NGHI TIẾN GIÁC LINH
HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỒNG THIỆN
Trú trì Tu viện Nguyên Thiều
Kế thừa Đại Tổ Sư Nguyên Thiều 1958 - 2001
* Tiết thứ lâm diên:
- Chuông trống Bát nhã
- Cử nhạc khai đàn
- Chủ lễ lâm diên,
- Cử nhạc tham lễ.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - XƯỚNG:
Hiếu đồ tang quyến,
Mời đến trước đây,
Tất cả đều quì
Đốt hương mặc niệm.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH: VỊNH KHAI DIÊN.
Niết bàn một thuở ra đi,
Cân bình nữa gánh Tây quy nhẹ nhàng
Rừng thiền vắng bóng hạc vàng,
Biển trần vượt khỏi muôn ngàn phong ba
Người đi dấu vết chưa nhòa,
Bát y truyền lại sương pha lạnh lùng
Tam sanh hẹn kiếp tao phùng,
Tôn phong Tổ ấn gởi cùng non sông.
- TẢ BẠCH XƯỚNG:
Dâng hương lên án cúng dường,
Cúi lễ giác linh ba lạy,
Tất cả thứ tự lại quì,
Một lòng chí thành làm lễ.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - CỬ HƯƠNG TÁN
Hương xông đảnh báu, giới định tuệ hương,
Giải thoát tri kiến quý khôn lường
Ngào ngạt khắp muôn phương
Thanh tịnh tâm hương
Đệ tử nguyện cúng dường.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – Tuyên dương đạo nghiệp:
Kính bạch giác linh Hòa thượng!
Chúng tôi thiết nghĩ, Hòa thượng - Người:
Cùng Tổ ngộ lòng thiền,
Trong cữa Nhạn Sơn vâng lời thọ ký.
Và, vì người khai Phật trí,
Tại Tu viện dựng nghiệp độ sanh.
Nhớ giác linh xưa!
Dòng họ thế gia,
Môn phong Nho giáo,
Tuổi thơ nhập đạo,
Chí lớn xuất trần.
Thế rồi, Người:
Theo thầy học đạo chuyên cần,
Và, cùng chúng tu thân tinh tấn
Vuông tròn bổn phận,
Phục dịch chúng Tăng,
Đầy đủ khả năng
Dắt dìu Phật tử.
Vì vậy, Người được:
Thầy Tổ truyền y bổ xứ,
Nguyên Thiều trác tích trụ trì.
Rồi từ đó, Người sống cuộc đời:
Một bát ba y,
Du phương giáo hóa,
Chín tuần mười hạ,
Khổ hạnh đầu đà.
Dãi dầu gió táp mưa sa,
Dựng xây Tu viện
Nhẫn nại thời thay tiết chuyển,
Bảo vệ Nguyên Thiều.
Toan tính mai chiều,
Ưu tư thành bại,
Gian lao nào ngại,
Cơ cực không nài,
Đắng cay chua xót vì ai?
Nặng nhẹ đảm đang cho chúng…
Người có nhiều:
Tăng Ni bốn chúng trùng tu,
Và, không ít:
Phật tử mười phương qui ngưỡng,
Bậc sơn môn phương trượng,
Hàng hải chúng thượng nhân,
Suốt đời lạc đạo an bần,
Trọn kiếp nghiêm thân tấn đạo.
Hoằng dương Phật giáo,
Hàng phục ma quân,
Xử thế đãi nhân,
Tiếp Tăng độ chúng.
Tùy duyên ứng cúng,
Thác chất phân thân.
Người, oai nghi tề chỉnh muôn phần,
Và, tế hạnh trang nghiêm muôn vẻ.
Lợi danh sạch sẽ,
Thân thế phôi pha,
Ai biết long xà,
Nào hay phàm Thánh.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – PHẨM BÌNH:
Kính bạch giác linh Hòa thượng!
Chúng tôi nghĩ - tâm từ và trách nhiệm của Người có thể nói:
Vai nặng trĩu tôn phong một gánh,
Thân gập ghềnh Tổ ấn hai vai,
Là người nhập thất Như lai
Là bậc xuất gia Bồ tát.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – BÁO TIN BUỒN:
Thế rồi việc gì đã xảy ra?
Hỡi ôi!
Nguyên Thiều truyền đăng gió tạt,
Tu viện tục diệm khói tan.
Từ nay cân bình vắng bóng Tăng hàng,
Và, áo mão mờ trang giáo phẩm.
Chúng tôi:
Nhớ thuở nào thiền sàng suy gẫm,
Nghĩ giờ này linh tọa bàng hoàng
Quyền thiệt mơ màng,
Hiện tàng phưởng phất,
Ở đi còn mất,
Bối rối phân vân.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – Cảm thán và nguyện cầu:
Than ôi!
Một thuở dời chân,
Người nỡ xuôi tay dìu dắt,
Nghìn thu vắng mặt
Thầy đành nhắm mắt giã từ!
Nhưng biết sao giờ?
Chúng tôi và tang môn hiếu quyến chỉ biết nguyện cầu cho Người:
Ngắm phương trời lên cõi vô dư,
Và, dò dặm đất vào thành Bất thối.
Thế là:
Lá rụng về cội,
Nước chảy ra khơi,
Ta bà xả báo một đời
Phật quốc nở hoa chín phẩm.
Nhưng trước tình cảnh biệt ly ấy:
Tiếc thương nào cấm,
Đau xót ai ngăn?
Chí thành phụng hiến hoa đăng,
Cung kính đáp đền ơn đức
Muôn phần thổn thức,
Một bức khốc văn.'
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – TUYÊN PHÁP NGỮ:
Kính bạch giác linh Hòa thượng!
Như Ngài đã biết:
Cội tùng vằng vặc ánh trăng, chờ người hỏi đạo
Khóm trúc vi vu tiếng sáo, đợi kẻ ngộ thiền.
Nhưng nào ai biết:
Hỏi đạo, ngộ thiền,
Tùng trúc bao giờ thành Phật?
Nầy người, ấy vật
Trí ngu mấy thuở ngộ Tâm?
Giác ngộ bỡi mê lầm,
Niết bàn từ sinh tử
Đôi lời pháp ngữ,
Nửa kệ Phật ngôn,
Xin nhắc nhở chơn hồn
Mong mặc nhiên tự ngộ.
- TẢ BẠCH HẠ PHỦ XÍCH – THỈNH LÂM DIÊN:
Kính bạch giác linh Hòa thượng!
Sám sư vừa cúng dường cam lộ,
Linh giác đà nạp thọ hương diên.
Đến đây và giờ nầy:
Trước linh đài hiếu chúng kiền thiềng,
Giữa pháp hội lễ sư bái thỉnh.
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – SƠ THỈNH: (nối dòng họ Thích)
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh!
Phụng trì pháp ấn, tọa vị Phật đường,
Nối gia phong họ Thích miên trường
Truyền Tổ nghiệp dòng thiền vĩnh viễn.
Hôm nay pháp tịch phụng vì: Nguyên Thiều tu viện, phương trượng trụ trì, nối dòng pháp Lâm tế đời
thứ 43, húy thượng THỊ hạ CÔNG, tự Đồng Thiện, hiệu Trí An, Tân tịch bổn sư Hòa thượng giác linh, liên đài tọa hạ.
- Duy nguyện:
Hương lòng vừa bén, linh giác đã hay,
Pháp tịch hôm nay, nguyện xin chứng giám
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – TÁI THỈNH: (Trụ trì ra đi – để lại)
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh!
Cô thân muôn dặm, một bát ba y
Gió mưa mờ xóa gót người đi,
Công hạnh in sâu lòng kẻ ở.
Hôm nay pháp tịch phụng vì: Nguyên Thiều tu viện, phương trượng trụ trì, nối dòng pháp Lâm tế đời thứ 43, húy thượng THỊ hạ CÔNG, tự Đồng Thiện, hiệu Trí An, Tân tịch bổn sư Hòa thượng giác linh, liên đài tọa hạ.
- Duy nguyện:
Làng xưa còn nhớ, chùa cũ chưa quên,
Nghi trượng cung nghênh, uy linh quang giáng
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – TAM THỈNH: (Trụ trì ra đi – về đâu)
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh!
