Lời khai mạc
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13
tại Tu Viện Vạn Hạnh
Canberra thủ đô Úc Đại Lợi
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngưỡng bạch chư Tôn Trưởng lão thiền đức,
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử
Giáo Hội chúng ta hôm nay đã tổ chức An Cư lần thứ 13, và Giáo Hội đã cho phép chúng con được tổ chức tại Tu Viện Vạn Hạnh lần này là lần thứ 2. Trường hạ năm nay so với lần tổ chức đầu tiên tại Vạn Hạnh có nhiều thay đổi - từ phương tiện cư trú cũng như số lượng Tăng Ni Phật tử có phần trội hơn, mới mẻ hơn. Ngay giờ phút này chúng con nhất tâm cảm niệm công đức ngôi Tam Bảo mười phương đã gia trì cho Trường Hạ năm nay.
Kính thưa chư Tôn Đức, thưa quý vị! Trên thế giới có gần 7 tỷ người, Tăng sĩ Phật giáo có gần 1 triệu, và cộng đồng người Việt chúng ta hiện thời trên thế giới con số cũng khá đông trên 4 triệu người, nhưng nếu không có nhiều tấm lòng nhiệt huyết bảo tồn phát huy Phật pháp, thì dù có đông thế nào cũng dễ dàng bị mai một mất đi hình ảnh cao đẹp Phật pháp, biết vậy do đó mỗi năm tại Úc, Giáo Hội Phật Giáo chúng ta đã nỗ lực tổ chức sinh hoạt 2 lần trong một năm. Một là giữa năm kéo dài 10 ngày và hai là cuối năm được 5 ngày tu học. Vỏn vẹn chỉ có 15 ngày trong 365 ngày sinh hoạt, một con số khiêm tốn không đủ phát huy nội lực của mình; cho dù mỗi tự viện có Phật sự hoằng pháp riêng cũng thành tựu đáng kể, tuy nhiên vẫn là nỗ lực đơn lẻ, mà phải cần đến tinh thần hòa hợp gắn bó, tương kính tương trợ thì Phật pháp mới tồn tại. Chẳng những thế người con Phật chúng ta còn phải nghĩ đến ân quốc gia sở tại để phát triển phổ quát hơn không phân biệt, đó mới là đền ân chư Phật, truyền lưu giáo lý giải thoát mãi về sau. Quan trọng hơn tạo được tinh thần tu học hòa hợp gắn bó tình pháp lữ huynh đệ với nhau. Như vậy ý nghĩa trường hạ, mới thể hiện được sự làm việc hòa chung, hòa hợp tình pháp lữ tình thầy trò huynh đệ của hai giới Phật tử tại gia xuất gia.
Hôm nay giờ này cho đến trọn khóa tu, tất cả chúng ta đến với nhau trong nhiều thế hệ từ trưởng lão trên 80 cho đến thế hệ thật nhỏ được sinh ra tại Úc cũng quay về đây ngồi chung, cùng làm mạnh ngôi nhà Phật pháp, và tài bồi hạt nhân cho hạnh phúc nhân gian. Điều này dù con số tham dự hiện diện Trường hạ có khiêm tốn đi nữa, nhưng thật sự là tinh hoa của Phật Giáo làm sáng tỏ niềm tin cho gần ba trăm ngàn người Việt ly hương trên đất Úc.
Kính bạch chư Tôn Đức đó là vài lời tâm thiện, tâm cảm mong ước gởi đến chư Tôn Đức quý Pháp lữ thân thương, quý Phật tử tại địa phương cùng Phật tử khắp nơi có mặt tu tập ở Trường hạ này - và mong sao cái lạnh ở Canberra này không làm quý vị cảm lạnh, mà làm cho quý vị cảm nhận ân đức giáo hóa từ bi của Đức Phật, và năng lực của tình pháp lữ trang nghiêm đại chúng ở đây, sẽ làm ấm lòng đạo tâm của chính mình.
Đó là ít lời kính dâng lên chư Tôn Đức và toàn thể đại chúng
Kính chúc quý vị một mùa an cư thành công viên mãn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Hóa Chủ Trường Hạ
Khoá An Cư Kiết Đông kỳ 13
của Giáo Hội tại Tu Viện Vạn Hạnh
thành tựu viên mãn
Theo truyền thống Tăng Già, hằng năm chư Tăng Ni đều tựu về nhóm họp một nơi kiết giới an cư, hầu thúc liễm thân tâm, trau dồi Giới, Định, Tuệ, là ba môn vô lậu học, tăng trưởng đạo lực sau những tháng ngày bận rộn hoằng pháp lợi sanh. Tại quê nhà, chư Tăng Ni thường tác pháp an cư kiết hạ từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 16 tháng 7 âm lịch, đúng theo truyền thống “ tam nguyệt an cư, cửu tuần tu học” (ba tháng cấm túc an cư, chín mươi ngày chuyên tinh hành trì tụ học). Tuy nhiên khi PGVN truyền ra hải ngoại, vì hoàn cảnh, địa dư, thời tiết khác biệt với quê nhà nên khóa an cư cũng theo đó mà thay đổi để phù hợp với thời đại, và hoàn cảnh.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan được thành lập năm 1999, quy tụ hầu hết các tự viện trên toàn liên bang Úc, mỗi năm đều qui tụ tại một trú xứ được chọn trước để an cư tu tập trong mười ngày. Mười hai kỳ an cư trước đây được tổ chức tại Chùa Pháp Hoa, Adelaide (2000, 2007), Chùa Pháp Bảo, New South Wales (2001, 2006, 2009), Chùa Linh Sơn, Victoria (2002, 2008), Tu Viện Vạn Hạnh, thủ đô Canberra (2003), Tu Viện Quảng Đức, Victoria (2004), Chùa Phổ Quang, Perth (2005), Thiền Viện Minh Quang (2010), Tu Viện Quảng Đức, lần 2 (2011) và năm nay, khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13 lại được tổ chức lần thứ 2 tại Tu Viện Vạn Hạnh, Canberra do HT Thích Quảng Ba và đại chúng bổn tự hoan hỷ đảm nhận trọng trách tổ chức, bắt đầu từ ngày 4-7 và kết thúc ngày 13-7-2012.
