- 01. Tiểu Sử HT Thích Trí Tịnh
- 02. HT Trí Tịnh khai Thị (2008)
- 03. HT Trí Tịnh khai Thị (2011)
- 04. Điện Thư Phân Ưu
- 05. Ơn Thầy (thơ Thanh Phi)
- 06. Tưởng Nhớ HT (Thơ Minh Chánh)
- 07. Cuộc đời & Hành Trạng (thơ Mặc Giang)
- 08. Ban Tang Lễ
- 09. Ban Tổ Chức Tang Lễ
- 10. Hình Lễ Nhập Kim Quan
- 11.Lễ viếng ngày 29-3-2014
- 12.Thành kính tưởng niệm (T.Nhật Từ)
- 13.Lễ viếng ngày 30-3-2014
- 14. Hình Lễ Nhập Tháp
- 15. Kính dâng Đại Lão Hòa Thượng (T.H.L)
- 16. Video: Tang Lễ HT Trí Tịnh
- 17. Vạn Đức Lưu (T.Minh Tuệ)
- 18. Phim về cuộc đời HT Trí Tịnh
- 19. Ý nghĩa và giá trị tụng Kinh
- 20. Tia sáng từ Bảo Tháp Phù Thi
- 21. Cung tiễn Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Tiểu sử
Hoà Thượng Thích Trí Tịnh
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là Ông Nguyễn văn Cân và Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
Hòa Thượng có sáu anh chị em, HT là người con thứ bảy trong gia đình. Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo. Hòa Thượng mồ côi cả cha lẫn mẹ. Khi lên 7 tuổi, chỉ sống với người anh thứ ba là ông Nguyễn Văn Đặng và đi học lên đến lớp 7. Lúc lên 15 tuổi Ngài nghỉ học sang học chữ Nho với Cậu và học thuốc với người anh.
II- THỜI GIAN HỌC ĐẠO:
Nhờ đã gieo căn lành từ nhiều kiếp, sớm giác ngộ đời là huyễn, thế sự phù du, nên sau một thời gian đi chiêm bái khắp chốn Thiền môn trong Tỉnh đều không hài lòng. Sau đó mới tìm lên núi Cấm, vì nghĩ ở đó sẽ có các bậc chơn tu. Hòa Thượng bèn tìm lên núi, lần lượt đến chùa Vạn Linh cầu xin xuất gia. Hòa Thượng trụ trì ở dây Pháp húy là Hồng Xứng. Khi vừa trông thấy, Tổ liền ấn chứng “Các ông đừng khinh ông nầy, vì đời trước ổng đã từng làm Hòa Thượng, nhưng có tội hay nhìn con gái, nên nay bị bịnh con mắt suốt đời”. Sau khi được Tổ cho phép xuất gia, ban cho Pháp danh Thiện Chánh, hiệu Hân Tịnh, húy Nhật Bình, tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.
Sau khi xuất gia, Hòa Thượng chuyên lo niệm Phật tịnh tu, được một thời gian Hòa Thượng xin đi tham học với chư sơn Thiền đức trong Tỉnh, và nghiên cứu những tài liệu về Phật Pháp in trong tập chí Từ Bi Âm, do Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học Chùa Linh Sơn, Saigon ấn hành, rồi đi ra miền Trung tham học ở Chùa Liên Tôn, Bình Định.
Năm 1936, Hòa Thượng ra Huế gặp quý Hòa Thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa vừa mãn khóa ở Chùa Tây Thiên do Hòa Thượng Giác Nhiên, là Tăng Thống thứ hai GHPGVNTN làm trụ trì, và Hòa Thượng Thiền Tôn làm Giám Đốc. Khi Hòa Thượng được vào học thì lớp nầy đang học năm thứ sáu Sơ cấp, Hòa Thượng tiếp tục học lên Trung cấp và học lớp Cao Đẳng tại Phật Đường Báo Quốc do Ngài Tường Vân làm Giám Đốc, Hòa Thượng Trí Độ làm Đốc Giáo.
Năm 1941, Hòa Thượng thọ Sa Di giới tại Chùa Quốc Ân và được Sư cụ Trí Độ cho pháp tự là Trí Tịnh.
Năm 1945, mãn Khóa Cao Đẳng Phật Học, lúc đó tình hình chiến cuộc leo thang, vật giá khó khăn. Lớp học dời về Tòng Lâm Kim Sơn, sau vì nạn đói ở Huế cũng như ở Miền Bắc, trường không thể duy trì được, nên Ban Giám Đốc cũng như Hội An Nam Phật Học quyết định giao trách nhiệm cho Hòa Thượng hướng dẫn một số chư Tăng vào Nam để tiếp tục mở trường cho chư Tăng tu học.
III. THỜI GIAN HÀNH ĐẠO:
Khi về đến miền Nam, số học Tăng nầy tạm ở Chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho, còn Hòa Thượng Thiện Hoa và Trí Quang đi Lưỡng Xuyên lo sắp xếp trường ốc, Riêng Hòa Thượng về Chùa Kim Huê ở Sa Đéc tịnh tu một thời gian.
Cách Mạng tháng 8 năm 1945 phát động, Trường Phật học Lưỡng Xuyên bị phân tán, Hòa Thượng hợp tác với Hòa Thượng Thiện Hoa dời về Trà Ôn lập Phật Học Đường Phật Quang thuộc Tỉnh Cần Thơ, do Hòa Thượng Thiện Hoa làm Giám Đốc, còn Hòa Thượng làm Đốc Giáo kiêm Giáo Thọ.
Để viên mãn Tam Đàn cụ Túc, năm 1945 Hòa Thượng được đăng đàn thọ giới Tỳ Kheo Bồ tát tại Chùa Vạn An, Sa Đéc do Hòa Thượng Kim Huê làm Đàn đầu Hòa Thượng.
Năm 1946, khi tình hình chiến tranh Việt Pháp leo thang lớp học bị dao động trầm trọng, một số chư Tăng đã theo tiếng gọi của non sông, cởi áo Cà sa khoác chiến bào, tham gia kháng chiến chống Pháp. Do đó, Hòa Thượng không thể giảng dạy được, nên Ngài quyết định dời về Saigon và lập Phật Học Đường Liên Hải tại Chùa Vạn Phước, xã Bình Tri Đông, huyện Hưng Long Thượng tỉnh Chợ Lớn. Do Hòa Thượng làm Giám Đốc, Hòa Thượng Huyền Dung làm Đốc Giáo. Năm 1949 nơi đây Hòa Thượng Bửu Huệ và Quảng Liên được Thọ Đại Giới do Hòa Thượng Trí Tịnh tổ chức Đại Giới Đàn nầy. Thầy Minh Cảnh cũng xuất gia ở đây.
Năm 1950, khi Hòa Thượng Thiện Hòa, sau một thời gian du phương học đạo, từ Bắc trở về Nam, Hòa Thượng đã kết hợp ba trường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành một gọi là Phật Học Đường Nam Việt đặt tại Chùa Sùng Đức.
Năm 1951, dời về Chùa Ứng Quang do Hòa Thượng Trí Hữu cúng và đổi tên là Chùa Ấn Quang, do Hòa Thượng làm Giám Đốc và cũng là Thành phần trong Ban Giảng huấn, giảng dạy cho lớp Cao Đẳng Phật Học từ năm 1951-l954. Cũng trong năm nầy, Hội Chùa Linh Sơn thỉnh Hòa Thượng làm trụ trì và giao toàn quyền quản lý.
Năm 1952, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập tại Saigon, Hòa Thượng được giữ chức Trưởng Ban Giáo Dục và Trưởng Ban Giám luật, kiêm Ủy viên phiên dịch Tam tạng, và Phó Trị Sự Trưởng.
Năm 1953, Hòa Thượng đích thân và sáng kiến thành lập Cực Lạc Liên Hữu do Ngài làm Liên Trưởng, Thượng Tọa Huệ Hưng làm Liên phó tại Chùa Liên Trì , Tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa)
Năm 1954, Hòa Thượng khởi công xây dựng Chùa Vạn Đức với một quy mô lớn. Đến năm 2004 Hòa Thượng cho xây lại theo mô hình mới.
Năm 1955, với chí nguyện hoằng dương Tịnh Độ, Hòa Thượng lại thành lập Cực Lạc Liên hữu khuyên người niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, tại Chùa Vạn Đức.
Năm 1957, Hòa Thượng được Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cử làm Trị sự Phó và kiêm Trưởng Ban Giáo dục GHTGNV. Đồng thời hợp tác với Hòa Thượng Thiện Hòa, HT Thiện Hoa mở các Khóa Như Lai Sứ Giả tại Chùa Pháp Hội, Chùa Tuyền Lâm, Chùa Dược Sư...để đào tạo cán bộ, Trụ trì và Giảng Sư cho Giáo Hội.
Năm 1959, trong Đại Hội Giáo Hội Tăng Già toàn quốc kỳ II, ngày 02 tháng 10 PL 2502 Kỷ Hợi (11-9-1959 ) tại Chùa Ấn Quang. Hòa Thượng được Đại Hội suy cử làm Trị Sự Phó Giáo Hội Tăng Già toàn quốc.
Năm 1962, Hòa Thượng được GHTGTP cử làm Phó Viện Trưởng Phật Học Viện Trung phần Nha Trang, thay cho Hòa Thượng Trí Quang vì bận Phật sự ở Saigon.
Năm 1964, Hòa Thượng làm trưởng đoàn Đại biểu GHTGNV tham dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, được tổ chức tại Chùa Xá Lợi trong những ngày 30,31 tháng 12/1963 và 01/01/1964, để thành lập GHPGLVNTN và trong Đại Hội này, Hòa Thượng được cử làm TV trưởng Tổng vụ Tăng sự
Năm 1968-1971 Hòa Thượng làm Ban Giảng Huấn Phật Học Viện Huệ Nghiêm, và dạy cho lớp nầy 3 năm. Năm 1970, Hòa Thượng được Hòa Thượng Minh Châu mời làm khoa trưởng Phân Khoa Phật Học, thuộc Đại Học Vạn Hạnh đến năm 1975.
Năm l971, sau khi Giáo Hội thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Hòa Thượng được cử làm Viện Trưởng từ năm 1971 đến năm 1991.
Năm 1973, trong phiên họp Hội Đồng Giáo Phẩm Trung ương kỳ IV Hòa Thượng được cử làm Thành viên Hội Đồng giáo phẩm Trung ương và Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.
Ngày 05/07/1973, Hòa Thượng được cử làm Chủ Tịch Hội Đồng phiên dịch Tam tạng thuộc Viện Tăng Thống GHPGVNTN.
Năm l974 Ngài được Hòa Thượng Thiện Hòa cử làm Cố vấn Hội Đồng quản trị Tổ Đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc .
Năm 1975, Hòa Thượng được Hội Đồng Giáo Phẩm Trung ương cử làm Trưởng ban kiến thiết Pháp Bảo Viện tại xã Linh Xuân Thôn, Thủ Đức Gia Định.
Năm 1980, đầu Xuân Canh Thân sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, tất cả mọi sự sinh hoạt, từ phương diện kinh tế, chính trị, xã hội đều thống nhứt trong phạm vi cả nước. Do đó, trong phiên họp hội thảo của Chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Cư sĩ của các tổ chức Giáo Hội thuộc hệ phái Phật Giáo để thảo luận chương trình thống nhất Phật Giáo. Kết quả một Ban vận động Thống Nhất Phật Giáo ra đời do Hòa Thượng Trí Thủ làm Trưởng Ban và Hòa Thượng làm Phó Trưởng ban vận động, kiêm Trưởng Tiểu Ban Nội dung.
Trong Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, từ ngày 04- 07/11/1981 Hòa Thượng được suy tôn làm thành viên Hội Đồng Chứng Minh và Phó Chủ Tịch thường trực Hội Đồng Trị Sự Trung ương GHPGVN, kiêm Trưởng Ban Tăng Sự Trung Ương.
Năm 1982, trong Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo SG, nhiệm kỳ I, Hòa Thượng được cử làm Trưởng Ban Tri Sự Saigon đến năm 1987.
Năm 1984, sau khi Hòa Thượng Trí Thủ, Chủ Tịch Hội Đồng trị sự Trung ương GHPGVN viên tịch vào ngày 01 tháng 3 năm Giáp Tý PL. 2527 ( 4/1984 ), Hòa Thượng được cử làm Quyền Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung ương, Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự nhiệm kỳ II và những nhiệm kỳ tiếp theo .
Tại Đại Hội kỳ III- 1992, Hòa Thượng được Đại Hội suy tôn lên ngôi vị Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh GHPGVN.
IV. THỜI GIAN TRUYỀN GIÁO:
Năm 1960, 1961, 1962, Hòa Thượng làm Giới Luật Sư trong các Giới Đàn, tổ chức tại Ấn Quang, Pháp Hội ...để truyền trao Giới Pháp cho chư Tăng.
Năm 1964 Hòa Thượng làm Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự - Saigon
Năm 1965, Hòa Thượng làm Yết ma trong Giới đàn Sa di, được tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định và Tuyên Luật sư Đại Giới đàn Từ Hiếu - Thừa Thiên Huế.
Năm 1966, Hòa Thượng làm Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm- Gia Định ...
Năm l968, Hòa Thượng làm Giáo Thọ A Xà Lê-Đại giới đàn Hải Đức - Nha Trang.
Năm 1969, Hòa Thượng làm Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn Quảng Đức II, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định.
Năm 1984 đến năm 2002 Hòa Thượng đựợc cử làm Hòa Thượng Đàn Đầu, Đại Giới Đàn đầu tiên và những Đại giới Đàn tiếp theo của Thành Hội Phật Giáo được tổ chức tại Chùa Ấn Quang.
Về việc phiên dịch:
1. Kinh Pháp Hoa (xem Kinh này)
2. Kinh Hoa Nghiêm (xem Kinh này)
3. Kinh Đại Bát Niết Bàn
4. Kinh Đại Bát Nhã
5. Kinh Đại Bảo Tích
6. Kinh Phế Hiền Hạnh nguyện
7. Kinh Địa Tạng
8. Kinh Tam Bảo
9. Kinh Pháp Hoa cương yếu Tóm tắt
10. Kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa Tóm tắt
11. Luật Tỳ kheo giới bổn
12. Luật Bồ tát giới bổn
13. Đường về Cực Lạc
14. Cực Lạc liên huân tập
15. Ngộ Tánh luận
16. Pháp Hoa cương yếu
17. Kinh A Di Đà
18. Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ
19. Kinh Vô Lượng Thọ Phật .
Về mặt xây dựng:
Năm 1997, Hòa Thượng khởi công xây dựng lại Chùa Vạn Linh và Tháp Tể Hồng Xửng- Núi Cấm, Huyện Tịnh Biên, Tỉnh An Giang.
Năm 2000, với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự GHPGVN. Hòa Thượng đã ký quyết định v/v thông qua dự án và bổ nhiệm ban trùng tu cơ sở văn Phòng 2 Trung ương Giáo Hội Thiền Viện Quảng Đức, Q.3, Sàigòn. Năm 200, Hòa Thượng trùng tu lại Giảng đường Chùa Vạn Đức, Phật Đài Quan Âm, Thư viện, Thiền thất, phòng sách v.v...
Năm 2004, Hòa Thượng khởi công xây dựng lại Chánh Điện, nhà Tổ chùa Vạn Đức với qui mô lớn, trang nghiêm tú lệ đã thành tựu viên mãn, xứng đáng là cơ sở Giáo Hội tại địa phương.