Nước trong trăng sáng, ruộng phước nhà thiền
Theo Tôn sư quảy dép Tây thiên,
Và, từ đại chúng treo bình Đông độ.
Hôm nay pháp tịch phụng vì: Nguyên Thiều tu viện, phương trượng trụ trì, nối dòng pháp Lâm tế đời thứ 43, húy thượng THỊ hạ CÔNG, tự Đồng Thiện, hiệu Trí An, Tân tịch bổn sư Hòa thượng giác linh liên đài tọa hạ.
- Duy nguyện:
Linh đài an tọa, thiền thất cao cư
Ná bộ hữu dư, cao đăng vô ngại
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.
Nam mô đăng bảo tọa Bồ tát. (3 lần)
- TẢ BẠCH XƯỚNG:
Sơ hiến trà - Lễ ba lạy - Cùng quì.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – Vịnh 1: (Quang lâm – an tọa)
Hơn mười vạn dăm tự trời Tây,
Phi tích quang lâm nhọc sức Thầy,
Bảo tọa tuy cao nhưng chẳng ngại
Xin Thầy an tọa xuống đài mây.
- KỆ TRÀ:
Đài mây Thầy an tọa,
Chứng minh công đức này,
Trời Tây muôn ức dặm
Đàn chỉ tức về đây.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – XƯỚNG SỚ:
Nguy nguy Tăng tướng,
Hạo hạo uy quang,
Thiên thượng nhơn gian
Tùy duyên ứng cúng.
Nay có hiếu chúng,
Thiết lễ an linh,
Tỏ tấc hiếu tình
Sớ văn bái bạch.
Duy nguyện Tôn sư cảm cách,
Từ bi tác đại chứng minh!
- TUYÊN ĐỌC SỚ VĂN:
Kính bạch giác linh Hòa thượng!
Chúng tôi từng nghe rằng:
Đức Phật xuất hưng,
Tự có ngày Niết bàn an nghỉ.
Tôn sư viên tịch,
Há không dịp đền đáp thâm ân?
Sự chẳng thể quên,
Lý đâu lại chấp.
Sớ rằng:
Nay có hiếu đồ Tỳ kheo Thích…, cùng bốn chúng Tăng Ni, mười phương Phật tử thuộc Tu viện Nguyên Thiều, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Giờ này, chí thành quì trước giác linh
Cung kính dâng lên pháp cúng,
Kinh diên tán tụng,
Lễ nhạc ca dương,
Năm nén tâm hương,
Một diên thiền vị.
Ngõ đền ơn khai thị,
Hầu đáp nghĩa tác thành,
Ngửa mong linh giác tinh anh
Dũ ánh quang minh chứng giám.
Đệ tử chúng đẳng rất đau lòng vì: Tôn sư – Người!
Đạo rõ nguồn chơn,
Lý minh thật tướng,
Xưa Thầy tại nhựt
Gần gũi nhờ ơn,
May được thắng nhơn,
Thấm nhuần pháp nhũ
Y truyền pháp phú,
Đức cả công cao.
Than ôi! Sương lạnh phương bào
Thấy vật dạ càng thêm chạnh,
Mây mờ viên đảnh
Nhớ Người lòng những càng thương.
Nay thời hiếu lễ đã tương,
Đạo tràng vừa mở,
Cúi đầu dâng sớ,
Bái bạch xin nghe.
Nam mô Nguyên Thiều tu viện, phương trượng trụ trì, nối dòng pháp Lâm tế đời thứ 43, húy thượng THỊ hạ CÔNG, tự Đồng Thiện, hiệu Trí An, Tân tịch bổn sư Hòa thượng giác linh, tác đại chứng minh.
- Phục nguyện:
Một tánh viên minh,
Tây phương trực vãng,
Ba thân thanh tịnh
Chánh giác viên thành,
Chứng pháp nhẫn vô sanh,
Ngộ chơn thừa đại định
Mong Phật thọ mệnh,
Ứng hóa độ sanh.
Cẩn sớ !
Nay ngày....tháng...năm...PL.....
Sa môn Thích.... Hòa nam thượng sớ!
- TẢ BẠCH XƯỚNG:
Á hiến trà - Lễ ba lạy - Cùng quì.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – Vịnh 2 (Dáng dấp – âm vang):
Từ ngày quảy dép trở về Tây
Trượng thất hoa viên vắng bóng Thầy
Bãng hát âm vang cơn gió thoảng,
Oai nghi dáng dấp áng mây bay.
- KỆ TRÀ:
Mây bay ngờ dáng dấp,
Gió thoảng ngỡ âm vang,
Vườn nhà, ôi! vắng bóng
Thầy quảy dép liên bang.
- TẢ BẠCH XƯỚNG: Phụng thực!
- Tụng: Cúng dường Nam mô tát phạ…
- TẢ BẠCH XƯỚNG:
Chung hiến trà - Lễ ba lạy - Cùng quì.
- CHỦ LỄ VỊNH 3 – (cúng dường bồ soạn):
Sắc hương mỹ vị trai bồ soạn,
Thành kính dâng lên trước bảo đài,
Một bát hòa la đầy đạo vị
Cúng dường Hòa thượng - sứ Như lai.
- KỆ TRÀ:
Như lai - Người - Sứ giả,
Ứng cúng khắp muôn phương,
Một bát trai bồ soạn,
Xin thành kính cúng dường.
Nam mô Mỹ Hương Trai Bồ tát.
- TỤNG: Ma ha Bát nhã ba la mật đa…
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – HỒI HƯỚNG:
Vừa rồi, bao nhiêu công đức
Bấy nhiêu hương hoa,
Thành kính thiết tha
Nguyện xin cúng dưỡng.
Nguyên Thiều phương trượng,
Linh giác tọa tiền,
Duy nguyện ai liên,
Thùy từ hứa khả.
- Phục nguyện:
Ta bà nghiệp tạ,
Phật quốc hoa khai,
Nước cam lồ rửa sạch trần ai
Đèn trí tuệ sáng soi tăm tối.
Cao đăng bất thối.
Lập chứng vô sanh,
Phật đạo viên thành
Chúng sanh độ tận.
- Đồng hòa: Nam mô A Di Đà Phật.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - TÁN LƯU:
Đại sư tang sự rất nghiêm trang
Long vị thiền sàng đã tạm an,
Nghi trượng thiền môn còn tiếp diễn,
Xin thầy tạm nghĩ tại linh sàng.
Nam mô Linh Tự Tại Bồ tát.
- CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH KẾT DIÊN –XƯỚNG:
An linh viên mãn,
Hiếu sự châu long
Tất cả một lòng
Lễ thành ba lạy.
ĐIẾU VĂN
HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỒNG THIỆN
Của Đại lão Hòa thượng Huyền Quang
(Do TT. Thích Quảng Bửu cung đọc trong lễ
Di kim quan nhập tháp Hòa thượng Đồng Thiện)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa quý vị tôn túc Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni!
Kính thưa quý vị đại diện chính quyền và đại diện UBMTTQVN các cấp tỉnh Bình Định.
Thưa liệt vị Phật tử và các ân nhân Tu viện Nguyên Thiều xa gần.
Thưa quý liệt vị hiện diện!
Kính bạch giác linh Đại lão Hòa thượng Thích Đồng Thiện, đệ nhất trụ trì Tu viện Nguyên Thiều Bình Định.
Chắc Hòa thượng đã biết, tôi là một trong một số giáo phẩm sáng lập Tu viện Nguyên Thiều năm 1958. Sau đó, tôi có việc khác phải vắng mặt ở Tu viện vào năm 1963. Và cũng từ đó, sự quản trị Tu viện đều do quý vị thường trú Tu viện đảm trách. Tuy nhiên, sau năm 1975, quý vị sáng lập Tu viện, vì lý do riêng cũng lần lượt rời Tu viện về lại chùa xưa của quý vị. Tu viện lúc bấy giờ chỉ còn Hòa thượng và một số Tăng chúng ít nhiều, quản lý Tu viện với vườn đất mênh mông, trường ốc bỏ trống, rất buồn lắm vậy!
Thưa giác linh Hòa thượng trụ trì!
Hôm nay, giờ này, trước linh đài Hòa thượng, tôi kính cúng dường giác linh Hòa thượng:
Đôi cành hoa trắng,
Mấy nén hương vàng.
Để tỏ tình thầy trò, anh em, với:
Một niềm đau xót,
Mặc niệm tâm tang.
Để ghi nhớ công ơn Hòa thượng lâu dài mà thôi.
(dành một phút cúi đầu tưởng niệm giác linh…)
Thưa giác linh Hòa thượng trụ trì!
Từ ngày tôi ra đi, dù có sự khuyến khích của Hòa thượng, tính đến nay đã 38 năm. Một thời gian dài như thế và có nhiều khó khăn từ nhiều bên đến, nhưng Hòa thượng và đại chúng hiện diện Tu viện đã khéo léo, tùy duyên quản trị Tu viện. Không những duy trì tình trạng Tu viện trước năm 1963 mà còn phát triển nhiều mặt: cư trú, học hành, tu niệm v.v.. của đại chúng. Tu viện ngày một tốt đẹp, đưa tu viện ngày một đi lần đến một cảnh Tòng lâm cổ xưa của Giáo hội. Mặt khác, vấn đề nhân tâm uy tín Tu viện cũng được xa gần tín ngưỡng. Nhất là Hòa thượng ra đi đã để lại một số đệ tử có khả năng, đủ sức tiếp tục khai thác đạo mạch dồi dào cho Tu viện và cho cả đạo pháp của xứ sở, đáng kể và đáng mừng lắm.
Giờ này, trước linh đài trang nghiêm im lặng, có sự hiện diện của Giáo hội, của chính quyền Bình Định các cấp và cả toàn thể Tăng Ni, Phật tử xa gần, tôi xin thay mặt quý Hòa thượng sáng lập Tu viện, trân trọng tuyên bố:
HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỒNG THIỆN
TRÚ TRÌ TU VIỆN NGUYÊN THIỀU
LÀ VỊ KẾ THỪA ĐẠI TỔ SƯ NGUYÊN THIỀU
TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 2001.
Hòa thượng là Người: có học thức, có khả năng, có đạo hạnh, đạo nghiệp lớn lao cao cả đối với Tu viện và cả Giáo hội Bình Định. Tôi mong giác linh Hòa thượng từ bi và hoan hỷ thông cảm đầy đủ.
Thưa giác linh Hòa thượng!
Sau ngày Hòa thượng ra đi, tôi cũng sẽ có ngày về lại Tu viện trong một cỗ quan tài, hay một thân tứ đại, sức khỏe đã tàn, chẳng có chút khả năng để làm gì cho Tu viện. Hòa thượng đừng buồn khi nghe tôi nói như thế. Tôi về để gởi Tu viện một nấm mồ lạnh lẽo hơn là bất cứ ý tưởng nào khác, để gần gũi mộ phần Hòa thượng, gần đại chúng Tu viện mà thôi. Hay nói một cách khác tôi đã ra đi trước Hòa thượng cả 38 năm, và bị chôn vùi lâu rồi, nhưng chưa đến ngày chết vậy.
Kính thưa giác linh Hòa thượng!
Đến đây, tôi và chư vị Tôn túc, quý vị xây dựng Tu viện năm 1958, thành tâm cầu chư Phật, liệt Tổ, Tổ sư Nguyên Thiều xót thương dìu dắt giác linh Hòa thượng được siêu thăng Thánh cảnh. Và xin Hòa thượng thường quảy dép về Tu viện để gia hộ cho chư Tăng quản trị và đại chúng thường trụ gắng duy trì và phát triển Tu viện và học đường được mọi phần thanh tịnh trang nghiêm, để đền ơn chư Phật, chư Tổ và ơn dày của đàn na thí chủ xa gần.
Cúi đầu kính lễ Hòa thượng.
Và đến đây, tang lễ đã hoàn tất. Tôi xin thay mặt Tu viện, xin cảm ơn chư Tôn đức, chư vị đại diện chính quyền cùng toàn thể Tăng Ni, Phật tử đã góp sức để tang lễ hết sức đầy đủ.
Nay kính bái tạ quý liệt vị!