Bắt đầu 4 giờ chiều ngày thứ ba 3-7-2012, phần lớn chư Tôn Đức và nhiều Phật tử từ các tiểu bang đã có mặt tại Tu Viện Vạn Hạnh để chuẩn bị phiên họp tiền an cư, phân chia trách nhiệm trong ban chức sự và điều hành cho khóa hạ. Tất cả mọi người đều hoan hỷ vui mừng, vì mọi thứ nơi đây đã sẵn sàng cho khóa tu kiết đông kỳ 13 này.Tu Viện Vạn Hạnh đang trong thời gian xây dựng, nhưng với tâm nguyện hộ trì Phật Pháp mà HT Hóa Chủ đã vượt qua mọi chướng ngại để tổ chức khóa an cư này do Giáo Hội giao phó. Thật là công đức vô lượng. Tất cả đều hoan hỷ tán dương công hạnh và tri ân HT Hóa Chủ về những gì mà Ngài đóng góp cho Giáo Hội. HT Hóa Chủ cũng cho biết Trường Hạ được thiết trí trang hoàng nghiêm trang như thế là do công lao của quý Thầy, quý Sư Cô cùng quý Phật tử đến từ Sydney, gồm có 20 người [Tu Viện Minh Giác 9, Chùa Minh Giác 1, Chùa Hưng Long 2, Thiền Viện Vạn An 2, Chùa Thiên Ấn 3, Tu Viện Nguyên Thiều 3, Tu Viện Vạn Hạnh 3; đặc biệt có TT Nhuận An cùng bốn chú Sa Di đệ tử đến từ quê nhà Bình Định để phụ lo công việc trang trí, sắp xếp từ trên Chánh Điện cho đến Giảng Đường, Trai Đường, Tăng, Ni xá, nhà trù....tất cả đều trang nghiêm, đẹp đẽ, tiện nghi, đầy đủ và tươm tất mọi bề ...
Sáng ngày 4/7/2012, chư Tôn Đức vân tập nơi Chánh Điện tạm để làm lễ kiết giới an cư. Hàng Phật tử tại gia có đầy đủ phước duyên được tùng hạ để cúng dường hộ hạ và tu học Phật Pháp.
Ban chức sự trường hạ gồm có Chứng Minh: HT Thích Huyền Tôn, HT Thích Như Huệ, HT Thích Bảo Lạc; Thiền Chủ: HT Thích Như Huệ; Phó Thiền Chủ: HT Thích Bảo Lạc; Hóa Chủ: HT Thích Quảng Ba; Ban Giám Luật: HT Thích Trường Sanh, HT Thích Minh Hiếu; Ban Giáo Thọ: HT Thích Trường Sanh, HT Thích Minh Hiếu; Ban Khai Thị [7am, sau giờ Công phu sáng]: HT. Thích Huyền Tôn, HT Thích Như Huệ, HT Thích Bảo Lạc, TT Thích Quảng Ba, TT Thích Trường Sanh, HT Thích Minh Hiếu, TT Thích Nhật Tân, TT Thích Tâm Minh, TT Thích Tâm Phương; Ban Giáo Thọ (Phụ trách các buổi hội thảo toàn thể Trường Hạ [9-11am], và riêng chư Tăng Ni [7.30-9pm]: HT Thích Huyền Tôn, HT Thích Như Huệ, HT Thích Bảo Lạc, HT Thích Quảng Ba, HT Minh Hiếu, HT Trường Sanh, TT Nhật Tân, TT Tâm Phương,v.v.. Ban Giảng Sư (thuyết Pháp cho quý Phật Tử lúc 7.30-9pm): ĐĐ Đạo Thông [4/7], TT Nguyên Tạng, ĐĐ Phổ Huân [5/7], TT Thiện Hiền, ĐĐ Viên Tịnh [6/7], Ni Sư Đồng Liễu, Sư Cô Chúc Học [7/7], ĐĐ Đồng Thanh, ĐĐ Đạo Hiển [8/7], TT Giác Tín, ĐĐ Nhuận Chơn [9/7], TT Tâm Phương, ĐĐ Hạnh Phẩm [10/7], Sư cô Nguyên Khai, Sư cô Thảo Liên [11/7]; Thiền Trà cuối Hạ, điều hợp: HT Trường Sanh, ĐĐ Đồng Thanh [12/7]; Ban Nghi Lễ: TT Nhuận An, ĐĐ Đạo Hiển [trách nhiệm thỉnh cử chư Tăng vào 10 Ban Duy Na-Duyệt chúng cho 4 khoá Lễ mỗi ngày: Công phu 6am, Quá đường 11.45am, Thọ trì 2.30-4pm, Tịnh độ 7pm; Ban Thư Ký & Kỷ Yếu: TT Nguyên Tạng, TT Giác Tín, ĐĐ Viên Tịnh, ĐĐ Phổ Huân, Sư Cô Viên Thông, Sư Cô Nguyên Khai, Sư Cô Phổ Huệ, Phật tử Diệu Ánh; Ban Thủ Quỹ & Tài Chánh: Sư Cô Thích Nữ Viên Thông, Đh Tâm Huệ, Đh Diệu Hòa; Ban Hô Canh: TT Nhuận An, TT Nguyên Tạng, ĐĐ Viên Tịnh, ĐĐ Hạnh Tri, ĐĐ Đạo Hiển, ĐĐ Đồng Thanh; Ban Chuông Trống: 4 Sa di Đức Hòa, Đức Minh, Vạn Nhân, Đức Hải [trách nhiệm: a- thỉnh 3 hồi Chuông trống Bát nhã thời Quá Đường hàng ngày. B- chuyển trống & thỉnh chuông hằng ngày trước thời Công phu sáng & Tịnh độ tối hàng ngày]; Chúng Trưởng Tăng: TT Thích Nhuận An; Chúng Trưởng Ni: Ni Sư Như Như; Quản Chúng Cư Sĩ: Sư Cô Chúc Học; Tri Chung Bảng & Hiệu lệnh: Ban Nghi Lễ phân công [ĐĐ Đồng Thanh]; Ban Hương Đăng: Sư Cô Đạo Hỷ, Thức Xoa Đạo Hiếu, Sa Di Đức Hòa, Phật tử tùng Hạ ; Ban Trai Soạn: Sư Cô Đạo Từ, Sư Cô Đạo An, Sư Cô Đạo Tịnh, Sư Cô Đạo Trang và Phật tử địa phương Canberra công quả [mỗi ngày từ 5 đến 30 vị]; Ban Hành Đường: Sư Cô Đạo Hương, Sư Cô Đạo Thanh, Pt Diệu Tín [cùng chư Ni, Đh Tâm Kính và các Phật tử tùng Hạ]; Ban Văn Nghệ Thiền Trà: TT Thích Trường Sanh, ĐĐ Đồng Thanh, Ca sỹ Thanh Tâm; Ban Thị Giả: Sa Di Đức Hòa, Sa Di Thông Thắng, Sa Di Ni Đạo Hiếu; Ban Chụp Hình & Quay Phim: Sa Di Thông Thắng, Sa Di Đức Hải, Pt Mỹ Liên; Ban Âm Thanh & Ánh Sáng: ĐĐ Tâm Nam, Sa Di Đức Hải, Pt Quang Hưng; Ban Y Tế: Bác Sĩ Trương Quốc Tuấn [phát tâm đến thăm bệnh tại Trường Hạ 6-7pm ngày 6, 9 và 11/7 & và cho booking ưu tiên nếu Trường Hạ có người cần đến khám bệnh tại phòng mạch ngoài 3 giờ ấy]; Ban Vệ Sinh & Môi Trường : Sa Di Vạn Nhân và Phật tử tham dự.
Khóa An Cư năm nay quy tụ 67 Tăng Ni và gần 81 Phật Tử tại gia từ các tiểu bang và tại Canberra cùng về tham dự tu học và công quả. Thật là một đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, và thể hiện tính "Tăng già hòa hợp, trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm Giáo Hội" qua việc tác pháp yết ma kiết giới đối thú an cư tu học.
Theo thiền môn quy củ, mỗi sáng 5 giờ thức chúng, 5.45am đại chúng vân tập vào điện Phật để tĩnh tâm thiền tọa 15 phút trước thời công phu sáng. Sau thời Kinh Lăng Nghiêm, chư Tôn Đức có lời khai thị để Tăng Ni và hàng Phật tử tùng hạ có nơi quy hướng. Buổi sáng, từ 9am đến 11am, chư Tăng Ni và Phật tử tề tựu về giảng đường để nghe chương trình hội thảo Phật Pháp. 11.15am là thời cúng ngọ để dâng cơm cúng Phật. Buổi trưa đại chúng cúng quá đường, kinh hành niệm Phật và buổi chiều từ 2.30pm là thời thọ trì Từ Bi Thủy Sám Pháp, một bản sám văn quan trọng để sám hối nghiệp chướng và tăng trưởng phước huệ ( đại chúng thọ trì theo bản kinh do HT Trí Quang dịch). Tiếp đó là thời Mông Sơn Thí Thực, cúng cháo cho cô hồn các đẳng. Buổi tối, 7pm có thời huân tu niệm Phật và giảng pháp cho hàng Phật tử tại gia; sau thời pháp là hô canh tọa thiền, để nhắc lại một ngày đã trôi qua trong an lạc, nhắc nhở vô thường để cố gắng tiến tu. Đặc biệt, tất cả những thời pháp giảng pháp này được truyền âm trực tuyến vào paltalk qua 2 room Phật Pháp Nhiệm Mầu & Trí Thức Thiện để chia sẻ đến quý Phật tử gần xa, đặc biệt dành cho nhiều Phật tử đang sinh sống ở các quốc gia không có chùa Việt Nam như Trung Quốc, Hồng Kồng, Triều Tiên, Nhật Bản, Tiệp Khắc… các vị không thể nghe trực tiếp.
Về phần khai thị mỗi sáng sớm, sau thời công phu khuya vẫn giữ theo truyền thống như các khóa An Cư trước, tức là sau mỗi thời Kinh khuya một vị Tôn túc trong khóa Hạ có lời khuyến tấn đại chúng tu tập theo lời dạy của chư Phật, chư Tổ trong xuyên suốt chiều dài lịch sử hai ngàn năm trăm năm qua, những lời khai thị của chư Tôn Đức đã mang lại cho đạo tràng tu học niềm pháp lạc vô biên, giúp cho đại chúng giữ vững sơ tâm, Bồ đề tâm và quyết tâm thực hành Bồ tát hạnh ở ngay trong cõi đời mong manh này.
Như thường lệ, mỗi buổi sáng từ 9 đến 11am là chương trình hội thảo Phật Pháp do các vị Tôn Đức lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm trong tu học và hoằng pháp, phụ trách một đề tài để cùng thảo luận với đại chúng. Các chủ đề hội thảo năm nay gồm có: TT Trường Sanh phụ trách đề tài: " Cuộc đời & hành trạng Đức Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết"; HT Minh Hiếu "Ứng dụng tâm lý học trong công cuộc hoằng pháp"; HT Quảng Ba " Tiến trình & hành hoạt GHPGVNTN trong thế kỷ thứ XX"; HT Bảo Lạc, HT Trường Sanh " Định Hướng tu học và hành đạo của Tăng Ni VN tại xã hội Tây Phương"; HT Bảo Lạc: " Cuộc đời & hành trạng Đức Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu"; TT Tâm Phương: "Hoạt Động Xã Hội của Tu sĩ đối với chính quyền địa phương và cộng đồng Úc Việt"; TT Nhật Tân " Phương thức ứng xử với các dư luận và mưu đồ phân hóa, vu báng nhằm mục đích phá hoại tín tâm Phật tử và đạo tình Pháp lữ của sơn môn Tăng già nhiều GH tại hải ngoại.”.
Khóa An Cư năm nay cũng như mọi năm, mỗi buổi tối sau thời Tịnh Độ huân tu, đều có một thời pháp dành cho quý Phật tử tham dự khóa hạ đó là các buổi giảng của TT Đạo Thông với đề tài "Pháp tu niệm Phật"; TT Nguyên Tạng & ĐĐ Phổ Huân giảng "Vạn Hạnh xưa và nay", TT Thiện Hiền & ĐĐ Viên Tịnh giảng "Giới luật trong nhà Phật", Ni Sư Đồng Liễu & SC Chúc Học giảng "Bố Thí và Trì Giới"; ĐĐ Đạo Hiển & ĐĐ Đồng Thanh " Nghiệp"; TT Giác Tín & ĐĐ Nhuận Chơn giảng về "Bát Phong Xuy Bất Động"; TT Tâm Phương & ĐĐ Hạnh Phẩm giảng " Khuyến tu và sám hối nghiệp chướng", SC Nguyên Khai & SC Thảo Liên giảng "Lắng nghe chánh niệm, Cho & Nhận"; Tất cả những thời pháp đã để lại trong lòng của người con Phật nơi đây nhiều điều mới lạ, củng cố thêm niềm tin chánh đạo trong quá trình trở về cội nguồn tâm linh.
Đặc biệt ngày thứ bảy, 7-7-2012, khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13 tại Tu Viện Vạn Hạnh, Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan đã đồng thuận thiết lễ Húy Kỵ Tưởng Niệm Bốn Đời Tăng Thống của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:- Đệ Nhất Tăng Thống, Đức Trưởng lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, sinh 1890 tỉnh Thừa Thiên, viên tịch năm Quý Sửu 1973 tại Huế, 83 thế tuế, 64 Hạ lạp. Bảo Tháp tôn trí tại Tổ Đình Tường Vân; Đệ Nhị Tăng Thống, Đức Trưởng lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, sinh 1878 tỉnh Quảng Trị, viên tịch năm Kỷ Mùi 1979 tại Huế, 102 thế tuế, 84 Hạ lạp. Bảo Tháp tôn trí tại Tổ Đình Thiền Tôn; Đệ Tam Tăng Thống, Đức Trưởng lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, sinh 1905 tỉnh Quảng Trị, viên tịch năm Nhâm Thân 1992 tại Huế, 87 thế tuế, 68 Hạ lạp. Bảo Tháp tôn trí tại Tổ đình Linh Mụ; Đệ Tứ Tăng Thống, Đức Trưởng lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, sinh 1920 tỉnh Bình Định, viên tịch năm Mậu Tý 2008 tại Bình Định, 89 thế tuế, 71 Hạ lạp. Bảo Tháp tôn trí tại Tu Viện Nguyên Thiều.
Một sự kiện quan trọng khác, cũng trong ngày 7-7-2012, Giáo Hội đã làm lễ Tấn Phong Giáo Phẩm cho các vị:- Hòa Thượng Thích Quảng Ba;- Hòa Thượng Thích Trường Sanh; - Thượng Tọa Thích Giác Tín; - Thượng Tọa Thích Đạo Thông và Ni Sư Thích Nữ Viên Thông, là những thành viên của Hội Đồng Điều Hành của Giáo Hội, đã có những đóng góp thiết thực cho công cuộc hoằng dương Phật Pháp tại Úc Châu hơn hai mươi năm qua.
Đáng chú ý nhất là ngày thứ năm 12-7-2012, Hòa Thượng Hóa chủ Thích Quảng Ba đã xin phép Giáo Hội tổ chức một Trai Đàn Chẩn Tế Bạt Độ Âm Linh Cô Hồn. Trai Đàn này đã cung thỉnh Chư Tôn Đức như sau: Gia trì & chú nguyện cho nghi thượng Phan triệu linh: HT Hội Chủ Thích Như Huệ; Gia trì Mật ngôn : HT T.G.Trưởng Thích Huyền Tôn; Nghi Thuyết Linh: HT Phó HC Thích Bảo Lạc; Hoàn Kinh, Siêu tiến: Thỉnh HT Thích Trường Sanh; Cúng Ngọ, Tiến Linh, Sám Chủ: TT Tâm Minh; Nghi Chẩn thí Mông Sơn: TT Nhuận An cùng nhiều vị Kinh Sư khác.
Hội họp để rồi phân ly, mười ngày An cư rồi cũng đã đến hồi kết thúc trong niềm phúc lạc vô biên, một chương trình Thiền Trà Văn Nghệ được tổ chức vào đêm cuối do HT Trường Sanh, ĐĐ Đồng Thanh & Ca Sĩ Thanh Tâm đảm trách điều hợp. Buổi thiền trà được đóng góp chia sẻ cảm tưởng, ý hướng, trong niềm vui hỷ lạc, được hợp diễn thật trang nghiêm, cảm động, vui tươi, sinh động nhất là tiết mục văn nghệ, quý Thầy, quý Cô, quý Phật tử hăng say trổ tài “tay trái” văn nghệ của mình, bằng tất cả các thể loại giúp vui như: hợp ca, đơn ca, ngâm thơ, diễn đọc vè...tất cả đều toát lên nét đẹp của thiền môn. Không gian, thời gian lúc này dường như lắng đọng lại, như nuối tiếc niềm yêu mến trong tình đạo với nhau, tất cả đều muốn kéo dài thêm khóa An Cư này nhiều ngày nữa, nhưng thời điểm đã định sẵn rồi, nên mọi người phải hoan hỷ chấp nhận thực tại, vì có như thế mới rõ ý nghĩa của cuộc thế vô thường.
Buổi chiều cuối cùng của khóa an cư, 13-7-2012, 2 giờ chiều thay vì buổi thọ trì Thủy Sám như thường lệ, chư Tôn Đức Tăng Ni đã tác pháp yết ma lễ xả giới Tự Tứ sau 10 ngày cấm túc an cư tu học, buổi lễ thật trang nghiêm và cảm động. Tất cả đều vui mừng, vì mọi Phật sự của Giáo Hội đã được diễn ra và kết thúc trong sự thành tựu viên mãn. Trong lễ bế mạc này, Ban Chức Sự Trường Hạ đã biếu tặng cho mỗi vị một tập kỷ yếu, ghi nhận cảm niệm và ảnh sinh hoạt của 10 ngày qua, để giúp mỗi người lưu dấu kỷ niệm đẹp đẽ, ngắn ngủi và đầy ý nghĩa này.
Trong năm năm qua, kể từ năm 2007, Giáo Hội đã bị đánh phá, chụp mũ, tưởng chừng có lúc phải ngưng sinh hoạt, nhưng vì sự kiên tâm, trì chí, chư Tôn Đức trong Giáo Hội đã sát cánh bên nhau để cùng nhau lèo lái con thuyền của Giáo Hội vượt qua cơn sóng gió. Tại khóa An Cư này, Giáo Hội cũng đã có phiên họp định kỳ của Hội Đồng Giáo Phẩm và Hội Đồng Điều Hành cùng tất cả các thành viên của Giáo Hội, để nghe báo cáo sinh hoạt của các Tổng vụ, cũng như bàn thảo về các chương trình hoạt động Phật sự trong thời gian tới.
Được biết khóa An Cư kỳ 14 của Giáo Hội vào năm tới 2013, sẽ được tổ chức tại Thiền Viện Minh Quang, Sydney do Hòa Thượng Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hoằng Pháp Thích Minh Hiếu (Viện Chủ TV Minh Quang) phát tâm đảm nhận. Xin chấp tay tán thán HT Minh Hiếu đã gánh vác Phật sự này (xem khóa An Cư lần 1 tại TV Minh Quang năm 2010). Tuy nhiên trước mắt mọi người đều nhắc nhở cùng nhau về tham dự đông đủ trong Khóa Tu Học Phật Giáo Úc Châu kỳ 12 được tổ chức từ ngày 28-12-2012 đến ngày 01-01-2013 tại Sydney Academy, Sport and Recreation, North Narrabeen, thuộc tiểu bang New South Wales, đây là một Trung Tâm sinh hoạt của chính phủ, đáp ứng mọi tiện nghi cho một Khóa Tu Học với số lượng trên 400 người (xem chi tiết thông báo).
Kính mời quý đồng hương Phật tử xa gần, nhất là các bạn trẻ, sinh viên, học sinh mạnh dạn đăng ký tham dự khóa tu nhân kỳ nghỉ lễ cuối năm nay. Đây là một khóa học Phật Pháp được chuẩn bị chu đáo để mang lại an lạc và lợi ích cho người tham dự. Xin quý Phật tử liên lạc và ghi danh tại các Tự viện địa phương trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan để được tham dự. Cần tu Giới Định Tuệ, để diệt tham sân si, hãy tinh tấn tu tập để được an lạc và giải thoát cho mình và cho người. Mong lắm thay.
Quý Phật tử xa gần có thể xem hình ảnh và tập kỷ yếu thơ văn ghi lại cảm xúc, cảm tưởng từ khóa hạ năm nay tại trang nhà: www.phatgiaoucchau.com và www.quangduc.com. Xin chúc nguyện chư Tôn Đức Tăng Ni, và đại chúng thân tâm thường an lạc, và pháp vị giải thoát, dư âm an cư tu học tại Trường Hạ Vạn Hạnh này vẫn còn mãi nơi lòng người.
Nam Mô A Di Đà Phật
Phổ Trí - Tâm Huệ (ghi nhanh)
Vạn Hạnh xưa & nay
TK Thích Nguyên Tạng
Trọng Nghĩa - Mộng Lan
diễn đọc bài này, nghe mp3
Nhắc đến hai chữ Vạn Hạnh ai cũng biết đó là đạo hiệu của một vị Thiền sư Việt Nam nổi tiếng, Thiền Sư Vạn Hạnh (938 -1025), cũng là một nhà tiên tri trong lịch sử VN. Ngài có nhiều đóng góp to lớn trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại danh tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngài được xem là cố vấn của Vua Lê Đại Hành và là Sư Phụ của Vua Lý Thái Tổ, người đã hướng dẫn cho vị vua này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập.
Năm nay khóa An Cư của Giáo Hội được tổ chức tại Tu Viện Vạn Hạnh, thủ đô Canberra, nên chúng ta có cơ hội để tìm hiểu về vị Thiền sư này và đôi nét về việc tạo dựng ngôi Tu Viện mang tên của Ngài tại Úc Châu.
Thiền Sư Vạn Hạnh chào đời vào năm 938 tại châu Cổ Pháp, làng Đình Bảng thuộc xã Từ Sơn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Từ nhỏ Ngài đã tỏ ra thông minh xuất chúng, học một biết mười, theo học cả Nho, Lão và Phật, đặc biệt là đọc hàng trăm bộ luận Phật giáo, coi thường công danh phú quý, do vậy đến năm 21 tuổi Ngài đã xuất gia đầu Phật với Thiền Sư Định Tuệ và học Phật với Đại Sư Thiền Ông (902-979) tại chùa Lục Tổ (còn gọi là Chùa Đà) ở làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Đại Sư Thiền Ông được xem là lầu thông vạn pháp, ngộ lý thiên cơ và là truyền nhân đời thứ hai của Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Rõ ràng, do căn lành từ nhiều đời nên Ngài Vạn Hạnh đã có nhân duyên thù thắng hội ngộ được bậc minh sư trong kiếp này, Ngài đã tinh tấn đêm ngày không mỏi mệt học hỏi và tu tập dưới sự dẫn dắt của Sư Phụ Thiền Ông.
Sau khi Đại Sư Thiền Ông viên tịch, Ngài Vạn Hạnh đã kế thừa trụ trì chùa này và bắt đầu tu tập theo Mật Giáo. Ngài thọ trì miên mật pháp môn "Tổng trì tam ma địa" trong một thời gian dài. Tam ma địa chính là Đại Định của Phật, những hành giả bậc thượng thừa thường đạt đến định này, khi đó thân và tâm không còn xao động, những vọng kiến và vọng tưởng điên đảo không thể xâm nhập vào đại định này. Đắc Tam ma địa này hành giả hoàn toàn nhập vào pháp thân của Đức Đại Nhật Như Lai cũng như hết thảy chư Phật trong mười phương. Ngài Vạn Hạnh có thể đã đạt đến đại định này nên mỗi khi Ngài thốt ra lời gì đều được thiên hạ cho là những lời tiên tri và sấm ký, tức là những lời nói báo trước những sự kiện quan trọng sắp xảy ra. Cũng chính vì tiếng lành tiên tri này cộng với đức hạnh tu tập của Ngài đã khiến cho Vua Lê Đại Hành thời bấy giờ hết mực tôn kính và nể phục.
Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất (980), tướng nhà Tống bên Trung Hoa là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở Cương Giáp, Lạng Sơn, vua Lê Đại Hành mời Ngài Vạn Hạnh vào cung để hỏi ý kiến nếu đánh thì thắng hay bại. Ngài đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời của ngài đã ứng nghiệm. Năm Nhâm Ngọ (982), vua Lê Đại Hành muốn kéo quân vào đánh Chiêm Thành để cứu sứ giả bị xứ này bắt giữ nhưng còn do dự, thì Ngài nói đây là cơ hội ngàn vàng đừng để mất. Sau đó lời khuyên này cũng đúng vì trận đánh ấy, quân Lê đã thành công.
Về công cuộc thành lập triều đại nhà Lý, duyên do là vào năm 981 (Tân Tỵ) Ngài Vạn Hạnh được Thiền Sư Lý Khánh Vân trụ trì Chùa Cổ Pháp gởi gắm người con nuôi 7 tuổi làm đệ tử, đó là Lý Công Uẩn. Ngài Vạn Hạnh đã nhận ra vương tính khi nhìn thấy đứa trẻ này và ngợi khen rằng: "Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ". Nên Ngài ra sức dạy dỗ, hun đúc chí nguyện và hoài bảo để mai sau đứa bé này có thể trở thành bậc minh quân cho xứ sở và là một vị vua Phật tử để chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam. Từ ước nguyện đó, Ngài đã tiến cử Lý Công Uẩn vào Kinh Đô Hoa Lư (Ninh Bình) làm quan dưới triều vua Lê Đại Hành. Sau đó Lý Công Uẩn theo giúp hoàng tử Lê Long Việt, con trưởng của vua Lê Đại Hành. Năm 1005, vua Lê Đại Hành băng hà, Lê Long Việt giành được ngôi báu, trở thành vua Lê Trung Tông, nhưng chỉ được 3 ngày Trung Tông bị em cùng Cha khác Mẹ là Lê Long Đĩnh sát hại để chiếm ngai vàng. Lúc đó các quan quân đều sợ hãi bỏ chạy, chỉ có Lý Công Uẩn chạy đến ôm xác Lê Trung Tông mà khóc lóc. Lê Long Đĩnh thấy vậy không những không trị tội mà còn khen Lý Công Uẩn là người trung nghĩa, tiếp tục trọng dụng và phong làm Tứ Sương Quân Phó Chỉ Huy Sứ, rồi sau đó thăng lên chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ (thời nay tương đương với chức Bộ Trưởng Quốc Phòng).
Khi nhìn thấy Vua Lê Long Đĩnh (986-1009) là vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê, trị vì xứ sở với chính sách tàn bạo và độc ác, như nhốt tù binh dưới nước cho chết ngạt khi thủy triều dâng lên hoặc róc mía trên đầu Tăng sĩ... khiến cho dân chúng oán giận căm hờn. Nên Thiền Sư Vạn Hạnh đã sắp xếp mọi việc để đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, mở ra một trang sử mới cho triều đại nhà Lý. Sách Thuyền Uyển Tập Anh có ghi rằng: " Lúc bấy giờ điềm lạ xuất hiện nhiều nơi, như xoáy lông trên lưng con chó trắng ở Viện Hàm Toại; chùa Ứng Thái Tâm, châu Cổ Pháp có hình chữ Thiên tử; cây gạo bị sét đánh để lại vết tích chữ viết; xung quanh mộ Hiền Khánh đại vương ban đêm nghe tiếng tụng kinh râm ran; cây đa ở chùa Song Lâm có vết sâu ăn hình chữ “quốc”v.v...". Những hiện tượng này không là tự nhiên mà đều do Thiền Sư Vạn Hạnh thực hiện và biện giải đầy đủ ý nghĩa, tất cả đều hợp với điềm cho thấy sự suy vong của nhà Lê và nhà Lý sẽ lên thay thế.
Đại Việt Sử Lược cũng ghi nhận việc này rằng: trong làng vua có cây bông gạo bị sét đánh, để dấu vết thành bài văn, trong đó có những câu: "Thụ căn yểu yểu, Mộc biểu thanh thanh, Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành", có nghĩa là: Gốc rễ thăm thẳm, Vỏ cây xanh xanh, Lúa dao cây rụng, Mười tám hạt thành". Theo phép chiết tự chữ Hán, câu thơ này ẩn ý nhà Lê sẽ mất (cây rụng) và nhà Lý (thập (十) + bát (八) + tử (子) thành chữ lý (李)) sẽ nổi lên. Thiền sư Vạn Hạnh cho mời Thân vệ Lý Công Uẩn đến và nói rằng: “Gần đây tôi thấy nhiều lời sấm lạ báo hiệu nhà Lê phải mất mà nhà Lý tất phải lên thay. Người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai khoan từ nhân đức bằng ông, đương nắm binh quyền trong tay lại được lòng dân chúng. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ còn ai đương nổi. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông ra thế nào. Tôi chỉ ân hận không kịp thấy đời thịnh trị mà thôi...”.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào ngày 19-11 năm 1009, vua Lê Long Đĩnh mất, các con còn nhỏ, quan Điền tiền chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của Chi nội là Đào Cam Mộc cùng Thiền Sư Vạn Hạnh đã lên ngôi hoàng đế, các quan trong triều cũng đều nhất trí suy tôn.
Lúc Lý Công Uẩn lên ngôi Ngài đang ở chùa Lục Tổ mà biết trước sự việc. Ngài nói với người chú và người bác của Lý công Uẩn: " Thiên tử đã băng hà, Lý thân vệ đang ở nhà. Người nhà thân vệ túc trực trong thành nội có hàng ngàn. Nội trong ngày, thân vệ ắt sẽ được thiên hạ". Thiền Sư Vạn Hạnh cũng cho người niêm yết bài thơ này ở các ngả đường: " Tật lê trầm Bắc thủy, Lý tử thụ Nam thiên, Tứ phương can qua tỉnh, Bát biểu hạ bình an", (Tật Lê chìm biển Bắc, Cây Lý mọc trời Nam, Bốn phương binh đao lặng, Tám hướng chúc bình an).
Sau khi lên ngôi, lấy miếu hiệu là Lý Thái Tổ, niên hiệu là Thuận Thiên (trị vì từ 1009 đến 1028) Vua Lý Thái Tổ đã suy tôn Sư phụ của mình là Thiền Sư Vạn Hạnh làm Quốc Sư, từ đó những việc quan trọng của đất nước, vua đều cầu thỉnh sự chỉ dạy của Ngài.
Thiền sư Vạn Hạnh cũng là người cố vấn cho Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, vì đất Hoa Lư, cố đô của Đại Cồ Việt chật hẹp không thể mở mang được, nên phải dời đô về thành Đại La (hay La Thành), ngày nay là Hà Nội. Khuyên vua rời bỏ hẳn một kinh đô từ vùng núi non hiểm trở để ra vùng đồng bằng, cho thấy tầm nhìn và bản lãnh phi thường của một Thiền sư tu chứng mà không quên chuyện quốc sự, mang lại ánh sáng và hạnh phúc cho muôn dân về sau.
Toàn cảnh bên trong Hoàng thành Thăng Long
Vào ngày rằm tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (tức 13 tháng 6 năm 1025), khi công hạnh đã viên mãn, Thiền sư Vạn Hạnh gọi chúng đệ tử lại dặn dò, đọc bài kệ rồi thị tịch. Vua Lý Thái Tổ và tất cả triều thần nhà Lý đến làm lễ Trà tỳ, thỉnh Xá lợi của Ngài về thờ tại chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh). Đây là bài kệ Ngài để lại trước khi viên tịch:
"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thịnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành)
(HT.Thích Mật Thể dịch)
Về sau vì cảm mến đức độ và tài năng của của Thiền Sư Vạn Hạnh mà Vua Lý Nhân Tông (1072-1127), vị vua thứ tư của triều đại nhà Lý, có bài kệ tán thán công đức của Ngài rằng:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm cơ
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.
(Vạn Hạnh thông ba cõi
Thật hợp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ Pháp
Chống gậy trấn kinh vua).
Dù Thiền Sư Vạn Hạnh đã viên tịch nhưng công hạnh tu tập và đức độ giáo hóa của Ngài vẫn còn vang vọng mãi với không gian vô biên và với thời gian bất diệt.
Bảo Tháp & tôn tượng Thiền Sư Vạn Hạnh
tại Chùa Tiêu ở Tiên Sơn, Bắc Ninh
Vạn Hạnh ngày nay
Tại Việt Nam từ 1964 đến 1975 đã có một viện đại học mang tên Ngài là Đại học Vạn Hạnh ở đường Trương Minh Giảng, Sàigòn, nhiều thế hệ Tăng Ni và Phật tử xuất thân từ mái trường Vạn Hạnh đã giúp làm lớn mạnh cho nền Phật Giáo Việt Nam trong và ngoài nước. Hiện nay, tại nhiều thành phố lớn ở Việt Nam có những con đường được đặt tên "Sư Vạn Hạnh" để tưởng nhớ một vị Thiền sư đã ghi lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc. Ở hải ngoại, nếu tại miền Tây nước Pháp, thị trấn Saint Herblain, có Chùa Vạn Hạnh do TT Thích Nguyên Lộc trụ trì; tại thành phố San Diego, Hoa Kỳ, có Chùa Vạn Hạnh, thì tại thủ đô Canberra, Úc Châu, có Tu Viện Vạn Hạnh do HT. Thích Quảng Ba sáng lập.
Tu Viện Vạn Hạnh tọa lạc tại thị trấn Lyneham, cách trung tâm Thủ Đô Canberra khoảng 5 cây số. Canberra được chọn làm thủ đô của liên bang Úc vào năm 1913, vị trí nằm giữa 2 tiểu bang Victoria và New South Wales, lý do là hai tiểu bang này, nơi nào cũng dành phần đặt thủ đô về thành phố của mình là Melbourne hay Sydney, nên cuối cùng Quốc Hội Liên Bang phải bỏ phiếu tìm một địa điểm thích hợp mọi mặt cho việc phát triển thành một thủ đô tầm vóc. Sau nhiều năm tìm kiếm, đệ trình, chọn lựa, so sánh của một toán kỷ sư địa chất tài giỏi, cuối cùng đã được Quốc Hội Liên Bang Úc thời ấy quyết định chọn Canberra làm thủ đô của quốc gia này.
Hình ảnh công trình xây dựng Tu Viện Vạn Hạnh (xem tiếp)
Tu Viện Vạn Hạnh, do HT.Thích Quảng Ba tạo lập tại thủ đô này vào đầu năm 1984, chỉ vài tháng, sau khi Ngài rời trại tỵ nạn Mã Lai để đến định cư tại Úc. Trong 4 năm đầu tiên, rất nhiều khó khăn, Tu viện Vạn Hạnh đã di chuyển sinh hoạt trong một căn hộ thuê nhỏ hẹp. Năm 1987, theo đơn xin dưới đạo luật Church Land Leases Ordinance 1921, Hội Phật Giáo Việt Nam Thủ Đô Canberra do hai Thầy Quảng Ba và Thầy Quảng Trừ làm Chánh/Phó Hội Trưởng Đại Diện, được chính phủ Liên Bang hiến tặng một miếng đất rộng 16,650m2. Năm 1988, từ hai bàn tay trắng, HT Quảng Ba cùng chư Tăng Ni và các Phật tử thuần thành đã quyết định tiến hành việc xây cất một Trung tâm Tu Học Phật Giáo trên mảnh đất này. Đó là một ước mơ mà Thầy đã ấp ủ từ lâu, cùng lúc, vừa phải tiếp tục củng cố tổ chức còn đơn sơ, vừa lo tu tập, lo việc hoằng pháp, từ thiện, giao tế, cứu giúp Giáo Hội quê nhà, vừa lo tổ chức tu học cho Phật tử địa phương và các nơi v.v…
Công trình xây cất Tu Viện Vạn Hạnh đã trải qua các giai đoạn sau: (1)- Năm 1988 xây Phật đài lộ thiên đức Bổn Sư cao 6,5m và Tu viện Vạn Hạnh, 400m2 có chánh điện tạm, thư viện nhỏ, 2 văn phòng, phòng sinh hoạt Phật tử, 4 phòng Tăng, 2 phòng Ni, nhà bếp, nhà kho, nhà tắm, vệ sinh v.v… (2)- Năm 1993 xây Tượng đài lộ thiên Quán Thế Âm cao 6,5m, hồ sen 64m2, khu vườn cảnh 100m; (3)- Năm 1997-2001 xây Đại Bi đường và Cư xá La Hầu La với 4 dãy 52 căn hộ chung cư để cho người Úc nghèo thuê ở, tất cả hơn 1,600m2; (4) Năm 2002-2005 xây Ni xá Diệu Không 420m2, Tăng xá Bửu Quang 480m2, Tam Quan Bất Nhị cao 11m rộng, 15m, sâu 5m, và Tháp Hồng Chung Linh Cảm cao 9m và rộng 64m2.
Từ 2008 cho đến 2015, một đồ án mới đã xin được giấy phép, đang tiếp tục xây dựng các công trình sau: (1)- Thư viện Long Thọ 650m gồm cả Trung Tâm Xã Hội-Từ Thiện Văn Lang và đoàn quán GĐPT, (2)- Phật Học Viện Giác Tánh 750m với 4 giảng đường, 2 văn phòng, phòng nghiên cứu, phòng thu hình thu âm, và các tiện nghi cư trú dài hạn cho 2 Giáo thọ, (3)- Bảo Tháp Xá lợi Hòa Bình Thế Giới, nền vuông 100m, cao 21m với 5 tầng lục giác; (4)- Quan trọng nhất là Đại Điện Bát Nhã, 2 tầng 1,600m2 luôn cả trên lầu là Phật điện, bao lơn, hành lang, sân đón, chung cổ lâu, Tổ đường, Báo ân đường, Phương trượng, và tầng trệt là Hội trường Huyền Quang, cũng là Giảng đường đa dụng, Trai đường và các tiện nghi công cộng xử dụng cho khoảng 700 người. Tính đến nay, năm 2012, sau hơn 24 năm liên tiếp xây cất, với một ngân khoản đã và sẽ cần đến là hơn 10 triệu Úc kim.
Hòa Thượng Thích Quảng Ba
Qua bao nhiêu gian nan, thử thách, ngày nay mảnh đất hoang sơ không điện nước ban đầu, đã chính thức trở thành “Tu viện Vạn Hạnh”, một Trung Tâm Tu Học Phật Giáo Việt Nam, có kiến trúc hài hòa giữa những nét cổ kính Đông Phương và Tây Phương hiện đại, là một trung tâm Phật Giáo lớn nhất ở Canberra và có tầm vóc đáng kể của cả quốc gia Úc.
Người tạo dựng Tu Viện Vạn Hạnh này là Hòa Thượng Thích Quảng Ba, sinh năm 1955 tại Bình Định, Việt Nam. Ngài xuất gia vào năm 1964 với Cố Hòa Thượng Thích Bửu Quang (1927-1995) và Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Tánh (1911-1987) tại Tổ Đình Hưng Long. Ngài thọ giới Sa Di năm 1970 tại Giới Đàn Vĩnh Gia, Đà Nẵng, thọ Cụ Túc Giới vào tháng 5 năm 1974 tại Đại Giới Đàn Khánh Anh tại Long Xuyên. Hòa Thượng đã từng theo học tại các Phật Học Viện Nguyên Thiều (1968-1969), Phật Học Viện Trung Đẳng Chuyên Khoa Phước Huệ,Thập Tháp (1970-1973) và Viện Cao Đẳng Phật Học Chuyên Khoa Hải Đức, Nha Trang (1973-1975). Đến tháng 3 năm 1983 Hòa Thượng vượt biển tỵ nạn ở Mã Lai và đến ngày 2/11/1983, Ngài đã xin được đến định cư tại Úc Châu. Từ 1987 đến 1999, Hòa Thượng được cử giữ chức Tổng Thư Ký Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan. Từ 1999 đến nay 2012, Hòa Thượng là Phó Hội Chủ Ngoại Vụ thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan.
Do những công đức tu tập, hoằng dương Phật Pháp kể trên mà Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL đã tác pháp yết ma tấn phong Ngài lên ngôi vị Hòa Thượng vào ngày thứ Hai, 2/1/2012 tại kỳ họp định kỳ của Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương (nhân Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 12 ở vùng Kyneton, Victoria từ 30-12-10 đến 03-01-2012) và nghi thức lễ Tấn Phong đã được tổ chức trưa thứ bảy, 7-7-2012 (xem hình) trong khóa An Cư tu học kỳ 13 của Giáo Hội, được tổ chức ngay tại Tu Viện Vạn Hạnh của Ngài.
Chúng con xin thành tâm tán thán công đức, chúc mừng và chấp tay nguyện cầu cho Hòa Thượng Thích Quảng Ba pháp thể khương an, tuệ đăng thường chiếu và mọi Phật sự của Ngài sớm viên thành như ước nguyện.
Nam Mô A Di Đà Phật
Viết tại Khóa An Cư 2012 tại Tu Viện Vạn Hạnh
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Tài liệu kham thảo:
- Đại Việt sử ký toàn thư (Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, v.v...(xem)
- Thuyền Uyển Tập Anh (do Ngô Đức Thọ & Nguyễn T Nga dịch) (xem)
- Kỷ Yếu 10 Khóa Tu Học PP Úc Châu (2010) (xem)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012)
Lễ Tấn Phong Giáo Phẩm
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012)
Ban Thực Hiện Kỷ Yếu
Cố vấn: HT Thích Bảo Lạc
Biên tập nội dung: TT Nguyên Tạng
Đánh máy: ĐĐ Phổ Huân, NS Viên Thông,
SC Nguyên Khai, Diệu Ánh
Trình bày nội dung: Nhị Tường
Trình bày bìa: Quảng Tuệ Duyên
Sửa bản in: Thích Thanh Nghiệp,
Quảng Hoa Tâm, Minh Tường
Kỹ thuật ấn loát: Tu Viện Vạn Hạnh
***
Trở về Mục Lục Tổng Quát
Khóa An Cư Kiết Đông
của Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL