyền bá 1 cách nhanh chóng. Các lịch đại vương triều, từ việc giữ gìn, bảo vệ chiếc ngai vàng của mình lâu dài vững mạnh, đã biết áp dụng, lưïa chọn chính sách bảo vệ và đề xướng giáo lý Phật giáo. Do vậy, chùa chiền và số lượng tăng chúng không ngừng tăng thêm. Từ đó dẫn đến Phật giáo và tôn giáo bản địa như Nho – Lão xảy ra xung đột tư tưởng, rồi dẫn đeán một số tệ đoan trong xã hội đương thời. Vì thế, những trang sử Trung Quốc, một số triều đại vui chúa hạ lệnh cấm Phật Giáo truyền bá, từ đó tạo thành trên lịch sử Phật giáo 2 chữ “Pháp nạn”. Nỗi bậc nhất là 4 lần pháp nạn phát sinh vào thời kỳ Bắc Ngụy Thái Võ Đế, Bắc Châu Võ Đế, Đường Võ Tông và Ngũ Đại Hậu Châu Thế Tông, sửû xưng “Tam Võ Nhất Tông Cấm Phật”.
1. Bắc Ngụy Thái Võ Đế diệt Phật
Sau khi vương triều Tây Tấn diệt vong, các du mục dân tộc thiểu số ở phương bắc như: Hung Nô, Tiên Ti, Hạc, Thị, Khương v.v... giành giật chiếm lĩnh vùng Trung Nguyên, mở ra những cuộc chinh chiến liên tục, không dứt. Do quan hệ chủng tộc và văn hóa, các dân tộc thiểu số này phần đông đều rất tín ngưỡng Phật giáo, họ mời các vị Đại sư, Cao Tăng từ Trung Á đến phong làm Quốc Sư. Tạo điều kiện thuận lợi cho Chùa chiền cũng như ủng hộ tăng lữ. Từ đó thúc đẩy Phật giáo tại phương Bắc Trung Quốc được truyền bá nhanh chóng và mạnh mẽ.
Phật giáo không ngừng hưng thịnh khiến cho giữa Phật giáo và Đạo Giáo phát sinh xung đột nghiêm trọng. Đạo giáo lúc bấy giờ luôn bị lu mờ. Nhưng tình huống này đến đầu triều Bắc Ngụy thì đã có sự biển chuyển. Thời đó, có Đạo sĩ Khấu Hạo, ông ta rút ra bài học kinh nghiệm thành công từ Phật giáo, sau đó đối với giáo nghĩa, giới nghi, tổ chức v.v... tiến hành 1 cách tân lớn cho Đạo giáo, làm ảnh hưởng, tác động lớn đến vua chúa quan lại. Thừa tướng Thôi Hạo hết lòng tin theo Đạo giáo, ông ta quan hệ qua lại mật thiết với Đạo sĩ Khấu Hạo để cùng nhau tính kế đẩy lùi địa vị Phật giáo trong xã hội.
Vua Thái Võ Đế (CN 423 – 451 tại vị) tôn sùng võ công, đã từng phát động nhiều trận chiến tranh chinh phạt. Do đương thời Phật giáo thịnh hành, người xuất gia rất nhiều, khiến cho lực lượng sản xuất quốc gia giảm đi nghiêm trọng đồng thời đời sống binh sĩ thiếu nguồn cung cấp lương thực. Vì vậy, vào năm 438 Thái Võ Đế hạ chiếu lệnh tăng lữ dưới 50 tuổi phải hoàn tục làm dân. Năm kế tiếp, do kiến nghị của thừa tướng Thôi Hạo, Thái Võ Đế maïnh mẽ tuyên bố tin thờ Đạo Giáo và đổi niên hiệu là “Thái Bình Chân Quân”, phong Đại Sĩ Khấu Hạo làm Quốc Sư. Từ đó, bắt đầu cho một trận diệt Phật với quy mô lớn.
Từ tháng giêng đến rằm tháng 2 của năm thứ 5 niên hiệu Thái Bình Chân Quân (năm 444) Thái Võ Đế hạ lệnh trên từ vương quốc công thần, dưới đến bần dân lê thứ, bất luận trong nhà nào có nuôi dưỡng, cúng dưỡng Sa môn nào đều phải giao nộp ra. Vua còn ra chiếu lệnh phỉ baùng Phật giáo là “Tây Nhung hư tiên, vọng sinh yêu nghiệt”. Có nghĩa rằng Phật giáo chỉ là nước dãi của dân tộc thiểu số, sẽ sinh ra quái dị. Đấy là lần pháp nạn đầu tiên sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc. Vào tháng 9 cùng năm, 2 vị Cao tăng nổi tiếng là Huyền Cao và Huệ Sùng từ Kinh Châu đến đã bị giết hại. Năm 446 Cái Ngô ngoài biên thùy khởi binh phản loạn, Thái Võ Đế thân chinh cầm binh bình loạn. Tại Trường An, vua phát hiện 1 số chùa tàn trữ binh khí và lương thực, đặc biệt là trong chùa còn xây nhiều hầm bí mật chuyên dụng. Vua liền nổi cơn thịnh nộ hạ lệnh tàn sát hết tăng lữ thành Trường An, đồng thời ra lệnh cho Thái Tử Hoảng Thông đang trông coi kinh thành tuyên bố diệt Phật giáo phạm vi toàn quốc. Đốt hủy tất cả kinh sách, tượng Phật, hảm hại và tàn sát tất cả sa môn. Nhưng do Thái tử từ nhỏ đã tin theo Phật giáo nên đã tùy duyên kéo dài hiệu lệnh thi hành chính sách diệt Phật, do vậy mà 1 số tăng chúng đã có thời gian chạy thoát khỏi nạn kiếp này, dù sao lần diệt Phật này đã tạo cho Phật giáo 1 thiệt hại, tổn thất to tác.
2.Bắc Châu Vua Võ Đế diệt Phật
Thời gian Vua Thái Võ Đế diệt Phật không lâu lắm. Sau khi Thái Võ Đế băng hà thì Văn Thành Đế lên ngôi và Phật giáo lại được khôi phục và phát triển trở lại. Nhưng sự xung đột mâu thuẫn giữa Phật giáo và Đạo giáo không những không có hướng giải quyết, mà còn càng ngày càng gay gắt mạnh liệt hơn.
Vua Võ Đế (560-578 tại vị) là vị vua đã có cống hiến rất lớn cho sự nghiệp thống nhất đất nước Trung quốc. Lúc vua vừa kế vị thì cũng giống như những triều đại trước, đề xướng hoằng bá rộng rãi Phật giáo, tán thán ca ngợi Tăng đồ. Nhưng trị vì được khoảng thời gian dài, vua chuyển tâm tín ngưỡng nho giáo. Vua cho rằng chỉ có Nho Giáo mới cung cấp chính sách trị quốc tốt, còn chùa chiền Phật giáo thì tích góp của cải vật chất, tranh dành lòng dân với đất nước, rất nguy hại đến sự ngôi vị thiên tử của mình.
Năm 567, 1 vị Sa môn đã hoàn tục tên là Vệ Nguyên Tung dâng sớ lên hoàng đeá kiến nghị giảm chùa chiền và số lượng tăng chúng và được Châu Võ Đế tỏ ý khen ngợi. Để được công chúng dư luận đồng tình ủng hộ, vua Võ Đế đã 7 lần triệu tập cả trăm quan lại văn võ cùng các nhân vật lãnh đạo cuûa 3 đạo giáo Nho – Phật – Đạo biện luận để tranh ngôi thứ tự trước sau trong xã hội. Năm 568, để biểu thị nhà vua đối với Nho giáo có phần chú trọng, Châu Võ Đế đã đích thân giảng “Lễ Ký” kinh điển của Nho gia trước quần thần, Sa môn, Đạo sĩ. Nhưng do vì tư tưởng và thế lực của Phật giáo, Đạo giáo đã cắm sâu gốc rễ vào lòng dân nên không dễ gì lung lay, nên qua bao lần tam giáo biện luận trong kế hoạch của Vua nhưng vẫn không có kết quaû làm vừa ý, do vậy vua không thể không dùng 1 số biện pháp kiên quyết.
Vào tháng 3 năm 574, Đạo sĩ Trương Tân và Tăng sĩ Trí Huyền đã mở ra cuộc tranh luận kịch kiệt từ trước chưa bao giờ có ngay trước mặt Châu Võ Đế. Traän tranh luận này đủ để vua thừa cơ hội hạ quyết tâm diệt 2 tôn giáo này. Sáng sớm hôm sau, Vua lập tức hạ chiếu diệt sạch 2 đạo Phật giáo và Đạo giáo. Tất cả Sa môn, đạo sĩ đều phải hoàn tục, chùa chiền, tài sản đeàu phân phát hết cho thần dân. Chiếu chỉ vừa ban xong, trong cung thành phát động mạnh mẽ phong trào”diệt Phật”, “diệt Đạo”. Có thể nói, lần này Phật giáo gặp phải sự đả kích tương đối nghiêm trọng hơn so với Đạo giáo. Thaùng giêng năm 577, Châu Võ Đế cầm binh vây đánh vào thành của nước Bội, đè bẹp chính quyền Bắc Tề. Ngay lập tức, Vua hạ lệnh triệu tập hơn 500 tăng lữ thành Bồi vào trong cung nội nghe Vua giảng giải về điều tốt xấu, mạnh yếu giữa đạo Phật và Nho giáo, đồng thời hạ lệnh diệt Phật toàn vùng trung nguyên Bắc Tề. Căn cứ sử Phật giáo ghi lại, lúc đó hơn 500 vị tăng đều yên lặng không nói 1 lời, cuối đầu rơi lệ. Sau đó, cũng có rất nhiều tăng sĩ đứng ra cùng vua biện luận sự lợi ích được mất của chính sách diệt Phật nhưng hoàn toàn không có hiệu quả gì. Pháp lệnh diệt Phật trong những năm Châu Võ Đế trị vì phải nói là được thực hiện rất triệt để.
3.Đường Võ Tông diệt Phật
Bắc Châu Võ Tông diệt Phật cũng giống như Bắc Ngụy Thái Tông diệt Phật, và thời gian cũng không kéo dài được bao lâu. Năm 578, Châu Võ đế giá băng, Châu Tuyên Đế kế vị, tất cả pháp lệnh diệt Phật đều hủy bỏ hết. Sau đó suốt khoảng thời gian gần 3 thế kỷ, không có phát sinh một đại quy mô diệt Phật nào. Dưới hai triều đại Tùy, Đường, tuy các vua chúa có xu hướng gần gủi Đạo giáo hơn nhưng đối với Phật giáo - một tôn giáo đã sớm gắn sâu vào lòng người dân Trung Quốc - thì vua quan của 2 triều đại này cũng cố gắng áp dụng tư tưởng Phật giáo trong việc khuyến hóa dân chúng, vì thế tầm quan trọng cũng như mức độ ảnh hưởng trực tiếp của Phật giáo đối với đời sống dân chúng và sự hưng thịnh quốc gia đã đạt đến thời kỳ cực thịnh và đã được ghi nhận trong lịch sử Trung Quốc.
Nhưng sự đấu tranh tư tưởng giữa Phật - Đạo - Nho vẫn không ngừng dù là trong 1 khoảnh khắc. Trãi qua thời gian dài sống trong hòa bình và phát triển, các tự viện cũng như 1 số hoạt động không đúng pháp của Phật giáo sinh ra sự nguy hại trực tiếp đến kinh tế quốc gia và đời sống người dân moãi ngày càng trầm trọng. Cứ như vậy tích lũy dần, sau cùng thai nghén thành sự kiện Đường Võ Tông (840-846 tại vị) ra pháp lệnh đại quy mô diệt Phật.
Trước lúc Đường Võ Tông kế vị, Đường Kính Tông, Văn Tông đã bắt đầu có sự kiện đào thảy tăng ni, cấm xây cất tự viện. Sau khi Võ Tông kế vị, liền mời đạo sĩ Triều Quy Chân vào cung và một mực tin theo lời của ông ta. Tể tướng Lý Đức Dụ cũng viết sớ trình tấu chỉ trích Phật giáo là nguy hại của quốc gia cần nên tiêu diệt. Võ Tông tánh khí vốn nóng nảy, quyết đoán, nên sau khi nghe nhiều phản ánh từ các quan thần thân cận liền hạ chiếu diệt Phật vào niên hiệu Hội Xương thứ 5 (CN 845). Chiếu lệnh quy định 2 vùng Trường An, Lạc Dương mỗi no8i chỉ giử lại 2 ngôi tự viện, mỗi chùa chỉ cư trú tu tập 30 vị. Ngoài ra các tỉnh thành khác trong nước mỗi nơi chỉ giữ lại 1 ngôi chùa, tăng chúng tu trì chỉ từ 5 đến 20 vị. Còn lại các chuøa tự, tịnh thất, am tranh tất đều bị tháo dỡ. Tài sản, ruộng vườn đất đai của chùa đều bị tịch thâu, tăng ni hoàn tục, các tượng Phật đúc bằng đồng cho đến đại hồng chung, chuông, khánh v.v.v... đều bị nấu đúc thành tiền đoàng. Theo lịch sử ghi lại, lần diệt Phật này, gồm có hơn 4600 ngôi chùa bị tháo dở, khoảng 64 ngàn tăng ni hoàn tục, tịch thu mấy trăm ngàn mẫu đất ruộng canh tác. Mãi đến thời kỳ Ngũ Đại, khắp nơi vẫn còn thấy dấu tích “Võ Tông diệt Phật”. Lúc bấy giờ có vị tăng pháp hiệu Viên Nhân người Nhật, đúng lúc đến Trung Quốc thỉnh kinh cầu pháp. Ngài đã chứng kiến sự kiện diệt Phật của vua Võ Tông. Sau khi về nước, Ngài đã viết cuốn “ Nhập Đường cầu pháp tuần lễ hành ký” tường tận ghi lại suốt lộ trình những gì tai nghe mắt thấy, phản ánh chính sách diệt Phật của Đường Võ Tông quá nghiêm khắc, khắc nghiệt. Do niên hiệu Đường Võ Tông trị vì là “Hội Xương” neân sự kiện diệt Phật của ông ta được các nhà viết sử Phật giáo Trung Quốc xưng là “Pháp nạn Hội Xương”.
4. Ngũ Đại Hậu Châu Thế Tông diệt Phật
“Pháp nạn Hội Xương” là bước ngoặc lịch sử trong sự nghiệp phát triển Phật giáo Trung Quốc. Từ đó trở đi, Phật giáo tại Trung Quốc bắt đầu từ hưng thịnh chuyển qua giai đoạn suy yếu. Sau khi Đường Võ Tông băng hà, Phật giáo lại một lần nữa được phục hồi sôi nổi sinh động lại, nhưng vẫn không theå trở về đỉnh cực thịnh như lúc trước. Dù sao, Phật giáo cũng đã quá vững vàng, kiên cố với vị trí là 1 trong 3 tôn giáo lớn nhất của Trung Quốc. Vào những năm loạn lạc vào của cuối đời Đường và thời Ngũ đại, Phật giaùo đã có những bước hồi phục rõ nét, rồi lại thêm 1 lần xảy ra mâu thuẩn với chính quyền phong kiến nên cuối cùng đã dẫn đến lần pháp nạn thứ 4 vào thời Ngũ đại Hậu Châu dưới chính sách diệt Phật của Vua Châu Thế Toâng (954-959 tại vị).
Vua Châu Thế Tông bắt đầu mở chiến dịch diệt Phật vào tháng 4 năm 955. Chiếâu lệnh diệt Phật quy định: Từ nay không cho phép tư ý độ tăng ni. Trong nhà nếu cha mẹ không người nuôi dưỡng thì không được xuất gia. Phần lớn tự viện, tinh xá bị đình chỉ cấm xây cất và bị đập bỏ. Chỉ trong vòng năm này, số lượng chùa bị đập hủy là 3336 ngôi, còn lại khoảng 2694 ngôi. Một số lượng lớn tượng Phật đồng nấu đúc thành đồng tiền. Phật giáo Trung Quốc một lần nữa lại bị rơi vào sự hủy diệt trầm trọng.
Sau thời Ngũ Đại, Phật giáo Trung Quốc không gặp phải trường hợp hủy diệt nào có tầm cỡ quy mô lớn như 4 lần Pháp nạn trong quá khứ. Có thể vì do những mâu thuẫn xung đột giữa Phật giáo và chính quyền thống trị không gay gắt như trong quá khứ. Sau Nam Tống, tư tưởng chủ nghĩa duy tâm và tư tưởng triết học của nhà Nho đã trở thành tư tưởng chủ đạo của giai cấp thống trị. Phật giáo và Đạo Giáo trong vai trò bổ sung, hỗ trợ cho các chính sách trị quốc bình thiên hạ của chính quyền cũng từ từ theo đó mà có sự an phận cố định. Qua đó cho chúng ta thấy, sự biến hóa địa vị tôn giáo có tương quan mật thiết đến sự biến hóa của xã hội và tư tưởng văn hóa.
---o0o--