Hòa Thượng thế danh Trần Đình Hiếu, sinh năm Nhâm Tuất (08/04/1922) tại thôn Vạn Hòa, xã Ân Hảo, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Trần văn Duệ pháp danh Thị Hộ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Long pháp danh Thị Kính.
Xuất thân từ gia đình thuần kính Tam Bảo, thế tộc đã nhiều đời thấm nhuần đạo lý Phật gia, vì thế năm vừa lên 9 tuổi gia đình đã sớm tạo nhân duyên để cho Ngài quy y Tam Bảo. Lúc bấy giờ Hòa Thượng Tổ Đình Thiên Bình húy thượng Như hạ Từ hiệu Tâm Đạt truyền pháp quy y cho Ngài với pháp danh là Thị Công tại chùa Thanh Sơn thôn Thanh Lương xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Năm Qúy Dậu, 1933 Hòa Thượng xuất gia đầu sư tại chùa Thanh Sơn với Ngài thượng Thị hạ Thường hiệu Chánh Nguyên, đương thời trú trì thâu nạp với pháp danh là thượng Đồng hạ Thiện. Tòng học với Bổn sư chưa được bao lâu, do nhiều chướng duyên làm trở ngại bước đường học vấn nên Hòa Thượng được Bổn sư bố trí vào huyện An Nhơn để tiếp tục thế học và Phật học. Trong thời gian nầy Hòa Thượng được sự giám hộ của Ngài Tâm Đạt Tổ đình Thiên Bình.
Năm Nhâm Ngọ (1942) tại Tổ đình Hưng Khánh huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định mở trường Hương giới đàn tái thí do Hòa Thượng húy thượng Chơn hạ Hương, hiệu Chí Bảo làm đường đầu. Do nhiều nghịch duyên, Bổn sư của Hòa Thượng còn trú trì chùa Thanh Sơn và cũng không liên lạc được để xin thọ đại giới, Hòa Thượng tác pháp với Hòa Thượng Tâm Đạt, húy thượng Như hạ Từ Tổ đình Thiên Bình, huyện An Nhơn để y chỉ và cầu thọ đại giới. Từ thời gian này Hòa thượng chính thức được Ngài Tâm Đạt cho lưu thông pháp danh truyền thừa là thượng Thị hạ Công, hiệu Trí An và thọ đại giới tại giới đàn Tổ đình Hưng Khánh huyện Tuy Phước. Tuy nhiên để tỏ lòng hoài niệm Bổn sư, Hòa Thượng vẫn dùng pháp danh Đồng Thiện là tên tự phổ thông cho đến cuối đời.
Năm Qúy Mùi, 1943 đến năm Giáp Ngọ 1954 Hòa Thượng học Phật pháp với chư vị cao đức trong địa phận huyện An Nhơn và huyện Tuy Phước, thường xuyên tham vấn, lưu học tại các Tổ đình Hưng Long, Thanh Quang huyện An Nhơn, Tổ đình Thiên Đức huyện Tuy Phước và nhiều tự viện khác…Tham gia tổ chức tập thể Tăng” Chúng Lục Hòa” để thực hiện tinh thần thượng cầu hạ hóa thường sinh hoạt tại Tổ đình Tịnh Liên thị trấn Bình Định huyện An Nhơn. Lưu ngụ và bán chính thức trú trì chùa Hồng Liên thị trấn Bình Định để tạo thuận duyên trau dồi thế học tại trường giòng thánh Giu-se thuộc Kim Châu Bình Định.
Năm Giáp Ngọ 1954 đến năm Mậu Tuất 1958, sau hiệp định Geneva phân chia đất nước 1954, Hòa Thượng cùng một số pháp hữu thanh niên đương thời tòng học lớp Tăng Học Đường Trung Việt tại chùa Long Sơn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa do Tổng hội Phật giáo Trung phần điều hành. Lúc bấy giờ do Đại Lão Hòa Thượng hiện vẫn còn sinh tiền là Ngài Huyền Quang húy thượng Như hạ An làm giám đốc. Học đường này về sau khuếch trương và đổi tên là Phật học viện Hải Đức, nơi đào tạo Tăng tài cho cả Trung phần Việt Nam.
Năm Mậu Tuất 1958, Hòa Thượng cùng chư tôn pháp hữu tòng học tại Nha Trang trở về Bình Định khởi xướng chương trình giáo dục đào tạo Tăng tài ngõ hầu góp phần quang huy cho tiền đồ Phật giáo tỉnh nhà, đặc biệt Phật sự trọng đại nầy trong thời kiến sơ được đặt dưới sự chỉ đạo của Ngài Thượng Như hạ An hiệu Huyền Quang về việc chủ trương sáng lập và điều hành cơ sở. Hạnh nguyện hoằng pháp dần được thành tựu, đạo hiệu của Đại Lão Tổ Sư Nguyên Thiều được chính thức công bố sáng lập vào ngày 15/08 năm Mậu Tuất, nhằm ngày 27/09/1958. Sau đó, qua sự tham gia hộ trì của hầu hết chư tôn thiền đức bản tỉnh mà Tu Viện trải qua bao biến đổi thời cuộc vẫn luôn phát triển không ngừng.
Theo tư liệu lưu tàng tại Tu Viện, y cứ trích dẫn Kỷ yếu kỷ niệm đệ thập chu niên khai sáng Tu Viện Nguyên Thiều được tổ chức tại Tu Viện ngày 17 tháng 11 năm Mậu Thân, nhằm ngày 05/01/1969 thì nguyên khởi hình thành và trực tiếp kiến tạo Tu Viện là do công khai sơn phá thạch của chư vị tôn đức như: Hòa Thượng Thích Bảo An, H.T Thích Đồng Thiện, H.T Thích Đỗng Quán, H.T Thích Bửu Quang, H.T Thích Thiện Độ, H.T Thích Minh Quang, H.T Thích Quang Ngọc, H.T Thích Nguyên Trạch… và giữ vai trò thượng thủ là H.T Thích Huyền Quang. Công tác kiến lập nầy với sự chứng minh hộ niệm của chư tôn thiền đức thuộc Tổng hội Phật giáo Trung phần và công sức đóng góp của mười phương Tăng, Ni, Phật tử.
Năm Kỷ Dậu 1969 Hòa Thượng được chính thức công cử làm đệ nhất trú trì Tu Viện Nguyên Thiều được công bố qua đại hội khoáng đại kỳ I của chư tôn thiền đức toàn tỉnh quy tập tại Tu Viện ngày 17 tháng 08 năm Kỷ Dậu, nhằm ngày 28/ 09/ 1969. Từ đó Hòa Thượng phụng hành hoài bảo lấy công hạnh hoằng pháp lợi sanh làm sự nghiệp, đem hết tâm lực duy trì và khuếch trương cơ sở Tu Viện cho đến ngày viên tịch.
Trong thời gian này Hòa Thượng rất chú trọng đến việc giáo dục học Tăng và ít quan tâm đến việc thế độ đệ tử. Mãi đến cuối đời Ngài mới thâu nhận đồ chúng để có nhân sự duy trì cơ sở Tu Viện. Hiện tại đồ chúng Hòa Thượng thâu nạp lên đến số vài mươi, hiện nay đã trưởng thành và lo Phật sự khắp nơi.
Vào lúc 13 giờ 15 phút ngày 03 tháng 08 năm Tân Tỵ, nhằm ngày 19/09/2001 là ngày bi thương đáng nhớ nhất cho tất cả môn đồ. Bởi do tuổi cao sức yếu không thể nào trái được luật vô thường, Hòa Thượng đã lâm bệnh chỉ hơn một tuần trăng, mặc dầu phương tiện y khoa đã tận tình can thiệp, nhưng cỗ xe tứ đại đã không còn hoàn hảo và Ngài đã thâu thần an nhiên viên tịch. Thọ thế 80 năm, nối dòng Lâm Tế đời thứ 42, Tăng lạp 58 tuổi.
Nam Mô Lâm Tế Chánh Tôn tứ thập nhị thế Nguyên Thiều Tu Viện Đệ nhất trú trì húy thượng Thị hạ Công tự Đồng Thiện hiệu Trí An Hòa Thượng Giác Linh tác đại chứng minh
Pháp lữ – Môn đồ pháp quyến đồng phụng soạn