- Chương 01: Nguồn gốc
- Chương 02: Thích Ca Thế Tôn
- Chương 03: Nguyên thỉ Phật giáo và Tam tạng kinh điển
- Chương 04: Vua A Dục và Đại Thiên
- Chương 05: Sự phân chia bộ phái Phật giáo
- Chương 06: Giáo nghĩa của Đại Chúng Bộ và Hữu bộ
- Chương 07: Nghệ thuật Phật giáo - Vương triều vua A Dục và sau đó
- Chương 08: Thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa
- Chương 09: Phật giáo Đại thừa hệ Long thọ và kinh điển của hệ này về sau
- Chương 10: Phật giáo Đại thừa hệ Vô Trước
- Chương 11: Vương triều Cấp Đa và Phật giáo sau vương triều này
- Chương 12: Từ thời Mật giáo thịnh hành đến Phật giáo cận đại
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
Pháp sư Thánh Nghiêm- Thích Tâm Trídịch
---o0o---
TỪ MẬT GIÁO THỊNH HÀNH ĐẾN PHẬT GIÁO CẬN ĐẠI
TIẾT III. PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ THỜI CẬN ĐẠI
- Buổi bình minh của sự phục hưng.
Phật giáo Ấn Độ sau khi bị Hồi giáo tiêu diệt thì liền “tiêu thanh nặc tích” (không còn lộ diện công khai), thời gian này nhằm vào đời vua Ninh Tông nhà nam Tống (1195-1224).
Về chính trị, sau khi Hồi giáo chiếm cứ Ấn Độ và thiết lập đế quốc Mạc Ngột Nhi, tiếp theo người châu Âu da trắng cũng đánh chiếm và thuộc địa háo Ấn Độ, như người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, người Pháp và người Anh. Sau cùng toàn cõi Ấn Độ đặt dưới thống trị của người Anh. Năm 1877, họ thành lập đế quốc Anh - Ấn, và lấy nữ vương của Anh quốc là Duy Đa Lợi Á (Victoria) làm vị hoàng đế cho Ấn Độ. Đến năm 1948, Ấn Độ mới dành được độc lập từ tay người Anh. Nhưng một năm trước khi trả độc lập cho Ấn Độ, chính phủ Anh quốc phải đứng ra làm giám đốc, bằng cách chia bản đồ Ấn Độ thành hai nước là Ấn Độ và Pakistan; nguyên do là vì tín đồ Hồi giáo và Ấn Độ giáo luôn coi nhau như cừu địch.
Sở dĩ xảy ra tình trạng này là do đất nước Ấn Độ trong một thời gian dài bị nhiều dị tộc xâm nhập và thống trị, đồng thời có rất nhiều thành phần trí thức không chịu kích động bởi các tư trào tự do dân chủ của thời đại. Do đó, yêu cầu dành độc lập dân tộc là yêu cầu bức thiết đối với họ.
Khởi đi từ chủ trương dân quyền bình đẳng, muốn vậy thì Ấn Độ phải độc lập. Để làm được điều này, bấy giờ giới trí thức Ấn Độ hô hào đoàn kết toàn dân để chông slại thế lực ngoại xâm. Mọi người dân Ấn đã đồng tình với sinh hoạt bi khổ của giai cấp tiện dân. Nhân đó, thành Cam Địa (Gandhi) ứng vận mở cuộc vận động đấu tranh dành độc lập. Thánh Gandhi kiên trì bất hợp tác với người Anh. Và đề ra chủ trương đấu tranh bất bạo động để phản kháng chính phủ Anh Cát Lợi. Ông phục trang theo tầng lớp tiện dân, đồng thời đề cao lòng tự tôn của giai cấp này.
Như mọi người đều biết, Ấn Độ giáo là tôn giáo của chủ nghĩa giai cấp. Ấn Độ giáo có khả năng chịu đựng sau mấy trăm năm bị Hồi giáo xâm nhập và thống trị mà không bị diệt vong, đó là nhờ tinh thần chiến đấu ngoan cường của họ. Vì vậy, chủ trương bất bạo động, và tư tưởng bình đẳng đối với giai cấp tiện dân của thánh Gandhi hoàn toàn không phải là sản vật của Ấn Độ giáo. Mặt khác, tư tưởng này của Gandhi rất ăn khớp với giáo lý nhà Phật. Chính thánh Gandhi cũng đã từ phát biểu: “Trong Ấn Độ giáo có những cách tiếp xúc không thể coi đó là giáo qui, mà đó là một bộ phận của sự hủ hóa, hoặc đó chỉ là ung nhọt mà thôi”. Ông lại nói: “xin hãy nhìn vào lòng từ bi của các vị Bồ tát (liên hệ đến đức Thích Tôn), họ không những chỉ thể hiện lòng từ bi đối với nhân loại, mà họ còn rộng thể hiện lòng từ bi đối với tất cả mọi sinh vật”. (Cam Địa Tự Thuật Truyện - chương bảy).
Trên thực tế, ngày nay nhân dân Ấn Độ không còn nhìn Phật giáo bằng ánh mắt ghét bỏ; đàng khác, họ lại coi Phật giáo là tôn giáo mang lại vinh quang cho tổ quốc họ. Thậm chí vị Tổng lý của Ấn Độ là Ni Xích Lỗ (Neru) còn nói: “Ấn Độ là tổ quốc của đức Phật, giáo nghĩa của Ngài luôn luôn sùng thượng (yêu chuộng) hòa bình, thế giới này nên tuyên dương chủ nghĩa hòa bình của Phật giáo, riêng Phật tử chúng ta, mỗi người nên gánh lấy trách nhiệm này”(18)
Hiện nay Phật giáo tại Ấn Độ tuy mới phục hưng chẳng khác như ngày mới rạng đông. Nhưng so về dân số (tín đồ) với các tôn giáo lớn tại Ấn Độ, thì Phật giáo đứng vào hàng thứ sáu, xin liệt qua biểu đồ dưới đây:
1. Ấn Độ giáo có: 303.186.986 tín đồ.
2. Hồi giáo có: 35.150.117 tín đồ.
3. Cơ đốc giáo có: 8.157.765 tín đồ.
4. Tích Khắc giáo có: 6.129.134 tín đồ.
5. Kỳ na giáo có: 1.618.406 tín đồ.
6. Phật giáo có: 180.769 tín đồ.
7. Bái Hỏa giáo (Thỉ giáo) có: 111.791 tín đồ.
8. Do Thái giáo có: 26.781 tín đồ.
9. Tôn giáo các bộ lạc nguyên thỉ có: 16.189 tín đồ.
Số thống kê trên được thực hiện vào năm 1960, trích trong “Phật giáo Đại Niên Giám”, xuất bản tại Nhật Bản năm 1960, trang 176.
Trong số các tôn giáo nêu trên, thì Tích Khắc (Sikhism) giáo ra đời vào năm 1469 tây lịch. Người sáng lập là Giáo chủ Guru Nanak. Ông là người ở Bàng Giá Phổ, xuất thân từ giai cấp võ sĩ, ông nhận thấy hai tôn giáo lớn là Ấn Độ và Hồi giáo cứ luôn xung đột nhau. Nhân đó ông nghiên cứu giáo lý của hai tôn giáo này, và phát hiện thấy Ấn Độ và Hồi giáo cả hai cùng tôn thờ một Thượng đế, và vị Thượng đế này vượt qua sức suy tưởng của nhân gian, và tồn tại vĩnh hằng. Do đó, ông chủ trương tín ngưỡng chân thuần về nội tâm, và không đồng ý việc sùng bái ngẫu tượng.
- Phật Giáo được trọng thị.
Thời gian gần đay, tư tưởng Phật giáo trở thành nhu yếu cho công cuộc vạn động dành độc lập của dân tộc Ấn Độ. Về hình diện quốc tế, có rất nhiều học giả Phật giáo, và những học giả này đem lại nhiều hy vọng mới mẻ cho Phật giáo thế giới nói chung và Phật giáo Ấn Độ nói riêng. Nhờ sự liên tục phát hiện và khai quật những di tích cổ của Phật giáo Ấn Độ. Thông qua việc nghiên cứu và khảo sát Phật điển bằng Phạn văn và Ba Lị văn được công bố rộng ra thế giới. Phật giáo tuy là tôn giáo già lão, nhưng giáo nghĩa của đức Phật được phát hiện là rất tươi mát, mới lạ, và phù hợp với yêu cầu của tư trào thời đại ngày nay.
Phối hợp với tình thế hiện đang của Phật giáo, chính phủ Ấn Độ đặc biệt thiết lập ra một bộ phận chuyên nghiên cứu các cổ vật Phật giáo. Phái viên khắp bốn phương cùng đến Ấn Độ truy tầm di tích Phật giáo. Hiện nay vùng đất nào phát hiện và khai quật được di tích Phật giáo thì liền được nhà nước Ấn Độ đứng ra bảo hộ; đồng thời chính phủ cũng cho sửa sang lại cảnh trí di tích, như tại Gia Nhĩ Cát Đáp và vườn Lộc Uyển (Sarnath) v.v... Chính phủ Ấn Độ cho thành lập Bác vật quán để trưng bày, và bảo quản các cổ vật của Phật giáo nhằm cung cấp cho các học giả từ nhiều nước đến chiêm bái, và ngắm nhìn thánh tích.
