- 01. Phước Thiện (Puññakusala)
- 02. Phước Thiện Bố Thí
- 03. Những Đại Thí Chủ Xuất Sắc Về Hạnh Bố Thí
- 04. Những Tích Bố Thí
- 05. Phước Bố Thí Cho Quả Kiếp Hiện Tại
- 06. Bố Thí Và Hồi Hướng
- 07. Bố Thí - Phát Nguyện
- 08. Bố Thí - Kết Quả
- 09. Bố Thí Mong Cầu Siêu Tam Giới
- 10. Nghiệp Lực
- 11. Bố Thí Ba-la-mật
- 12. Đoạn kết
TÌM HIỂU PHƯỚC BỐ THÍ
Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp
NHỮNG ĐẠI THÍ CHỦ XUẤT SẮC VỀ HẠNH BỐ THÍ
Tích ông phú hộ Anāthapiṇḍika
Tiền thân của ông phú hộ Anāthapiṇṇika là một cận sự nam trong thời Đức Phật Padumuttara [thời kỳ Đức Phật Padumuttara thời gian cách Đức Phật Gotama 100 ngàn đại kiếp, trải qua 14 Đức Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian] xuất hiện trên thế gian. Một hôm, ông ngồi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp; nhân dịp ấy, Đức Phật tuyên dương công đức một cận sự nam là thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong hàng cận sự nam thí chủ đệ tử của Ngài. Nghe thấy xong, ông vô cùng hoan hỉ, có nguyện vọng muốn trở thành người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong hàng cận sự nam của một Đức Phật trong thời vị lai.
Người cận sự nam (tiền thân của ông phú hộ Anāthapiṇṇika)ấy, kính thỉnh Đức Phật Padumuttara cùng chư Đại Đức Tăng làm phước thiện bố thí, ông phát nguyện muốn trở thành người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, như người cận sự nam thí chủ của Ngài. Đức Phật Padumuttara dùng Phật nhãn thấy rõ kiếp vị lai của người cận sự nam này nên thọ ký rằng:
Thời vị lai, Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, người cận sự nam này sẽ trở thànhcận sự nam thí chủ suất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong hàng cận sự nam của Đức Phật Gotama.
Người cận sự nam ấy vô cùng hoan hỉ tạo mọi phước thiện bố thí cho đến trọn đời.
Từ thời kỳ Đức Phật Padumuttara cho đến Đức Phật Gotama thời gian cách 100 ngàn đại kiếp trái đất, trải qua 14 Đức Phật, người cận sự nam ấy, trong vòng tử sanh luân hồi, do phước thiện cùng nguyện lực thường được tái sanh làm thiên nam trong cõi trời, hoặc người nam cõi người, trong gia đình phú hộ, có đức tin trong sạch, thường hoan hỉ trong việc làm phước thiện bố thí.
Kiếp hiện tại, tái sanh làm con trai trong gia đình phú hộ Sumana, cha mẹ đặt tên Sudatta. Cậu Sudatta, con phú hộ, lập ra một trại bố thí, hằng ngày phân phát vật thực cho những người cô độc không nơi nương tựa. Do đó, người đời tặng ông cái tên mới Anāthapiṇṇika, về sau, phần đông mọi người biết đến tên mới này, còn tên cũ do cha mẹ đặt ít ai biết đến.
Một lần, phú hộ Anāthapiṇṇika dẫn đầu 500 cỗ xe chở hàng đến kinh thành Rājagaha, bán cho phú hộ trong kinh thành ấy, vốn là anh em rể với nhau.
Trong dịp ấy, phú hộ Anāthapiṇṇika được nghe tin lành "Buddho"Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian, vừa nghe danh hiệu "Buddho"ông phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nghĩ rằng: "trong thế gian này nghe được danh hiệu "Buddho"hiếm có lắm, khó lắm!".Ông muốn đến hầu Đức Phật ngay, nhưng vì ban đêm không tiện, nên nằm chờ đến sáng. Trong lúc nằm ông chỉ niệm tưởng đến Ân Đức Phật "Buddho",nên tâm phát sanh ánh sáng, ông tưởng đã gần sáng liền thức dậy, ông đi đến hầu Đức Phật vào canh chót đêm.
Đức Phật biết rõ ông Anāthapiṇṇika sắp đến, Ngài đi kinh hành xong ngồi chờ ông. Ông vừa đến gần, Đức Phật gọi:
- Ehi Sudatta! Này Sudatta, con hãy lại đây!
Nghe Đức Phật gọi đích danh Sudatta, ông vô cùng hoan hỉ, bởi từ lâu mọi người chỉ biết ông với cái tên Anāthapiṇṇika mà thôi; còn tên thật của ông do cha mẹ đặt, mọi người không ai nhắc đến. Nay, nghe Đức Phật gọi tên thật của mình, nên ông liền phát sanh đức tin trong sạch, hết lòng tôn kính Đức Phật, đến hầu đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ngài.
Khi ấy, Đức Phật thuyết pháp tế độ ông, ông lắng nghe, thực hành theo liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, ông tán dương ca tụng Đức Phật rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn, con thật vô cùng hoan hỉ!
Kính bạch Đức Thế Tôn, con thật vô cùng hoan hỉ!
Đức Thế Tôn thuyết pháp bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người đang lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối cho người có đôi mắt sáng được nhìn thấy tất cả mọi vật hiện hữu.
Con xin nguyện hết lòng thành kính xin quy y nương nhờ nơi Đức Thế Tôn, nơi Đức Pháp, nơi Đức Tăng.
Kính xin Đức Thế Tôn chấp thuận con là người cận sự nam đã quy y Tam bảo kể từ nay cho đến trọn đời.
Ông Anāthapiṇṇika đã quy theo cách siêu tam giới quy y(lokuttarasaraṇagamana).
Ông kính thỉnh Đức Phật cùng 1.000 chư Đại Đức Tăng cúng dường vật thực vào hôm sau. Nhân dịp ấy, ông kính thỉnh Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng ngự đến kinh thành Sāvatthi để tế độ dân chúng nơi đó. Đức Phật nhận lời bằng cách làm thinh.
Từ kinh thành Rājagaha đến kinh thành Sāvatthi cách xa 45 do tuần [1 do tuần khoảng 20.482,56 mét hoặc 12,72 miles]. Mỗi do tuần ông bỏ ra số tiền 100 ngàn kahāpana (tiền Ấn) nhờ những người bạn thân xây cất một ngôi chùa, để Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng nghỉ chân. Khi ông về đến kinh thành Sāvatthi, ông chọn khu vườn của ông hoàng Jeta, rồi mua khoảng đất ấy, bằng cách lót vàng trên mặt đất, ông đã xuất kho vàng trị giá khoảng 180 triệu đồng vàng để mua đất, 180 triệu để xây cất ngôi chùa, đặt tên chùa Jetavana, và chi phí thêm số tiền 180 triệu để tổ chức lễ khánh thành dâng ngôi chùa ấy đến chư Tăng tứ phương, có Đức Phật chủ trì chứng minh và làm phước bố thí kéo dài suốt 3 tháng.
Như vậy, đại thí chủ Anāthapiṇṇika hiến dâng tổng số tiền 540 triệu làm phước bố thí: mua đất, cho xây cất chùa Jetavana và tổ chức lễ khánh thành, làm phước bố thí.
Trong tư thất của ông thường có làm các loại bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng như:
Hằng ngày dâng vật thực bằng thẻ có 500 vị.
Hằng tháng dâng vật thực 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.
Hằng ngày dâng cháo sáng bằng thẻ có 500 vị.
Hằng tháng dâng cháo sáng 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.
Hằng ngày dâng vật thực đến 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu khách mới đến 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu sắp đi xa 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu bệnh 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bệnh 500 vị.
Như vậy, trong tư thất phú hộ Anāthapiṇṇika luôn luôn sửa soạn sẵn 500 chỗ ngồi để đón tiếp chư Tỳ khưu.
Trong dịp chư Tăng hội họp, Đức Phật tuyên dương công đức ông phú hộ Anāthapiṇṇika:
"Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ upāsakānaṃ dāyakānaṃ yadidaṃ Sudatto gahapati Anāthapiṇṇiko".
"Này chư Tỳ khưu, trong hàng nam Thanh Văn cận sự nam của Như Lai, Anāthapiṇṇika tên thật Sudatta là người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí".
Phú hộ Anāthapiṇṇika, mỗi ngày 2-3 lần đến chùa Jetavana hầu Đức Phật hoặc thăm viếng chư Đại Đức, Tỳ khưu, Sa di, nếu có bận rộn nhiều công việc, thì ít nhất cũng một lần, không có ngày nào mà ông không đến chùa, thành thói quen thường ngày của ông. Mỗi lần đến chùa, ông phú hộ thường mang theo những vật dụng cần thiết dâng cúng đến Đức Phật, hoặc chư Tỳ khưu, Sa di.
Đến ngày cuối cùng cuộc đời ông phú hộ Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, nằm trên giường, không thể đến chùa được, ông nhờ một người thân tín bảo rằng:
Này con, con hãy đến chùa, đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn bạch rằng: "Ông Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, sắc thân thọ khổ, nhờ con thay ông đến đảnh lễ dưới chân Ngài.
Và con đến đảnh lễ dưới chân Ngài Đại Đức Sāriputta bạch rằng: "Ông Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, sắc thân thọ khổ, nhờ con thay ông đảnh lễ dưới chân Ngài, kính thỉnh Ngài đến nhà ông với tâm bi tế độ ông".
Ngài Sāriputta nhận lời bằng cách làm thinh, rồi gọi Đại Đức Ānanda cùng đi theo đến nơi biệt thự của ông Anāthapiṇṇika, thăm hỏi bệnh tình của ông, Ngài Sāriputta thuyết pháp tế độ ông. Ông vô cùng hoan hỉ theo lời dạy của Ngài Đại Đức Sāriputta.
Phú hộ Anāthapiṇṇika vô cùng cảm kích trước tấm lòng bi mẫn của Ngài Đại Đức Sāriputta, đã đến thuyết pháp tế độ ông trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời.
Ngài Đại Đức Sāriputta với Ngài Đại Đức Ānanda từ giã ông phú hộ Anāthapiṇṇika không lâu, thì ông phú hộ Anāthapiṇṇika từ giã cuộc đời. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm thiên nam ở cõi trời Tusita (Đâu suất đà thiên),có sắc thân hào quang sáng ngời, trong lâu đài nguy nga tráng lệ đặc biệt hơn các thiên nam khác.
Vào canh chót đêm hôm ấy, thiên nam Anātha-piṇṇika từ cõi trời Tusita hiện xuống chùa Jetavana với ánh hào quang sáng ngời, đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, đứng một nơi hợp lẽ, tán dương Ân Đức Phật, Ân Đức Pháp, Ân Đức Tăng, tán dương ân đức Ngài Đại Đức Sāriputta, rồi đảnh lễ Đức Thế Tôn xin phép trở về cõi Tusita.
Sáng hôm sau, Đức Phật dạy chư Tỳ khưu rằng:
- Này chư Tỳ khưu, canh chót đêm qua, có vị thiên nam đến hầu đảnh lễ Như Lai, đứng một nơi hợp lẽ, tán dương Ân Đức Phật, Ân Đức Pháp, Ân Đức Tăng, tán dương ân đức Sāriputta, rồi đảnh lễ Như Lai xin phép trở về cõi trời Tusita.
Ngài Đại Đức Ānanda đoán biết vị thiên nam ấy là ai, nên bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, có phải vị thiên nam ấy là vị thiện nam Anāthapiṇṇika không? Bạch Ngài.
Đức Thế Tôn dạy:
- Đúng vậy Ānanda! Vị thiên nam ấy chính là Anāthapiṇṇika.
Vị thiên nam Anāthapiṇṇika là 1 trong 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát nguyện xin thọ hưởng sự an lạc tuần tự các tầng trời dục giới cho đến các tầng trời sắc giới tột cùng, cõi Sắc cứu cánh thiên, sẽ tịch diệt Niết Bàn nơi cõi này. Do đó, vị thiên nam Anāthapiṇṇika, khi tái sanh đến cõi Tha hoá tự tại thiên, tầng trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục giới, vị thiên nam ấy tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, cho quả tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới Phạm chúng thiên (Brahmaparisajjā);tiếp tục tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ nhị thiền; chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ tam thiền; và tiếp tục chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới đồng thời chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo – Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo – Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai được tái sanh lên tầng trời sắc giới Tịnh cư thiên (Suddhavāsa) có 5 tầng trời theo tuần tự Vô phiền thiên – Vô nhiệt thiên – Thiện hiện thiên – Thiện kiến thiên và đến tầng Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭhā)tột cùng cõi trời sắc giới, sẽ chứng đắc A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hưởng hết tuổi thọ 16.000 đại kiếp rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.
Tích bà đại thí chủ Visākhā
Ở thời kỳ Đức Phật Padumuttara, tiền kiếp bà cận sự nữ Visākhā đã từng phát nguyện mong trở thành cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí trong hàng cận sự nữ của một Đức Phật trong thời vị lai. Bà được Đức Phật Padumuttara thọ ký.
Từ kiếp đó về sau, trong vòng tử sanh luân hồi suốt 100 ngàn đại kiếp, do thiện nghiệp cho quả thường tái sanh làm thiên nữ cao quý cõi trời hoặc cõi người là con gái trong gia đình phú hộ, bà có đức tính hoan hỉ trong việc bố thí.
Kiếp hiện tại, tái sanh làm con gái của phú hộ Dhanañjaya tại kinh thành Bhaddiya, xứ Aṅga, đặt tên là Visākhā. Cô Visākhā mới lên bảy tuổi đi cùng với ông nội, phú hộ Meṇṇaka, đến nghe Đức Phật thuyết pháp xong, cô cùng với 500 cô bạn gái đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, ông phú hộ Meṇṇaka cũng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu cùng lúc ấy.
Theo sự yêu cầu của đức vua Pasenadikosala xứ Sāvatthi, toàn thể gia đình của cô Visākhā di chuyển đến xứ Sāvatthi, tạo lập thành phố Sāketa sinh sống.
Cô Visākhā trưởng thành kết hôn cùng với cậu Puṇṇavaṇṇhana con trai của phú hộ Migāra trong xứ Sāvatthi.
Cô về làm dâu trong gia đình Migāra, là gia đình theo phái ngoại đạo loã thể, không có đức tin nơi Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng.
Một hôm, chư Đại Đức đi khất thực đứng trước ngôi biệt thự cha chồng, cha chồng vẫn ngồi dùng vật thực ngon lành không hề quan tâm đến vị Đại Đức khất thực, nàng Visākhā nhìn thấy vậy nên bạch rằng:
- Aticchatha Bhante, mayhaṃ sasuro purāṇam khādati
(Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Visākhāvatthura)
Kính bạch Ngài, kính thỉnh Ngài hoan hỉ sang nhà khác, cha chồng của con dùng đồ cũ.
Ông phú hộ Migāra nghe con dâu của mình nói "Purāṇam khādati: dùng đồ cũ", ông hiểu ý nghĩa là "Asucikhādakaṃ: dùng đồ dơ". Ông tức giận quyết định đuổi nàng dâu ra khỏi nhà. Nhưng không dễ dàng như ông nghĩ, vì khi cô Visākhā về nhà chồng, thân phụ của cô gởi theo 8 vị luật sư. Mỗi khi xảy ra chuyện gì có 8 vị luật sư xét xử cô có tội hay vô tội.
Ông phú hộ Migāra mời 8 vị luật sư xét hỏi về điều cô nói "Purāṇam khādati" có ý nghĩa gì?
Cô Visākhā giải thích rằng:
- Mayhaṃ sasuro imasmiṃ attabhāve puññaṃ na karoti, purāṇapuññameva khādati
[Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Visākhāvatthura].
"Cha chồng của con, kiếp hiện tại này không làm phước thiện bố thí, chỉ hưởng quả của phước thiện bố thí cũ mà thôi.", hoàn toàn không có ý "dùng đồ dơ" như ông hiểu lầm. Như vậy, các luật sư phán xét cô hoàn toàn vô tội. Ông Migāra trình bày những lỗi khác của nàng dâu; những luật sư xét xử cô đều vô tội, chẳng qua là sự hiểu lầm của phú hộ mà thôi.
Cô Visākhā thưa rằng:
- Kính thưa quý vị luật sư, trước đây, cha chồng của con hiểu lầm rằng con có tội, đuổi con ra khỏi nhà. Qua sự xét xử, con là người hoàn toàn vô tội, nay con xin từ giã ngôi biệt thự này, trở về nhà cha mẹ của con.
Ông phú hộ Migāra khẩn khoản xin con dâu miễn chấp rằng:
- Này con, cha đã hiểu lầm, nên bắt tội con, nay cha đã biết mình có lỗi đối với con, xin con miễn chấp lỗi cho cha.
Nàng Visākhā thưa với cha chồng rằng:
- Thưa cha, con sẵn sàng miễn chấp lỗi của cha, xin cha cho con một đặc ân: con là người cận sự nữ đã quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Cho nên, con không thể sống thiếu Đức Phật, thiếu nghe pháp, và thiếu tạo phước thiện bố thí cúng dường đến chư Đại Đức Tăng. Nếu cha muốn con ở lại đây, xin cha cho phép con được chiêm bái Đức Phật, nghe pháp, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Đại Đức Tăng. Nếu không con sẽ rời khỏi nơi đây.
- Này con, cha chấp thuận theo yêu cầu của con, con được chiêm bái Đức Phật, nghe pháp và thỉnh chư Đại Đức Tăng về nhà làm phước. – Ông phú hộ Migāra bảo.
Hôm sau, nàng Visākhā thỉnh Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng đến nhà dâng cúng vật thực. Khi thọ thực xong, nàng Visākhā cho người mời cha chồng đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Ông sửa soạn đi, thì vị Đạo Sư phái ngoại đạo loã thể ngăn lại. Mặc dầu vậy, Đức Phật thuyết pháp ông vẫn nghe rõ ràng từng tiếng, từng câu. Khi Đức Phật thuyết pháp xong, ông liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu ngay khi ấy.
Ông phú hộ Migāra đến hầu Đức Phật, đảnh lễ dưới hai bàn chân Ngài bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, con là Migāra! Bạch Ngài.
Kính bạch Đức Thế Tôn, con là Migāra! Bạch Ngài.
Trước sự hiện diện của Đức Phật, ông thưa với nàng dâu rằng:
- Này con, kể từ nay con ở ngôi vị là mẹ của ta.
Từ đó nàng Visākhā thêm vào tên là Visākhā Migāramātā: nàng Visākhā mẹ phú hộ Migāra.
Bà Visākhā Migāramātā có 20 đứa con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi đứa con trai, mỗi đứa con gái có 20 người con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi cháu trai, mỗi cháu gái lại có 20 người con: 10 con trai, 10 con gái. Như vậy, bà Visākhā Migāramātā có 20 người con, 400 người cháu và 8.000 người chắt.
Bà Visākhā Migāramātā thường hoan hỉ trong mọi phước thiện bố thí.
Một thuở nọ, bà đến đảnh lễ Đức Phật xin phép 8 đặc ân:
1- Xin dâng y tắm mưa đến chư Tỳ khưu trọn đời.
2- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu khách mới đến.
3- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu sắp đi xa.
4- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu lâm bệnh.
5- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bị bệnh.
6- Xin dâng thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu mắc bệnh.
7- Hằng ngày xin dâng cháo buổi sáng đến chư Tỳ khưu.
8- Xin dâng y tắm đến chư Tỳ khưu ni Tăng.
Tám đặc ân này được Đức Phật cho phép, bà Visākhā vô cùng hoan hỉ trong mọi việc làm phước thiện bố thí này.
Một dịp nọ, đến chùa nghe Đức Phật thuyết pháp, bà Visākhā mang theo một tấm choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý. Bà cởi trao cho đứa tớ gái, vào đảnh lễ Đức Thế Tôn, ngồi nghe pháp, nghe xong, bà đảnh lễ Đức Thế Tôn xin phép đi về, cô tớ gái đi về theo, để quên lại tấm choàng mahālatā tại giảng đường. Sau khi tất cả mọi người đi về hết, Ngài Đại Đức Ānanda nhìn thấy tấm choàng của bà Visākhā để quên lại, bạch Đức Thế Tôn rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, bà Visākhā đã về, để quên tấm choàng lại. Bạch Ngài.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda con nên để một nơi hợp lẽ.
Bà Visākhā đi thăm viếng Tỳ khưu bệnh, Tỳ khưu trẻ, Sa di.... Bà bảo đứa tớ gái mang tấm choàng trở về. Cô tớ gái đã để quên tấm choàng lại trong giảng đường nên thưa:
– Thưa bà chủ, con đã để quên tấm choàng.
Bà Visākhā dạy rằng:
– Này con, con đi đến chùa lấy tấm choàng đem về, nhưng nếu Ngài Đại Đức Ānanda đã đem tấm choàng cất, thì con không nên lấy lại, ta xin dâng Ngài Ānanda tấm choàng ấy, nghe con!
Ngài Đại Đức Ānanda nhìn thấy cô tớ gái liền hỏi rằng:
– Này con, con đến đây để làm gì?
– Bạch Ngài Đại Đức, con để quên tấm choàng của bà chủ, nên trở lại đây để lấy. – Cô tớ gái thưa.
– Này con, bần tăng đã đem treo ở chỗ kia, con hãy đến lấy đem về.
– Kính bạch Ngài Đại Đức, bà chủ con dặn rằng: nếu Ngài Đại Đức đã đụng chạm vào tấm choàng ấy rồi, thì bà xin dâng Ngài tấm choàng ấy.
Cô tớ gái trở về, không mang theo tấm choàng, thưa lại với bà chủ sự việc trên.
Bà Visākhā dạy cô tớ gái rằng:
– Này con, tấm choàng ấy Ngài Đại Đức đã đụng chạm, ta đã dâng đến Ngài rồi, như vậy, Ngài phải giữ gìn nó là một điều vất vả. Vì vậy, con hãy đến đem tấm choàng ấy về đây bán nó, để sắm những vật dụng cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Nghe theo lời dạy của bà Visākhā, cô tớ gái đến chùa đem tấm choàng ấy về trao lại cho bà.
Bà Visākhā đem bán tấm choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng. Với giá ấy, không có một nhà phú hộ nào có khả năng mua nổi tấm choàng ấy. Cuối cùng, chính bà Visākhā mua lại nó với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng, bà đến bạch Đức Thế Tôn rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài Đại Đức Ānanda dùng tay đụng tấm choàng của con, để cất giữ, nên con không dám lấy lại; con xin xả tấm choàng ấy bằng cách bán nó, để sắm những vật dụng hợp pháp cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Kính bạch Đức Thế Tôn, ngoài con ra, không có một ai mua nổi với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng. Vậy chính con mua lại tấm choàng ấy với giá đó. Bạch Ngài.
Kính bạch Đức Thế Tôn, trong bốn thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bệnh, thứ nào cần thiết nhất? Bạch Ngài.
Đức Thế Tôn dạy:
– Này Visākhā con! Vậy con nên xây cất một ngôi chùa gần phía Đông cửa thành Sāvatthī, để dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.
Vô cùng hoan hỉ, vâng theo lời dạy của Đức Thế Tôn, bà mua đất giá 90 triệu đồng vàng, cho xây cất ngôi chùa "Pubbārāma". Dưới sự chỉ dẫn của Ngài Đại Đức Mahāmogallāna, công trình xây dựng suốt 9 tháng mới hoàn thành chi phí thêm 90 triệu đồng vàng; và tổ chức lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng tứ phướng có Đức Phật chủ trì, rồi làm phước bố thí kéo dài suốt 4 tháng, chi phí thêm 90 triệu nữa.
Như vậy, bà đại thí chủ Visākhā Migāramātā đã hiến dâng tổng số tiền 270 triệu làm phước bố thí: mua đất, xây cất ngôi chùa Pubbārāma và làm lễ khánh thành.
Tại tư thất của bà Visākhā Migāramātā cũng như tư thất của phú hộ Anāthapiṇṇika, hằng ngày buổi sáng dâng cúng cháo đến chư Tỳ khưu, buổi trưa dâng vật thực đến chư Tỳ khưu, buổi chiều bà đem nước trái cây, thuốc trị bệnh đến dâng cúng đến chư Tỳ khưu bị bệnh v.v....
Đức Phật tán dương bà là người cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh bố thí trong hàng cận sự nữ đệ tử của Ngài như sau:
Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ dāyikānaṃ yadidaṃ Visākhā Migāramātā.
Này chư Tỳ khưu, trong hàng nữ Thanh Văn cận sự nữ của Như Lai, Visākhā Migāramātā là cận sự nữ thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí.
Bà Visākhā có tuổi thọ sống lâu 120 tuổi, cuộc đời của bà từ thuở ấu niên, trung niên cho đến lão niên đều hưởng sự an lạc, sống trong cảnh giàu sang phú quý; đó là quả của mọi phước thiện, nhất là phước thiện bố thí. Cho nên, trong suốt cuộc đời của bà không phải gặp cảnh khổ cực thiếu thốn về vật chất. Bà có nhiều tài sản của cải, lại càng hoan hỉ tạo nhiều phước thiện bố thí cho đến ngày cuối cùng cuộc đời của bà. Sau khi bà từ giã cõi người, do năng lực thiện nghiệp cho quả tái sanh làm thiên nữ trong cõi Hoá lạc thiên, cõi trời dục giới thứ 5, trở thành chánh cung hoàng hậu của đức vua trời Sunimmita, hưởng sự an lạc trong cõi trời này cho đến hết tuổi thọ 80.000 năm (so với cõi người 2.304 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm nơi cõi trời này bằng 800 năm cõi người).
Bà là 1 trong 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát nguyện xin thọ hưởng sự an lạc tuần tầng trời dục giới cho đến các tầng trời sắc giới tột cùng, cõi Sắc cứu cánh thiên, sẽ tịch diệt Niết Bàn trong cõi này. Do đó, khi tái sanh làm thiên nữ cõi Tha hoá tự tại thiên, tầng trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục giới, thiên nữ Visākhā tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, cho quả tái sanh làm phạm thiên (không còn nữ tính) cõi trời sắc giới Phạm chúng thiên; tiếp tục tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ nhị thiền; chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ tam thiền; và tiếp tục chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới đồng thời chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo – Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo – Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai được tái sanh lên tầng trời sắc giới Tinh cư thiên có 5 tầng theo tuần tự cho đến tầng Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭhā) tột cùng cõi trời sắc giới, sẽ chứng đắc A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hưởng hết tuổi thọ 16.000 đại kiếp rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.
Tích đức vua Asoka
Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, Phật lịch 218, đức vua Asoka là một đấng minh quân trị vì cõi Nam thiện bộ châu, có nhiều oai lực đặc biệt như thần thông, Đức Vua có đức tin trong sạch nơi Tam bảo.
Một hôm, đức vua Asoka nhìn thấy Đại Đức Sa di Nirodha mới lên bảy tuổi, là bậc Thánh A-ra-hán đang đi khất thực, Đức Vua phát sanh đức tin đặc biệt nơi vị Đại Đức Sa di Nirodha (Đại Đức Nirodha kiếp trước đã từng là anh của Đức Vua). Đức Vua truyền lệnh các quan thỉnh mời Đại Đức Sa di Nirodha vào cung điện, thỉnh ngoài trên ngai vàng cao quý, tự tay Đức Vua để bát bằng những món vật thực của Đức Vua dùng hằng ngày. Khi vị Đại Đức Sa di thọ thực xong, Đức Vua bèn thỉnh Ngài thuyết pháp.
Vị Đại Đức Sa di Nirodha thuyết dạy bài kệ trong Pháp cú:
"Appamādo amatapadaṃ,
Pamādo maccuno padaṃ..."."Không dể duôi, có chánh niệm,
là đường bất tử Niết Bàn,
Dể duôi là con đường tử...".
Đức vua Asoka nghe pháp xong, càng tăng thêm đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng gấp bội.
Hằng ngày Đức Vua cúng dường vật thực đến chư Tỳ khưu Tăng gồm có 600.000 vị tại cung điện của Đức Vua, bởi do đức tin trong sạch nơi vị Đại Đức Sa di Nirodha.
Một hôm Đức Vua dự lễ bố thí tứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng 600.000 vị, Đức Vua bèn bạch chư Tỳ khưu Tăng rằng:
- Kính bạch chư Đại Đức Tăng, chánh pháp mà Đức Phật thuyết giảng có bao nhiêu pháp môn? Bạch quý Ngài.
Chư Đại Đức thưa:
- Thưa Đại Vương! Chánh pháp mà Đức Phật thuyết giảng có 84.000 pháp môn.
Đức Vua phát sanh đức tin trong sạch nơi 84.000 pháp môn, nên Đức Vua truyền lệnh cho các quan ở khắp mọi nơi trong nước rằng:
- Trẫm muốn cúng dường mỗi pháp môn bằng một ngôi chùa và một bảo tháp, vậy Trẫm muốn xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp trên toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, các khanh hãy đến mỗi tỉnh xây cất một ngôi chùa để cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và ngôi bảo tháp để tôn thờ Xá Lợi của Đức Phật.
Đức vua Asoka xuất ra số tiền gồm có 960 triệu kahāpana để lo xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp. Ngôi chùa trung tâm tại thủ đô đặt tên Asokārāma.
Việc xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp suốt 3 năm mới hoàn thành.
Các quan ở mỗi tỉnh đến chầu Đức Vua cùng một ngày, tâu lên Đức Vua rõ, những ngôi chùa và những ngôi bảo tháp đã hoàn thành rồi.
Đức Vua truyền chiếu chỉ trong toàn cõi Nam thiện bộ châu biết rằng: "còn 7 ngày nữa sẽ làm đại lễ khánh thành những ngôi chùa và những ngôi bảo tháp ở từng nơi, tất cả mọi thần dân trong nước đều thọ trì bát giới, sửa soạn làm đại lễ khánh thành tất cả các ngôi chùa và ngôi bảo tháp, để cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng từ kinh thành đến các tỉnh thành".
Ngày đại lễ khánh thành chùa và bảo tháp, trong kinh thành cũng như các tỉnh thành trang hoàng đẹp đẽ như cõi trời, Đức Vua cùng các quan cũng như dân chúng trang điểm đẹp đẽ trang nghiêm, đi dự đại lễ khánh thành chùa và tháp bảo.
Đức Vua ngự đến ngôi chùa Asokārāma ở trung tâm chính tại kinh đô, kính thỉnh chư Tỳ khưu Tăng toàn cõi Nam thiện bộ châu đến dự đại lễ khánh thành và thọ nhận 84.000 ngôi chùa cùng bảo tháp ở mỗi nơi, có khoảng 800 triệu vị Tỳ khưu Tăng và 9.600.000 vị Tỳ khưu ni Tăng. Trong số đó có 100.000 bậc Thánh A-ra-hán.
Chư bậc Thánh A-ra-hán suy tư rằng: "Nếu đức vua Asoka được nhìn thấy rõ việc đại bố thí 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp, mà Đức Vua đã truyền lệnh xây cất, nay làm lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng, sẽ làm cho Đức Vua vô cùng hoan hỉ, càng tăng thêm đức tin trong sạch nơi Tam bảo".
Khi ấy, một vị Thánh A-ra-hán liền hóa phép thần thông "Mở thế gian" (Lokavivaraṇa),Đức Vua nhìn thấy mọi nơi không có gì che khuất cả. Dầu Đức Vua đang đứng tại ngôi chùa Asokārāma trung tâm, mà có thể nhìn thấy rõ bốn hướng toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, thấy rõ 84.000 ngôi chùa và 84.000 ngôi bảo tháp tôn thờ Xá Lợi Đức Phật.
Thật vậy, đức vua Asoka vô cùng hoan hỉ hơn bao giờ hết, Đức Vua suy tư rằng: sự việc đại bố thí như thế này, không biết đã có ai từng làm chưa?
Vì vậy Đức Vua bèn bạch hỏi chư Đại Đức Tăng:
- Kính bạch chư Đại Đức Tăng, trong giáo pháp Đức Thế Tôn của chúng ta, có thí chủ nào làm phước đại bố thí như thế này không?
Chư Đại Đức Tăng kính thỉnh Đại Đức Moggali-puttatissatthera trả lời câu hỏi của Đức Vua.
Đại Đức Moggaliputtatissatthera trả lời rằng:
- Thưa Đại Vương, trong Phật giáo, việc đại bố thí của Đại Vương như thế này, dầu khi Đức Thế Tôn còn hiện tiền cho đến nay, chưa có một ai làm được như vậy. Chỉ có Đại Vương là đại thí chủ làm lễ đại bố thí lớn lao nhất từ trước cho đến nay mà thôi.
Đức Vua lắng nghe câu trả lời của Ngài Đại Đức Moggaliputtatissatthera rồi phát sanh hỉ lạc chưa từng có, rồi suy tư rằng: "Từ trước cho đến nay, chưa có thí chủ nào làm phước đại bố thí như ta, ta là một đại thí chủ bố thí 4 thứ vật dụng lớn lao như thế này, chắc có lẽ ta là thân quyến kế thừa Phật giáo(Dāyādo sāsanassa) có phải không?".
Do đó, Đức Vua bèn bạch hỏi Đại Đức Moggali-puttatissatthera rằng:
– Kính bạch Ngài Đại Đức, con đã làm đại bố thí bốn thứ vật dụng lớn lao như thế này, vậy, con có phải là "Thân quyến kế thừa của Phật giáo"hay không?
Ngài Đại Đức Moggaliputtatissatthera quán xét về ba la mật của thái tử Mahinda và Công chúa Saṃghamittā con của Đức Vua như thế nào. Ngài biết rõ Thái tử và Công chúa xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giúp cho Phật giáo phát triển tốt đẹp sau này. Cho nên Ngài đáp rằng:
– Thưa Đại vương, người trở thành thân quyến kế thừa Phật giáokhông phải do nhân đại bố thí. Dầu người đại thí chủ bố thí bốn thứ vật dụng nhiều đến bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ gọi là: paccayadāyaka:đại thí chủ bố thí 4 thứ vật dụng,hoặc gọi là: upaṭṭhāka:người hộ độ mà thôi....
Thưa Đại vương, sự thật, người nào dầu bố thí bốn thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng chất chồng từ mặt đất cao đến cõi trời, người ấy không thể gọi là thân quyến kế thừacủa Phật giáo.
Lắng nghe lời dạy của Ngài Đại Đức Moggali-puttatissatthera như vậy, nên đức vua Asoka cống hiến vị hoàng thái tử Mahinda yêu quý nhất, cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, thay vì truyền ngôi báu, và công chúa Sanghamitta xuất gia trở thành Tỳ khưu ni trong Phật giáo.
Đức vua Asoka không chỉ là một đại thí chủchưa từng có từ trước cho đến nay, mà còn là một thân quyến kế thừacủa Phật giáo, bởi vì Đức vua đã cống hiến, cho phép 2 người con xuất gia trong Phật giáo, Người có công đức lớn gởi các phái đoàn Đại Đức Tăng sang truyền bá Phật giáo ở đảo quốc Srilankā và vùng Suvaṇṇabhūmi gồm các nước Indonesia, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Trên đây là những nhân vật đại thí chủ xuất sắc nhất về phước hạnh bố thí trong thời kỳ Đức Phật còn hiện tiền, và sau thời kỳ Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn.