- 1. Khoa Học Phương Tây
- 2. Giới hạn của ngôn từ
- 3. Bất Biến và Tuyệt Đối
- 4. Hư Không, Hữu Hạn và Vô Hạn
- 5. Hư Không, Hữu Hạn và Vô Hạn (tt)
- 6. Hiện Tượng & Bản Chất
- 7. Chủ Quan và Khách Quan
- 8. Quấn Quít Bất Khả Phân
- 9. Đa Vũ Trụ - Đa Tâm
- 10. Thực Thể và Vô Tự Tính
- 11. Vòng Thời Gian
- 12. Chỉ là một khoảnh khắc
- 13. Lời kết
Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông
(Bài 1)
Kiều Tiến Dũng
(Đây là bài đầu tiên trong loạt bài nói về một số điểm tương đồng giữa khoa học hiện đại phương Tây và một vài hệ thống triết học Đông phương cổ xưa.)
**
Con người chỉ là một loài động vật. Nhưng lại là một loài động vật hơn hẳn tất cả các loài khác trên mặt đất này. Các loài thú thường thì có loài phải sống tập đoàn, có loài chỉ sống riêng lẻ, trừ những lúc cần gặp nhau để giao phối, rồi lại trở về cuộc sống riêng biệt. Loài người, trái lại, có thể sống quây quần bên nhau nhưng lại có những riêng tư --nhiều khi đó lại là những riêng tư không thể chia sẻ với ai được, sống để bụng chết mang theo:
“Có những niềm riêng một đời dấu kín
Như rêu như rong đắm trong biển khơi
Có những niềm riêng một đời câm nín
Nên khi xuôi tay còn chút ngậm ngùi”
(Lê Tín Hương)
Đến ngay cả cái thú tính, con người cũng có thể nâng những bản năng đó lên trên cái nhu cầu tối thiểu. Nếu như thú vật chỉ giao cấu theo mùa khi bản năng di truyền nòi giống thôi thúc, thì loài người lại có thể biến đó thành những khoái lạc để tìm cách hưởng thụ bất cứ lúc nào tùy hứng. Tất cả các khác biệt đó có lẽ cũng là vì chúng ta là loài động vật duy nhất biết suy nghỉ về cái ta, về cái bản ngã của mình. Không một loài thú khác nào biết suy tư về cái sống và âu lo về cái chết của chính mình như con người.
Loài thú cũng học được cái nguyên lý là có nguyên nhân ắt phải có hậu quả: lửa nóng thì bị phỏng, mưa thì bị ướt, làm hề thì sẽ được cho ăn (như các con vật trong sở thú). Con người nhờ khả năng phân tích của mình nên đã đi xa hơn nữa, cố tìm cái gì đã gây ra cái nguyên nhân của cái nguyên nhân đó. Cái gì đã tạo lên lửa? Sấm sét. Vậy cái gì đã gây nên sấm sét? v.v. Cứ thế đi ngược dòng, tìm cái nguyên nhân của cái nguyên nhân của cái nguyên nhân. Cho đến lúc ta không thể giải thích được nữa với kiến thức và kinh nghiệm của mình thì tôn giáo bắt đầu xuất hiện. Tôn giáo cho ta lời giải đáp cho những thắc mắc không có đáp án. Lúc đầu là tôn giáo phiếm thần, ở dưới dạng của nhiều vị thần: thần lửa, thần nước, thần sấm sét, thần mưa, v.v. Hết các hiện tượng thiên nhiên rồi lại đến các vị thần để giải thích những biến động trong xã hội con người như thần chiến tranh, thần tình yêu, thần đói, thần khát, và dĩ nhiên luôn cả thần chết.
Dần dần khi phần lớn các hiện tượng được giải thích thỏa đáng thì chỉ còn một ông trời là lý do của các câu hỏi hiện thời ta chưa có giải đáp. Như: vũ trụ từ đâu tới? Sự sống và con người được sinh ra từ khi nào? Tuy nhiên, các tôn giáo nhất thần khác nhau lại thờ các đấng chí tôn khác nhau. Ngày nay trong các tôn giáo lớn có lẽ chỉ còn Ấn Độ Giáo và Thần Giáo của Nhật Bản (Shinto) còn là phiếm thần, thờ nhiều vị thần linh khác nhau.
Nhưng rồi tôn giáo lại không thể thỏa mãn tất cả các nhu cầu tò mò, tìm hiểu của con người. Chẳng lẻ bất cứ điều gì ta cũng phải cần đến ông trời như một lời giải thích hay sao? Do đó các lý thuyết triết học được ra đời. Tương tự như toán học, triết học là bộ môn vận dụng lý luận chặt chẻ để đi từ các tiền đề cho đến các hệ quả. Nhưng khác với toán học, triết học bao gồm cả những sự việc không thể định lượng đo lường được như khi triết học bàn về cái đẹp, cái giá trị, cái luân lý, v.v.
Bên cạnh đó triết học cũng bàn về các hiện tượng thiên nhiên như trong ngành Natural Philosophy. Đây là tiền thân của ngành vật lý sau này, và cũng là cơ sở cho các ngành khoa học khác một khi lý luận được dựa trên nền tảng và được kiểm chứng với các hiện tượng khách quan.
Sự thành công vượt bực của khoa học, nhất là từ thời kỳ Phục Hưng chỉ khoảng 400 trăm ngắn ngủi trước đây trong cả một lịch sử lâu dài của nhân loại là một điều kỳ diệu. Và vẫn còn là một điều bí ẩn. Bí ẩn ở chổ là tại sao lý luận và toán học của chúng ta tuy chỉ là sản phẩm trừu tượng của tư duy con người lại có thể áp dụng thành công vào cái thế giới khách quan ngoài kia, kể cả việc giải thích và tiên đoán các hiện tượng chưa từng thấy? Đây cũng là điều nhà vật lý Eugene Wigner phải gọi là “cái hữu hiệu vô lýcủa toán học trong các khoa học tự nhiên.” (“The unreasonable effectiveness of mathematics in the natural sciences.”)
Có thuyết cho rằng bộ óc con người đã phải trải qua một quá trình chọn lọc và phát triển hằng bao nhiêu triệu năm nên trong cái tư duy của chúng ta đã không khỏi phần nào phản ánh cái môi trường thiên nhiên ngoài kia.
Nếu Triết Học được coi là trái tim thì Khoa Học có thể được so sánh với cái đầu. Cái đầu khoa học cần sự kiểm chứng từ các dữ kiện ngoài kia; trong khi trái tim triết học lại đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi bao quát qua cái tư duy trong cái tiểu vũ trụ trong con người.
**
Ở đâu có loài người là có tư duy, lý luận, quan sát, kiểm chứng và có khoa học. Triết học, toán học và khoa học đã xuất hiện dưới dạng này hay dạng khác ở Đông Phương lẫn Tây Phương từ lâu đời. Nhất là các quan sát về thiên văn học --phần nào là do nhu cầu cần biết về thời tiết, mùa màng trong việc canh nông, trồng trọt.
Bổng dưng vào thế kỷ thứ 16, cách mạng khoa học bùng nổ ở phương tây, dẫn đến những thành công kỳ diệu khi toán vi phân và tích phân của Newton và Liebniz được đưa vào vật lý vào thế kỷ thứ 17. Và chỉ hơn trăm năm ngắn ngủi sau đó, vào thế kỷ thứ 19, Charles Darwin đã đề xướng Thuyết Tiến Hóa để giải thích cái nguồn gốc của những sự sống muôn hình muôn vẽ trên mặt đất này. Đầu thế kỷ 20 nhân loại lại chứng kiến những bước tiến vượt bực của ngành vật lý hiện đại, của ngành điện toán, và của khoa học nói chung.
**
Thế kỷ 17 mở một bước tiến vĩ đại trong việc nghiên cứu khoa học khi Isaac Newton đặt nền tảng cho Cơ Động Lực Học, Quang Học và Thuyết Trọng Trường. Mặc dù cho tới nay vẫn còn những tranh cãi Newton hay Leibniz ai là người đầu tiên tìm ra môn toán vi tích phân, nhưng nhân loại đã nhờ môn toán này để bước đi những bước thật dài khi Newton đã áp dụng nó vào bộ môn vật lý.