Theo cư sĩ Châu Phi, thì: ”Trong vòng mười năm trở lại đây, chính phủ Ấn Độ đã cho rải nhựa các công lộ dẫn đến các Thánh địa Phật giáo một cách thoáng rộng, và cho bắt hệ thống chiếu sáng tại các Thánh địa này. cũng như tại mỗi Thánh địa Nhà nước Ấn Độ đều có thiết lập sở chiêu đãi để tiếp đón khách thập phương từ các nơi trên thế giới về chiêm bái Phật tích. Đồng thời, bên trong phòng thủ trưởng của các cơ quan công quyền, ngoài việc treo di ảnh thánh Gandhi, đa số còn treo thêm một bức Phật Đà thánh tượng(19).
Để biểu hiện sự trọng thị Phật giáo, năm 1956 chính phủ Ấn Độ dứng ra tổ chức đại lễ kỷ niệm ngày đức Thích Tôn diệt độ lần thứ 2500. Năm 1960, nhà nước Ấn Độ cho kiến thiết một công viên để tưởng niệm đức Phật tại Đức Lý (Buddhajayanti Park). Năm 1964, được sự hiệp trợ của Nhà nước Ấn Độ, Phật giáo Ấn Độ đứng ra triệu tập Phật giáo đồ trên thế giới qui tụ về Lộc Dã Uyển để dự đại hội “Liên Nghị Hội Phật giáo Đồ”. Chính là do sự trọng thị Phật giáo của chính phủ Ấn Độ mà bất kỳ người nước ngoài nào đến Ấn Độ chiêm bái thánh tích Phật giáo đều nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của chính phủ và người dân Ấn Độ. Cụ thể như vào tháng giêng, năm 1940, đại sư Thái Hư đến thăm Ấn Độ, Phật giáo Ấn Độ đứng ra triệu tập Phật giáo đồ trên thế giới qui tụ về Lộc Dã Uyển để dự đại hội “Liên Nghị Hội Phật giáo Đồ”. Chính là do sự trọng thị Phật giáo của chính phủ Ấn Độ mà bất kỳ người nước ngoài nào đến Ấn Độ chiêm bái thánh tích Phật giáo đều nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của chính phủ và người dân Ấn Độ. Cụ thể như vào tháng giêng, năm 1940, đại sư Thái Hư đến thăm Ấn Độ, ông có cảm tác một bài thơ tứ tuyệt dưới dạng ký sự như vầy: “Gandhi - Neru và Thái Hư, được triệu triệu tiếng hoan hô từ người dân, từ Ba La Nại đến Câu Thi La, một con đường luôn vui không dứt”.
Lại nữa, năm 1963, pháp sư Bạch Thánh hướng dẫn phái đoàn người trí huệ đến Ấn Độ chiêm bái Thánh tích Phật giáo, phái đoàn cũng nhận được sự tiếp kiến thân thiết của ngài Tổng lý Ấn Độ - Ni Xích Lỗ.
Những điều này cần yếu để giới thiệu Phật giáo Ấn Độ thời cận đại, tất phải ghi nhận và tán dương công đức của hai vị cư sĩ vĩ đại. Đó là cư sĩ Đạt Ma Ba La và cư sĩ An Bồi Khắc.
Cư sĩ Đạt Ma ba La (Dgarnapàka - Anagarika 1864-1935). Ông sinh ra trong một gia đình chuyên tạo và buôn bán đồ gia dụng ở Tích Lan, cả gia đình ông đều là Phật tử , riêng ông được gia đình cho theo học tại một trường Cơ Đốc giáo, do vậy ông là người tiếp nhận giáo dục Cơ Đốc giáo. nhưng ông không tiếp thu tín ngưỡng Cơ Đốc. Về sau ông được một tín đồ Phật giáo có quốc tịch Hoa Kỳ cảm hóa, đó là ông Colonel Henry Stell Olcott (1832-1807). Nhờ đó đối với Phật giáo ông khởi tín niệm một cách kiên cố, và đi sâu vào nghiên cứu Phật học. Ông phát thệ nguyện đem thân mệnh này suốt đời để phục hưng Phật giáo, và coi đó là mục đích.
Vào năm 1891, đầu tiên ông đến Ấn Độ, và chiêm bái tại Lộc Dã Uyển, ông nhận thấy các Thánh địa cổ xưa nay đã thành cảnh tượng hiu quạnh, tiêu sơ, rồi ông lại đến Phật Đà Ca Da - nơi đức Phật thành đạo. Năm ấy ông được hai mươi chín tuổi, Đức Thích Tôn xuất gia cũng năm hai mươi chín tuổi. Cũng cùng năm này, lần thứ hai ông đến thăm các Thánh địa. Ông hạ quyết tâm nhất định triệu tập hội nghị Phật giáo đồ quốc tế vào hạ tuần tháng mười hai năm 1891, và khởi xướng công cuộc trùng hưng các Thánh địa Phật giáo.
Năm 1892, ông dùng “mối quan hệ giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo” làm chủ đề, và lần lượt truyền đạo đến Gia Nhĩ Cát Đáp; ông sáng lập sở Đại Bồ Đề Hội Sự Vụ, và cho ra đời tạp chí Ma Ha Hồ Đề, ông dùng tạp chí này làm mối liên lạc với các giáo hữu nhiều quốc gia trên thế giới. Tiếp đó, ông viếng thăm Hoa Kỳ, ông đến Hạ Uy Di, Âu châu, Nhật Bản v.v... tại các nơi đến thăm, ông đều nhận được sự viện trợ, nhờ đó mà đại Bồ Đề Hội (Mahabodhi Society) của ông cuối cùng được hình thành. Ông quan niệm, sau tám trăm năm Phật giáo Ấn Độ bị đọa đày, nay đã đến lúc Phật giáo về lại cố hương, vì đã là con người thì không ai tránh khỏi hưng suy. Theo ông, đức Phật là người vượt lên tất cả mọi tín điều và giai cấp. Ông coi việc phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ như là “món quà” tặng cho người dân Ấn.
Công tác phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ của cư sĩ Ma ha Ba la phải trải qua bốn mươi năm hơn, trong đó có những việc như: rộng truyền giáo lý của đức Phật, tài bồi nhân tài, thiết lập cơ cấu phân chi, tạo tiện lợi cho các giáo hữu từ nhiều quốc gia trên thế giới đến chiêm bái các thánh tích Phật giáo. chẳng hạn như Ma ha Bồ Đề Xã tại vườn Nai, tại đây những người đến chiêm bái Thánh tích đều có nơi nghỉ trọ miễn phí, nhưng về ẩm thực thì tự lo, hiện nay tại Gia Nhĩ Cát Đáp cũng chuyên cung cấp phòng xá lưu trú cho các giáo hữu đến triều bái Phật tích.
Ông ngã bệnh và từ trần vào ngày 28 tháng 4 năm 1933. Ông lưu lại cho Phật giáo Ấn Độ cơ hội tái hiện công đức Phật sự, khiến cho hậu thế luôn kính trọng và tán dương công đức của ông.
- Cư sĩ bác sĩ An Bồi Khắc (Dr Ambekar)
Bác sĩ An Bồi Khắc sinh ra trong một gia đình tiện dân, bị Ấn Độ giáo coi là “bất khả tiếp xúc” (caste). Do đó, thời niên thiếu ông luôn gặp phải sự kỳ thị và ngược đãi, cho nên đối với các chế độ Ấn giáo, ông khắc sâu sự bất mãn đến cùng cực. Sau này ông được một giáo sĩ Cơ Đốc giáo nhận giúp đỡ, vì nghĩ rằng ông sẽ trở thành tín đồ Cơ Đốc giáo, nên đã giúp đưa ông sang Anh quốc du học. Tại đây ông tốt nghiệp học vị bác sĩ. Sau thế chiến thứ hai, Ấn Độ dành được độc lập, ông được bổ nhiệm giữ chức đệ nhất Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đồng thời, ông cũng là một trong những người khởi thảo bản tân hiến pháp cho nhà nước Ấn Độ độc lập, và trở thành một trong số tân lãnh tụ của quốc gia Ấn Độ. Duy có điều ông luôn suy nghĩ, đó là làm sao cải cách cho được những tệ đoan của chế độ xã hội Ấn Độ. Theo ông, biện pháp triệt để nhất là thực hiện một xã hội “tứ tánh bình đẳng” của Phật giáo, có vậy mới giải cứu được những thống khổ nghìn đời của giai cấp tiện dân. Vì thế, ông tự tuyên bố cải đạo theo Phật giáo. Ông khuyến đạo quần chúng trong giai cấp tiện dân của ông tin theo Phật giáo. Do đó, vào năm 1955, ông phát khởi cuộc vận đội mọi người qui tín Phật giáo.
Kết quả, vào ngày 14 tháng 6 năm 1956, vợ chồng bác sĩ An Bồi Khắc hướng đạo hơn năm vạn người về tại quảng trường Nagpur rộng hơn bốn mươi mẫu Anh ở trung bộ Ấn Độ, tại đây được vị Pháp sư nổi tiếng nhất của Ấn Độ đương thời là ngài Ven U. Chandramani Mahàsthàvira đứng làm chủ trì, là dại diện Tăng đoàn cử hành đại lễ qui y cho tập thể quần chúng. Cùng dự lễ qui y, còn có sự hiện diện của ngài viện trưởng Cao Đẳng Pháp Viện là bác sĩ Ni Áo Cơ (Dr. M.B Nigogi) và ngài hiệu trưởng Việ Đại Học Mai Linh Đạt là ông Sri. M. B. Chitnavig, cũng như có nhiều vị hữu danh trong xã hội thời ấy.
Đáng tiếc là vị bác sĩ Tây học hết lòng tin Phật này, trong tháng 12 cùng năm, ông tuy bệnh nhưng vẫn đến Nepal để dự lễ khai mạc Hội Nghị Thế Giới Phật Giáo Đồ lần thứ tư. Sau bài diễn thuyết, ông từ biệt mọi người và ra đi vĩnh viễn!
Điều đáng trân trọng nhất là sau ba mươi năm nghiên cứu Phật học, ông đã hoàn thành bộ sách do ông viết với tựa đề “Đức Thích Ca và Tôn Giáo của Ngài”. Bộ sách này được thông qua tại Hội Nghị Phật Giáo Toàn Ấn, và ngày 24 tháng 11 năm 1968, sách được coi như tân thánh điển của Phật giáo đồ Ấn Độ. Điều này cho thấy công cuộc vận động phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ của ông đã gây được ảnh hưởng vừa to lớn vừa sâu rộng.
- Hoạt động của giới học giả Phật Giáo.
Từ lúc Ấn Độ giáo phục hưng, Phật giáo tại Ấn Độ bị hấp thu bởi Ấn Độ giáo. Thời ấy các học giả Phật giáo không nghĩ Phật giáo là tôn giáo độc lập mà coi Phật giáo cùng với việc sùng bái Thấp Bà và Tỳ Thấp Nô như một tín ngưỡng đồng nhất. Chỉ duy nhất tại Tích Lan và vẫn còn truyền bá và duy trì Thánh điển Ba Lị văn có tính thuần nhất của Thượng Tọa Bộ, và cũng rát thịnh hành tín ngưỡng Phật giáo tại đây. Trong những năm gần đây, hai nước Ấn Độ và Tích Lan, đối với Phật giáo tuy mỗi bên có thái độ bất đồng; nhưng về phưong diện nghiên cứu thì Ấn Độ và Tích Lan đều có nhiều nhân tài, và có nhiều cống hiến. Học giả Phật giáo tại Ấn Độ, do không thể đặt Phật giáo vào vị thế độc lập nên họ vẫn phải lấy Ấn Độ giáo làm tư tưởng chính thống, điều này không thể không có khuyết điểm. Tuy nhiên, ngày nay giới học giả Ấn Độ cũng tiếp thu được phương pháp nghiên cứu của người Tây phương, nên họ giữ thái độ phê phán một cách khách quan trong nghiên cứu Phật giáo. Đối tượng đầu tiên họ nhằm đến để nghiên cứu là thánh điển Ba Lị văn đến từ Tích Lan. Càng về sau phạm vi nghiên cứu của họ càng được nới rộng, chủ yếu là Thánh điển Phạn văn và Ba Lị văn. Họ thực hiện cuộc khảo sát về ngôn ngữ học và văn hiến học, cạnh đó là nghiên cứu về triết học, khảo cổ học, lịch sử và mỹ thuật học. Gần đây nhất, họ thiết lập sở nghiên cứu và trưòng đại học chuyên về Phật giáo học. Đồng thời, họ cũng đưa sinh viên đến các như Nhật Bản để nghiên cứu Phật giáo.
Đương nhiên sự phục hoạt của Phật giáo Ấn Độ phần lớn là nhờ sự trợ lực của cư sĩ Đạt ma Ba La, nhất là mở mang về lĩnh vực học thuật. Cũng không phải ngoại lệ, đó là sau khi sáng hội Hiệp Hội Ma Ha Bồ đề, Đạt Ma Ba La đã cử nhiều học giả Phật giáo Ấn Độ đến Tích Lan nghiên cứu Ba Lị ngữ, và lấy đó làm cơ sở nghiên cứu Phật giáo của Ấn Độ cận đại.
Năm 1892, người Ấn Độ sáng lập Hiệp Hội Phật giáo Thánh Điển (Buddhist Text Society) tại Gia Nhĩ Cát Đáp, trước đó nữa ngài Di Đa la (Ràjendra Làda Mitra, 1824-1892), ngài Tư Thoát Lợi (Hara prasàda sàstri 1853- 1931), và ngài Đạt Tư (Sarat Chandra Das, ?-1917), ba vị là người khai sáng, mở mang phong trào học Phật tại Ấn Độ trong thời cận đại, ngài Ràjendra Làla Mitra viết cuốn Ni Bạc Nhĩ Phật giáo Mục Lục (Sanskrit Buddist literature of Nepal, năm 1882), năm 1888, ông hiệu đính Bát Thiên Tụng Bát Nhã. Ông Hara Prasàda Sàstri từng góp sức với ông Ràjendra để chỉnh lý văn hiến Phật giáo của Nepal. Sau đó đích thân ông đến Nepal hai lần để tìm kiếm và viết lại các bản gốc kinh Phật. Và ông cũng hiệu đính bộ Bất Nhị Kim Cang Tập (Adva Yavajra - samgraha G.O.S, 1927), ông Sarat là người Ấn Độ đầu tiên nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng. Ông đến Tây Tạng để tìm hiểu kinh Phật bằng Tạng văn, kết quả ông tiến hành điều tra về Lạt Ma giáo. Ngoài ra, năm 1893 ông viết báo cáo Indian pandits in the land of Snow (các học giả Ấn Độ trên xứ tuyết). Lại nữa, năm 1908, ông hiệu đính bộ sử Phật giáo “Như Ý Pháp Thiện Thụ” do người Tây Tạng viết bằng Tạng văn, năm 1902, ông soạn xong bộ “Tạng - Anh Từ điển”.
Ba vị trên đây đáng được tôn vinh là tiền thân của “Phật giáo Thánh Điển Hiệp Hội”. Từ đó về sau, công tác của Hội là mỗi năm đều ấn hành tờ Niên Báo, hiệu đính các bản kinh gốc, phiên dịch và xuất bản, cùng hợp tác với Mãnh Gia Lạp Á Châu Hiệp Hội (Royal Asiatics Society of Bengal - 1784) để thành lập trung tâm dành cho các học giả Ấn Độ nghiên cứu Phật giáo.
Tiếp đến Hiệp hội suy cử người đệ tử của Đạt Tư là Vi Đè Da Bột Sa Na (Satis Chandra Vidyàbhùsanïa, ?-1920) giữ chức Vụ Trưởng Phật Giáo Thánh Điển Hiệp Hội, bởi ông đã từng trợ giúp ngài Đạt Tư trong việc sáng lập hội. Satis buổi đầu theo học tại đại học Gia Nhĩ Cáp Đát, sau đến Tích Lan nghiên cứu tiếng Ba Lị trong kinh Phật. Sau khi về nước, ông nhận làm hiệu trưởng trong đại học Gia Nhĩ Các Đáp. Ông chuyên về luận lý học Ấn Độ, và viết bộ “Ấn Độ Luận Lý Học Sử”(History of Indian Logie - 1922). Đây là bộ sách được dùng làm cơ sở để nghiên cứu Nhân Minh Học. Ông cũng kế tiếp đảm nhận chức Chủ nhiệm khoa tiếng Ba Lị tại đại học Gia Nhĩ Các Đáp thay ông Bạch La Á (Beni Madhab Barua ?-1948) - ông chủ trì và chỉ đạo công cuộc nghiên cứu bối cảnh lịch sử ra đời của Phật giáo. Do đó, ông có viết bộ Lịch Sử Triết học Ấn Độ Trước Phật Giáo (History of the pre - Busshist Indian Philosphy - 1921). Đồng thời, ông cũng nghiên cứu các luận thư của tà mệnh ngoại đạo. Cùng lúc tại đại học Gia Nhĩ Các Đáp, còn có hai vị giáo thọ học giả Phật giáo người Ấn là ông Ba Tha Trà Lợi Da (Vidhuskekara Bhattacharya) và ông Bimal Churn Law. Ông Bhattacharya, chuyên nghiên cứu Phục vụ và văn hiến Tây Tạng văn, và ông Churn Law là vị đại sư chuyên nghiên cứu văn hiến Ba Lị văn.
Năm 1931, ông Bhattacharya chuyển ngữ bộ Đại thừa Nhị Thập Luận của Long Thọ, và bộ Tứ Bách Luận của Long Thọ, và bộ Tứ Bách Luận của Đề Bà từ Tạng ngữ sang Phạn ngữ. Trước đó, năm 1927, ông dịch cuốn Nhân Minh Nhập Chánh lý Luận từ Hán văn ra Ấn Độ văn. Ngoài ra, ông còn viét cuốn “Khái niệm Cơ Bản Của Phật Giáo” (The Basie Conception ò buddhism - 1932). Đến nay, đã qua nhiều năm ông ra sức hiệu đính bản Phạn văn bộ Du Già Sư Địa Luận. Lĩnh vực học thuật của ông Bimal Churn Law rất rộng, ngoài việc nghiên cứu giáo lý Phật đà, ông còn am tường cả về sử học Phật giáo, xã hội học, đại lý học, dân tộc học và Kỳ Na giáo v.v... ông đều nghiên cứu rất sâu về các ngành này. Nhờ đó mà sự trước tác của ông rất phong phú, ông có đến năm mươi đầu sách. Trong số các học giả Phật giáo cận đại, ông là người sáng tác nhiều nhất. Về công tác nghiên cứu, ông kế thừa học giả Bạch La Á, chủ yếu là trước thuật và hiệu đính Thánh điển Phật giáo tiếng Ba Lị; đồng thời, ông cũng dịch các Thánh điển này ra Anh ngữ, và biên soạn nhiều truyện ký. Ông soạn bộ History ò Pali Litera ture - Ba Lị Văn Hiến Sử - 1933) và bộ Tribes In Ancient Indian (Chủng tộc cổ đại Ấn Độ - 1943). Đệ tử của Bạc La Á, còn có giáo thụ Đạt Thoát (Narinksha Dutt). Tác phẩm đầu tiên của ông này là cuốn Sự Quan Hệ Giữa Tướng Mạo Của Đại Thừa Phật Giáo Với Tiểu Thừa Phật Gáo (Aspects of Mahàyàna Buddhist and its Relation to Hinayàna - 1930), tiếp đó là cuốn Early Buddhist Monachism - 1941) - Tăng đoàn Phật giáo đầu tiên - nhưng sở trường của ông là Phật điển Phạn văn. Năm 1943, ông hiệu đính và xuất bản bộ Nhị Vạn Thiên Tụng Bát Nhã, năm 1952, ông lại hiệu đính và cho xuất bản bộ kinh Pháp Hoa; sau đó ông tiếp tục công tác hiệu đính các bộ như: Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Bộ Tỳ Nại Da và “Cát Nhĩ Cát Đặt Tả Bạn Tập” trong kinh Tam Muội Vương. Khi rời khỏi đại học Gia Nhĩ Các Đáp để hưu trí, nhưng ông vẫn được đề cử giữ chức vụ Hội Trưởng Hiệp Hội Á Châu Mãnh Gia Lạp.
Trên đây là các học giả Phật giáo được đào tạo tại đại học Gia Nhĩ Các Đáp. Và điều này nghiễm nhiên hình thành học phái Phật giáo Gia Nhĩ Các Đáp. Trong số những vị học giả này có cả ngài Sở trưởng là Ma Nhĩ Kiệt, người hiện đang đảm nhận Sở nghiên cứu Ba Lị văn của đại học Na Lan Đà (Satkari Mukherje, Buddhist philosophy of Universal Flux - 1936); năm 1956, ông Ba Khách Khước (P.C Bagchi) đã từ trần, ông là học giả nổi tiếng về khảo cổ học vùng trung ương thuộc khu vực Á Tế Á; trong khi đó, ông R.C. Majumdar là người chuyên nghiên cứu lịch sử Phật giáo khu vực Đông Nam Á.
Cùng với đại học Gia Nhĩ Các Đáp là trung tâm nghiên cứu Phật giáo học, còn có đại học Duy Thấp Ngõa Ba Lạp Địch (Vis’va Bharati). Đây là một đại học hết sức đặc biệt, bởi tại đại học này lấy việc nghiên cứu kinh Phật bằng Phạn văn và Hán văn làm chủ yếu. Thời kỳ ông P. C. Bagechi còn làm Phó hiệu trưởng, nhà trường có xuất bản cuốn Nhị Chủng Phạn - Hán ngữ vựng (Deux lexiques Samsskrit - Chinois, 1927-1938), và bộ thánh điển Phật giáo Trung Quốc (Le Canon Bouhique en Chine - 1927-1938). Ngoài ra, có ngài giáo thọ Tát Tư Đạt Lợi (N. Aiyaswami sastri) dịch những bộ như: Quán Sở Duyên Luận, Đạo Thiên Kinh, Đại Thừa Chưởng Trân Luận, thập Nhị Môn Luận v.v... từ Hán văn về lại Phạn văn. Ngài giáo thọ Ma Khắc Ba Đề Da (S.K. Mukhopadhyaya) thì hiệu đính các luận thư: Tam Vô Tánh Luận, Kim Cang Chân luận v.v... và ngài giáo thọ Pralhad pradhan hiệu đính bộ A Tỳ Đạt Ma Tập Luận, và cho xuất bản năm 1950.
Cạnh đó, Hiệp họi Ma Ha Bồ Đề tại Lộc Dã Uyển còn thiết lập nhà xuất bản. Đối tượng của Hiệp hội gồm có tăng lữ và hội viên cư sĩ đã được nhiếp hóa. Đa số họ là người Ấn Độ và người châu Âu, trong đó có không ít những vị Tỳ kheo uyên bác.
Hiện nay tại quê hương đức Phật đã có cơ sở trung tâm nghiên cứu Phật học. Như sở nghiên cứu Phổ Đà Na ở Già Da Tư Ngõa (Kashi Prasad Jayawal Rereareh Institude), sở nghiên cứu văn Pali ở Na Lan Đà (Nàlanda Pàli Institute), và viện đại học Ba Nại Lặc Tư của Ấn Độ.
Tóm lại, ngày nay tại Ấn Độ, phong khí nghiên cứu Phật học chẳng những không chút vắng vẻ, mà còn có rất nhiều sự thành tựu với qui mô to lớn. (Trên đây là lấy từ tài liệu Nhật Văn, qua cuốn Cận Đại Phật Giáo Giảng Tòa, quyển một từ trang 269 đến trang 276).
- Tình hình chung của Giáo đoàn.
Hiện nay, Phật giáo tại Ấn Độ, về phương diện nghiên cứu và chỉnh lý có tính văn hiến mà nói, thì không thiếu các bậc cao nhân tài đức; nhưng về phương diện nhiếp hóa tín đồ, thì chưa có già là lý tưởng. Nói vậy để thấy rằng, trong trí thức Phật giáo hoặc học vấn bên trong đã bén rễ nảy sinh ở thượng tầng kết cấu thuộc các bậc đại học. Nhưng về tín ngưỡng hoặc sinh hoạt Phật giáo, thì Phật giáo vẫn chưa tiến sâu vào xã hội Ấn Độ, vì chưa đủ sức phổ cập vào đời sống dân gian, tuy dù các tín đồ Ấn Độ giáo cũng sùng bái đức Phật.
Theo “Không Trung Hành Cước” của Châu Phỉ ở trang 37, thì ngoài Tăng lữ và người Ấn Độ, còn có mười lăm vị Tăng người Tích Lan, mười hai vị là người Miến Điện, Nhật Bản có sáu mươi vị, Tăng lữ người Thái Lan và người Tung Quốc, mỗi nước có mười vị, và với bốn triệu tín đồ Phật tử người Ấn Độ.
Lại nữa, theo tìm hiểu, thì ở Ấn Độ ước có chừng hai mươi vị Tỳ kheo và Sa di. Những vị Tỳ kheo có khả năng hoằng pháp chỉ ba, bốn vị. Điều này nếu lấy nhân khẩu dân Ấn Độ mà sánh, thì cực kỳ ít, quá ít.
Những kiến trúc chùa Phật hiện nay tại đất Ấn, có chùa của người Tích Lan, người Miến Điện, người Nhật Bản, người Thái Lan, người Tây Tạng. Trung Quốc thì có cư sĩ Lý Tuấn Thừa quyên góp, và pháp sư Đức Ngọc đứng ra đôn đốc việc xây dựng Trung Hoa Phật tự tại Lộc Dã Uyển, Tỳ kheo ni Quả Liên, người Trung Quốc đứng ra kiến tạo chùa Cực Lạc tại Câu Thi Na La - nơi đức Thích Tôn nhập Niết bàn. Pháp sư Vĩnh Thừa thì xây chùa Đại Giác tại Phật Đà Già Da, pháp sư Nhân Chứng thì xây chùa Hoa Quang tại Xá Vệ quốc, và Lạt Ma Phúc Chỉ thì lập chùa Trung Hoa Phật Tự tại Na Lan Đà.
Chính là vì Tăng đoàn Phật giáo Ấn Độ hãy còn yếu kém. Do đó, nhu cầu cấp thiết trước mắt là triển khai cuộc vận động phục hưng tín ngưỡng Phật giáo, và cuộc vận động này cũng nhận được sự trợ giúp của chính phủ Ấn Độ. Vì vậy, người Phật tử Ấn Độ, cũng như người Phật tử Trung Hoa hiện đang định cư tại Ấn Độ rất mong những Tăng, Ni trước đây có đến Ấn Độ, hãy hiến thân để phục hưng Phật giáo Ấn Độ.
(1)Đại Chánh Tạng-1, từ giữa trang 89 trở lui.
(2)Đại Chánh Tạng-1, đầu trang 724.
(3)Đại Chánh Tạng-22, giữa trang 754.
(4)Đại Chánh Tạng-23, giữa trang 337.
(5)Đại Chánh Tạng-1, đầu trang 80 đến giữa trang 81.
(6)Đại Chánh Tạng-39, giữa trang 650.
(7)Đại Chánh Tạng-39, cuối trang 657.
(8)Đại Chánh Tạng-39, cuối trang 613.
(9)Sáng hoằng: rộng truyền một cách sáng tạo.
(10)Tây Tạng Phật Giáo Nguyên Luận của Lữ Trừng.
(11)Đại Chánh Tạng-18, cuối trang 1.
(12)Tây Tạng Phật Học Nguyên Luận của Lữ Trừng, trang 11 - sách đã dẫn.
(13)Đại Nhật Kinh Sớ, quyển chín.
(14)Đại Chánh tạng-18, giữa trang 209.
(15)Ấn Độ Tôn Giáo Sử, từ trang 262-266.
(16)Ấn Độ Phật Giáo Sử , trang 243-244, của Long Sơn Chương Chân.
(17)Ấn Độ Tôn Giáo Sử - trang 216-217.
(18)Hải Thiền Du tụng của pháp sư Tịnh Vân, trang 166. Giác Thế, tuần san xã, xuất bản làn đầu, năm 1964.
(19)Châu Phỉ, Không Trung Hành Cước, trang 36.