Thế rồi cách mạng kỷ nghệ bùng nổ sau khi James Watt khai thác được máy chạy bằng hơi nước. Thuyết Nhiệt Động Lực Học ra đời để nghiên cứu các hiệu năng và giới hạn của các động cơ nhiệt. Quan trọng nhất là khái niệm Entropy được đề xướng trong việc rút tỉa năng lượng và công suất hữu ích từ nhiệt lượng. Chính khái niệm Entropy này đã được áp dụng để giải thích cho cái một chiều, không bao giờ quay trở lại, của dòng chảy thời gian.
(Về sau, khái niệm Entropy cũng đóng một vai trò quan trọng trong ngành tin học của thế kỷ 20 trong các công trình của Claude Shannon.)
Dựa trên những thành công vượt bực này, các ngành triết học, khoa học tự nhiên và xã hội khác đã trổ hoa rực rỡ. Charles Darwin đưa ra Thuyết Tiến Hóa, sau rất nhiều đắn đo vì ông biết rằng nó sẽ gây ra nhiều sóng gió tranh cãi, nhất là với các nhà tôn giáo thần học. Việc cơ giới hóa đã giúp Anh quốc và các nước phương tây khác bành trướng chế độ thực dân khắp thế giới. Chế độ quân chủ thay nhau sụp đổ ở Âu Châu, và được thay thế bằng chế độ dân chủ tư bản phôi thai. Karl Marx đã dựa trên những biến động xã hội trong thời kỷ nghệ hóa để đưa ra các quan điểm của mình trong cuốn Tư Bản Luận. Chẳng may, Lenin và các bạo chúa về sau đã dùng nó như một cứu cánh để áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên hơn một nửa nhân loại --mang lại đau thương cho biết bao con người, mãi cho tới ngày hôm nay.
**
Khoa học tưởng chừng đã lên đến tột đỉnh vào cuối thế kỷ 19, chẳng còn gì để khám phá nữa, ngoại trừ một vài hiện tượng có vẻ chưa được giải thích thỏa đáng. Nhưng chính chỉ một vài hiện tượng lẻ loi tưởng như ngoại lệ đó lại là ngòi nổ, phá tung nền khoa học cổ điển của vài thế kỷ trước, mở đường cho những bước tiến vĩ đại hơn cả khi trước.
Cơ học của Newton chỉ xấp xỉ đúng với những hiện tượng ở vận tốc thấp so với vận tốc ánh sáng. Ánh sáng tuy nhanh nhưng vẫn phải truyền đi với một vận tốc hữu hạn. Có những ngôi sao ở rất xa, xa đến nỗi khi chúng ta ghi nhận được ánh sáng phát đi từ nó thì chính ngôi sao đó đã không còn hiện hữu ở cùng thời điểm đó nữa –nó đã đốt hết nguyên liệu hydrogen của mình và không còn phát sáng nữa. Khoảng cách trong vũ trụ thường được đo lường bằng đơn vị năm ánh sáng, light year, đó là khoảng cách ánh sáng truyền đi trong thời gian một năm. Đây là một đoạn đường dài; nên nhớ là ánh sáng chỉ cần 1.3 giây để đi từ mặt trăng đến trái đất!
Ở các vận tốc cao, cơ học cổ điển phải được thay thế bằng Thuyết Tương Đối Hẹp được đề xướng vào năm 1905 do Albert Eisntein, một kỳ tài trong lịch sử nhân loại, mặc dù lúc ấy ông chỉ là một công chức làm việc văn phòng toàn thời và đã từng bị các thầy toán trung học của mình chê là dốt toán! Thuyết này đã thống nhất không gian và thời gian lại với nhau, không còn riêng lẻ như xưa nữa.
Sự nhất thống này đưa ra những kết luận lạ lùng, gần như là phi lý, trái ngược hẳn với những gì ta có thể cảm nhận được trong đời sống hằng ngày. Nổi tiếng nhất có lẽ là phương trình E = mc^2, thống nhất năng lượng và khối lượng, vật chất và khái niệm. Lạ lùng hơn nữa, có những hiện tượng có vẻ xảy ra cùng một lúc với người quan sát A thì đối với một quan sát viên B khác thì chúng lại xảy ra ở hai thời điểm khác nhau!
Thuyết Tương Đối Hẹp cũng tiên đoán là thời gian có thể kéo dài ra, đi chậm lại khi ta di chuyển ở các vận tốc cao. Có lẽ đây là trường hợp của Từ Thức khi lạc vào thiên thai chỉ có vài ngày mà đã trở thành hàng trăm năm trên mặt đất.
Tất cả những kết luận lạ lùng, dường như không tưởng, này của Thuyết Tương Đối Hẹp nay đã được kiểm chứng bằng nhiều thí nghiệm khác nhau – trong đó những trái bom nguyên tử là một bằng chứng hùng hồn của thuyết tương đối.
Đúng là sự thật nhiều khi còn ly kỳ, và đẹp, hơn cả tiểu thuyết!
**
Thiên tài của Albert Einsein không chỉ dừng ở đó. Chỉ mười năm sau, vào năm 1915, ông đã một mình đưa ra Thuyết Tương Đối Rộng, thay thế hoàn toàn thuyết trọng trường trước đây của Isaac Newton. Một lần nữa qua những phương trình toán học, ông đã đồng hóa năng lượng, trọng trường và cấu trúc của không gian và thời gian. Năng lượng và vật chất, theo thuyết này, sẽ uốn cong cái không gian và thời gian chung quanh nó; và các độ cong không gian thời gian này là sức hút trọng lực biểu kiến đối với vật chất ở chung quanh.
Thuyết Tương Đối Rộng cũng đã được kiểm chứng nhiều lần qua nhiều thí nghiệm khác nhau, nổi tiếng nhất là việc xác nhận góc độ lệch của các tia sáng khi đi qua trọng trường của mặt trời.
**
Ở mặt khác, khi ta đi từ những kích thước to lớn của cuộc sống hằng ngày để tiến đến các vật chất nhỏ bé như phân nguyên tử thì cơ học Newton cũng không còn áp dụng được nữa. Nó phải được thay thế bằng Cơ Học Lượng Tử. Thuyết này, tương phản với thuyết tương đối chỉ do một mình Einstein đề ra, lại được rất nhiều người đóng góp xây dựng. Trong đó phải kể đến nhà vật lý người Đức trẻ tuổi Werner Heisenberg, cũng là người được Adolf Hitler giao cho trọng trách chế tạo bom nguyên tử cho Đức Quốc Xã trong Đệ Nhị Thế Chiến. Sau chiến tranh, người ta cho rằng Đức sở dĩ đã không có được một quả bom nào có lẽ vì Heisenberg đã cố tình trì hoãn trong việc nghiên cứu, vì ông không muốn thấy dân tộc ông lại mang thêm quá nhiều tội ác với một trái bom nguyên tử trong tay.
Chúng ta sẽ nhiều lần trở lại thuyết cơ lượng tử trong những bài kế tiếp. Chỉ cần nhấn mạnh ở đây là thuyết này đưa ra những kết luận vô cùng quái dị. Quái dị đến nỗi chính Einstein là người đã kịch liệt chống đối nó cho tới cuối cuộc đời của mình. Nhưng dù Einstein là một vĩ nhân thì sự thật vẫn là sự thật. Thuyết cơ lượng tử đã thành công trong mọi lãnh vực khoa học công nghệ hiện tại. Từ hóa học, y khoa cho đến những phát minh về laser, máy tính v.v. đều dựa vào những phương trình toán của cơ lượng tử.
**
Trong khi đó ở phương đông lại không có những bước tiến khoa học tương tự, mà chỉ có các hệ thống triết học lâu đời –nhưng cũng không kém phần sâu sắc. Tôi muốn nói đến ở đây một vài hệ thống triết học phương đông cổ xưa chứa đựng trong Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh, và Phật giáo (mà tôi coi là một hệ thống triết học hơn là một tôn giáo).
**
Phật Giáo bắt đầu từ thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch khi được Phật Tổ Thích Ca (Siddhartha Gautama) truyền bá đầu tiên ở bán đảo Ấn Độ. Đây có lẽ là một triết lý về con người và vũ trụ hơn là một tôn giáo với những giáo điều cứng nhắc, ràng buộc. Tuy có nhiều điểm khởi nguồn từ Ấn Độ Giáo, cái tên gọi “Phật Giáo” đúng nghĩa của nó chỉ là “Nguyên lý của vạn vật.” Phật Giáo chưa bao giờ chấp nhận một đấng tối cao, sáng tạo và ngự trị trên vũ trụ này. Chữ “Phật” thật ra chỉ mang ý nghĩa là “người tỉnh thức” hay “người giác ngộ,” thay vì một vị thần vị thánh có phép nhiệm mầu.
Chuyện kể rằng có lần Phật Thích Ca đến một bờ sông thì gặp một thầy tu Bà La Môn, ông này khoe rằng mình có thể đi được trên mặt nước và đã phải bỏ hết 40 năm cuộc đời để khổ luyện thành công mỗi một bộ môn này. Rồi ông hỏi ngược lại là Thích Ca có phép nhiệm mầu gì. Phật Thích Ca đáp rằng: “Tôi tuy không đi được trên nước nhưng chỉ cần bỏ ra vài xu cho người đưa đò là có thể qua được bờ bên kia, rồi còn để dành được 40 năm để tu học điều giác ngộ và cứu rỗi chúng sanh.”
Phật Giáo không đặt nặng vấn đề nguồn gốc của vũ trụ mà chỉ chú trọng về những khổ đau của con người, nguồn gốc và phương pháp giải tỏa các đau khổ đó. Đặc biệt là trong nhánh Thiền Tông của phái Đại Thừa chỉ dựa trên hai nguyên lý cơ bản: một là Phật Tổ tuy xuất thân là người nhưng đã đạt được sự giác ngộ, và hai là những con người chúng ta theo lời Thích Ca thì đều có khả năng để giác ngộ. Ngoài ra, tất cả những điều khác trong ngàn cuốn kinh Phật chỉ là thứ yếu. Giác ngộ ở đây có nghĩa là đạt được sự hiểu biết và thực hành được trong cuộc sống thực tại hằng ngày cái chân lý vô ngã, vô thường của vạn vật.
Cái “Không” của Phật Giáo như thế có thể đem so sánh với cái Vô Cực của Kinh Dịch, cái Đạo của Đạo Đức Kinh, và nhất là cái “Không” (Vacuum) của ngành vật lý hiện đại.
**
Kinh Dịch được coi là một trong những cuốn sách đầu tiên của nhân loại, ngay khi loài người chưa có chữ viết. Xuất xứ từ khoảng 3000 năm trước Tây lịch, nó được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa, và được áp dụng vào nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, y học ...v.v... Về sau nhiều học giả đã thêm vào nhiều phần diễn dịch nội dung của bộ sách này.
Kinh Dịch được nhiều người coi là một bộ sách về bói toán, nhưng thật ra nó lại chứa đựng nhiều nhân sinh quan và vũ trụ quan vô cùng lý thú.
Chữ Kinh ý nói là một tác phẩm chứa đựng những quy luật không thay đổi theo thời gian. Lý thú thay, cái không thay đổi được đề cao trong Kinh Dịch lại chính là cái luôn thay đổi (từ chữ “dịch”) của mọi hiện tượng, trong thiên nhiên cũng như trong xã hội con người. Mọi sự đổi thay là do sự tương tác không ngừng nghĩ giữa hai tính chất tương phản được gọi âm và dương hàm chứa trong mọi sự vật. Và vì sự thay đổi cần phải có thời gian, hay chính sự thay đổi lại định nghĩa nên cái khái niệm thời gian, nên Kinh Dịch cũng bàn rất nhiều về chữ “thời”: cái đúng sai chẳng qua cũng chỉ là và không hơn dược cái hợp thời cái và hợp vị (tương đối) của biến cố đó mà thôi.
**
Thuở còn trẻ tôi đã tìm đọc Đạo Đức Kinh, một phần cũng vì hiếu kỳ khi có người cho rằng đó cũng có thể được coi là kỳ thư về võ thuật đầu tiên của nhân loại. Nhưng dù đã cố gắng đọc nhiều lần tôi vẫn không hiểu bao nhiêu vì mình thiếu hẳn vốn liếng Hán Việt. Về sau khi đọc Đạo Đức Kinh qua một bản tiếng Anh tôi mới thấm thía được phần nào cái hay của nó.
Cuốn sách này chỉ võn vẹn khoảng 5000 chữ, tương truyền do Lão Tử viết ra vào khoảng năm 600 trước công nguyên. Viết xong trong vòng vài ngày, Lão Tử cỡi trâu đi mất hút không lưu lại dấu tích gì cho hậu thế. Đây không phải là một cuốn kinh tụng niệm thuần về đạo đức luân lý của một tôn giáo. Cái tên của cuốn sách là được ghép từ chữ Đạo (là con đường, là sự thật tuyệt đối) của phần đầu và chữ Đức (như trong chữ đức hạnh) được lấy từ phần hai của cuốn sách.
Xin được mở ngoặc đây là một thời điểm lạ lùng trong lịch sử loài người khi những nhà tư tưởng lớn như Phật Thích Ca, Khổng Tử và Lão Tử lại xuất hiện xấp xỉ cùng một lúc với nhau.
Đạo Đức Kinh đề cao cái “vô vi” (không làm những điều trái ngược với tự nhiên) và cái “nhân ái.” Nó cũng chứa đựng nhiều nhân sinh quan và vũ trụ quan tương tự như Kinh Dịch.
Nam Hoa Kinh của Trang Tử cũng chứa đựng rất nhiều tư tưởng của Đạo Đức Kinh và lại có phần đi xa hơn trong phương cách sống vô vi của Lão Tử.
**
Đạo Đức Kinh có câu:
“Tri giả bất bác, bác giả bất tri”--người biết thì không nói, kẻ nói thì không biết.
Tuy vậy, trong những bài viết kế tiếp, tôi xin làm “kẻ không biết” để nói lên một vài điểm tương đồng giữa khoa học phương tây và triết học phương đông. Đây là một vấn đề vô cùng to lớn và sâu rộng. Nhưng tôi hy vọng là nêu ra một vài tương đồng ở những điểm giao thoa gặp gở, các luồng tư tưởng có thể giao lưu để sinh ra những ý tưởng và những khám phá mới.
Tôi xin làm “kẻ không biết” vì tôi đồng ý với cái nhận xét của nhà vật lý người Đan Mạch Niels Bohr rằng: “đối nghịch với sự thật hiển nhiên và tầm thường dĩ nhiên là sự không thật; nhưng đối xứng với một sự thật sâu xa lại là một sự thật to tát khác.”(“the opposite of a trivial truth is false, the opposite of a great truth is another great truth” – Niels Bohr)
Tôi cho rằng tuy khác biệt ở nhiều điểm biểu kiến nhưng khoa học phương tây và triết học đông phương lại có nhiều điểm tương đồng trong cốt lõi. Tựu trung là vì chúng cùng đi tìm một sự thật chung, tuyệt đối dù có bằng những phương thức, con đường khác nhau. Như trong ví dụ võ thuật, dù có nhiều môn phái với các khởi đầu và chủ điểm khác nhau như cương, nhu, quyền pháp hay binh khí thì đỉnh tối cao của võ học sẽ không còn ranh giới giữa chiêu pháp hay môn phái nữa.
Rồi con đường nào cũng sẽ dẫn tới La Mã --nếu ta tránh đi vào ngỏ cụt hay ngủ gục trên con đường mình đang đi.
**
Nước nhà đang trong tình trạng khủng hoảng về mọi mặt --từ chủ quyền, chính trị, kinh tế, xã hội cho đến văn hóa. Trong việc đưa ra những tương đồng với nền khoa học hiện đại, tôi muốn nhấn mạnh ở đây cái cốt lõi triết lý của văn hóa đông phương mà Việt Nam ta cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng. Và cũng muốn nhắc nhở chính mình và mọi người là chúng ta đừng để bị mê hoặc mà lạc đường đi vào ngỏ cụt trong việc thờ cúng mê tín dị đoan, bói toán nhảm nhí.
Để mất một đất nước, để mất một văn hóa là đánh mất muôn đời một giống nòi. Hãy tỉnh giấc. Đừng trông chờ vào một thế lực bên ngoài nào --dù đó là nhân lực ngoại bang hay là thánh lực thần linh. Chỉ có ta mới có thể tự cứu lấy chính mình, chỉ có chúng ta mới có thể cứu được dân tộc mình.
Kiều Tiến Dũng
Tháng 6, 2013