Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 3: Sự giao thiệp giữa Phật giáo với ngoại đạo

05/01/201202:25(Xem: 5901)
Tiết 3: Sự giao thiệp giữa Phật giáo với ngoại đạo

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm- Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG XI
VƯƠNG TRIỀU CẤP ĐA
VÀ PHẬT GIÁO SAU VƯƠNG TRIỀU NÀY

TIẾT III. SỰ GIAO THIỆP GIỮA PHẬT GIÁO VỚI NGOẠIĐẠO

- Sao gọi là ngoại đạo?

Ngoại đạo chẳng qua chỉ là một thuật ngữ trong kinh điển Phật giáo, mà Phạn ngữ gọi là Đê Tha Ca (Tirthaka) để chỉ các đạo giáo khác đạo Phật, hoặc có nơi, có lúc gọi là ngoại đạo, ngoại học, ngoại pháp.

Duy Ma Nghĩa Ký quyển một(7)nói: “pháp ngoại vọng kế, tự xưng ngoại đạo” (vọng chấp các pháp bên ngoài, thì gọi đó là ngoại đạo).

Trong “Tam Luận Huyền Nghĩa”(8)thì nói: “chí diệu hư thông, mục chi vi đạo, tâm Tu đạo ngoại, cố danh ngoại đạo (hiểu sai chân lý vi diệu, mà cho đó là đạo, vậy là tâm đạo chơi bên ngoài đạo, nên gọi là ngoại đạo). Còn Thủ Lăng Nghiêm Kinh Nghĩa Sớ, quyển hai thì nói “bất nhập chánh lý, đản tu tà nhân, danh vi ngoại đạo” (không hiểu chánh lý, tu theo tà nhân, thì gọi đó là ngoại đạo).

Phàm các đạo giáo bên ngoài Phật giáo được giới Phật tử gọi là ngoại đạo. Tiếng “ngoại đạo” ở đây không có hàm ý khinh mạn. Đối với các học giả ngoài Phật giáo, không ai từ bỏ chính thân mình để cầu an ổn nơi đạo giáo khác. Vì vậy, ở đây hàm ý có ai đó hướng đến đạo giáo khác với Phật giáo để cầu đạo, tức người đó là ngoại đạo.

Hai chữ “ngoại đạo” được dùng trong Thánh điển Phật giáo phạm vi của nó rất rộng. Ở chương một, phần giới thiệu về Bà La Môn giáo, về sáu phái triết học, về lục sư ngoại đạo, và tổng quan về sau mươi hai kiến v.v... đều gọi là ngoại đạo. Tất cả họ ít nhiều cũng từng có giao thiệp với Phật giáo.

Phật giáo xuất hiện và trưởng thành trong hoàn cảnh được bao quanh bởi ngoại đạo. Sự diệt vong, sự biến chất của Phật giáo tại Ấn Độ cũng trong trạng huống bị bao phủ bởi ngoại đạo. Điều đó, Thánh điển A Hàm, A Tỳ Đạt Ma của Bộ phái, trong các luận thư của các nhà Đại thừa thấy được nên đã sử dụng luận biện một cách sắc bén đả phá ngoại đạo, như vậy cho thấy Phật giáo luôn không ngừng đấu tranh để phát triển. Sau cùng là Mật giáo, trên thực tế thì Phật giáo Mật giáo là đã bị ngoại đạo đồng hóa, về mặt tâm lý thì cho là Phật giáo Mật giáo để hàng phục ngoại đạo, nhưng đó chỉ là cách nói cường điệu. Chung cuộc, vận mệnh Phật giáo Mật thừa bị ngoại đạo tiêu diệt bởi sự tiếp thụ này.

Xin lược thuật những giao thiệp chính yếu giữa Phật giáo và ngoại đạo.

- Phật giáo với Kỳ Na Giáo.

Ni Kiền Tử Nhã Đề Tử (tức Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử) được nói đến trong kinh A Hàm, là để chỉ Ma Hay Tỳ Lư (Đại Hùng) Tên vị tổ khai sáng Kỳ Na giáo. Do đó, Phật giáo thường gọi đồ chúng Kỳ Na giáo là ngoại đạo Ni Kiền Tử. Ông ra đời sớm hơn đức Thích Tôn, khu vực giáo hóa của ông và đức Thích Tôn đại loại tương đồng. Do đó, sự giao thiệp giữa hai giáo đoàn đương nhiên là có diễn ra.

Ấn tượng bên ngoài, thì Phật giáo và Kỳ Na giáo có vẻ tương tự giống nhau. Nhưng về bản chất giáo lý thì không.

Trước hết là nói về điểm tương đồng; đólà cả hai đều phủ định địa vị thần thánh của kinh Vệ Đà. Cả hai đều không thừa nhận nhân cách ”Thần” của Bà La Môn giáo, và đề xướng vô thần luận. Hai vị giáo chủ đều xuất thân là vương tử thuộc tộc Sát Đế Lợi. Cả hai vị khai tổ này được tôn xưng là Đại Hùng, là Thế Tôn, là Mâu Ni, được người đời cường điệu xưng tụng theo tư tưởng Luận Vương và chủ nghĩa không sát sinh, lại giống nhau về việc tổ chức giáo đoàn Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.

Lại nói về những khác nhau giữa hai giáo chủ: vấn đề kết tập Thánh điển giữa hai tôn giáo không giống nhau; lịch sử truyền thừa của hai tôn giáo cũng khác nhau; Kỳ Na giáo chủ trương nhị nguyên luận, là mệnh (tinh thần) và phi mệnh (vật chất) và đứng trên lập trường “sinh khí luận” với chủ trương vô ngã, và phủ định linh hồn thường trụ, trong khi Phật giáo đứng trên lập trường “Duyên sinh luận” với chủ trương vô ngã và phủ định linh hồn thường trụ. Kỳ Na giáo lấy chủ nghĩa “sinh thiên” làm giải thoát, Phật giáo lấy chứng Niết bàn ngay trong hiện thực làm giải thoát; Kỳ Na giáo dùng chủ nghĩa khổ hạnh làm phương pháp tu đạo, trong khi Phật giáo thì lấy giới - định - huệ tam học làm nấc thang cho tiến trình tu đạo. Tuy vậy, nhưng Kỳ Na giáo và Phật giáo lại giống nhau trong việc dùng từ, như “nghiệp”, “lậu”, dù áo nghĩa của mỗi bên có khác biệt.

Trên bình diện thực tế, thì cả Kỳ Na giáo lẫn Phật giáo đều không được dung nạp vào truyền thống tôn giáo Ấn Độ. May là tuy Phật giáo bị diệt vong tại Ấn Độ, nhưng lại được rộng truyền ở các nước ngoài, còn Kỳ Na giáo tuy chưa được truyền ra nước ngoài như Phật giáo, nhưng nhờ vào giáo điều tu khổ hạnh rất khắt khe, nên đã không bị Ấn Độ giáo đồng hóa. Tu khổ hạnh cuối cùng vẫn cảm được lòng người, vì vậy mà Kỳ Na giáo đến nay vẫn còn được truyền bá tại Ấn Độ.

- Ấn Độ giáo.

Như trước đã trình bày, Ấn Độ giáo (Hindulsm) là sự kết hợp giữa kinh Vệ Đà của Bà La Môn giáo với “Bạc Già Phạn Ca” của tín ngưỡng dân gian mà thành.

Trước tiên xin đề cập đến sự phục hưng của tôn giáo Vệ Đà. Ước chừng có bốn nhân tố:

1. Từ sau vương triều Giới Nhật, trong thời gian chừng năm trăm năm, thời gian này tăng lữ Phật giáo gia nhập Mật giáo, khiến sinh hoạt tăng đoàn ngày càng trở nên hủ bại.

2. Tăng lữ Phật giáo tập trung vào nghĩa lý nặng tính chất “không đàm”. Chỉ phát triển ở những trung tâm học thuật như tại chùa Na Lan Đà v.v... và lơ là việc đi sâu và sinh hoạt của quần chúng dân gian để mở rộng việc hoằng hóa.

3. Học và hiểu được giáo nghĩa Tứ thánh đế, Bát chánh đạo của đức Phật, đối với đa số người không phải là chuyện nghe là hiểu được, chưa nói là hiểu được có thực hành được hay là không. Hàng “ngu phu dung phụ” hằng ngày sinh hoạt và sống trong đời thường với đầy những khốn nạn, họ chỉ mong ngóng có một vị chúa cứu thế đến để đưa họ lên trời.

4. Thuyết “Tứ tánh bình đẳng” của Phật giáo đã làm phá sản đặc quyền của giới tăng lữ Bà La Môn giáo, vì thế họ vẫn luôn nuôi chí khôi phục dù trải qua thời gian dài một nghìn năm, lúc này nhân khi Phật giáo bị bại lạc, thì đấy lại là tâm lý mong đợi của một số tăng lữ Bà La Môn giáo, nên họ liền kết hợp tín ngưỡng dân gian, dung hợp triết lý Phật giáo làm xuất hiện tư thái mới cho Ấn Độ giáo.

Lại nói về nội dung của Ấn Độ giáo: căn do của Ấn Độ giáo là từ thần thoại trong kinh Vệ Đà, và thần thoại Sử Thi mà ra. Họ tin rằng thần Đại Phạm Thiên (Brahman) là đấng duy nhất tối cao. Có khi họ gọi Đại Phạm Thiên là Đại Tự Tại Thiên (Ìsùvara) để chỉ vị thần sáng tạo vũ trụ. Có khi họ gọi Đại Phạm Thiên là thần Thấp Bà (SÙiva), để chỉ vị thần phá hoại vũ trụ, có khi họ gọi Đại Phạm Thiên là thần Duy Tu Nô (Vaisnava) tức thần bảo hộ, tuy nhiều lập trường như vậy, nhưng rốt ráo duy nhất vẫn là Đại Phạm Thiên. Ấn Độ giáo tin vào các thần này, nên họ lễ kính hóa thân của thần cũng như vật tượng trưng của thần. Họ lấy nhân vật lịch sử là Tù trưởng Hắc Thiên (Krishn) trong “Đại Chiến Thi” và nhân vật lịch sử là vương tử Ma La, trong “Ma La Sở Hành Truyện” và gán cho cả hai là hóa thân của thần Duy Tu Nô. Thậm chí còn cho rằng đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni của Phật giáo cũng là hóa thần của vị thần đứng hàng thứ chín trong số các Thần của Ấn Độ giáo, nên họ cúng lễ bái Phật Thích Ca Mâu Ni; ngoài ra Ấn Độ giáo cũng tiến hành việc tu đính và bổ sung giáo nghĩa và giới luật, điều nay khiến những người chưa từng hiểu gì về Phật giáo thì nghĩ Ấn Độ giáo bao dung luôn cả Phật giáo, cùng lúc họ cũng thu nạp luôn những tín đồ thiển kiến của Phật giáo.

Như vậy, chính là do Ấn Độ giáo lấy nhân vật trong sử thi tạo thành hóa thân của thần Duy Tu Nô, lại còn miêu tả tù trưởng Hắc Thiên, cũng như cố sự của Kha Bích Tư Ái, rồi lấy đó làm kinh điển và được coi như thần thánh. Nhân đấy, trong miếu tự của Ấn Độ giáo có hội họa hình tượng cảnh nam nữ ôm nhau giao hội một cách bẩn thỉu. Ấn Độ cũng đem thần Tự Tại Thiên phối ngẫu với nữ thần, và gọi nữ thần là Ô Ma (Umà), còn thần Thấp Bà họ cho phối ngẫu với nữ nhân và gọi là Đỗ Nhĩ Gia (Durgà). Xin cũng đừng quên việc nam nữ ôm nhau trong trạng thái tương giao tức tư thế giao hoan. Điều đó theo quan điểm văn hóa của nhân loại học, thì tự nó có ý nghĩa hết sức trang nghiêm đứng đắn, vấn đề này xin được nói đến ở chương sau.

- Ấn Độ Giáo hấp thu Phật Giáo

Ở phần trươc có nói đến việc tân Bà La Môn giáo hấp thụ ở Phật giáo nhiều thứ. Giờ xin đơn cử một việc: đoạn cuối tiết một của chương này, có nói một vị học giả của phái Vệ Đàn Đa, đó là Thương Yết La A Xà Lê (700-750 tây lịch), tư tưởng của ông thường được các học giả đời sau của phái Chánh thống cho là “giả trang của Phật giáo” - (Pracchanna Buddhism). Tư tưởng nổi tiếng nhất của ông là thuyết “huyễn thuyết” (Màyàvàda), với thuyết này; ông chủ trương hiện tượng giới là hư huyễn, Phạm Thiên là tối cao, là siêu việt tất cả hiện tượng, là vô hạn, là thực tại, là tinh thần. Do huyễn lực của Phạm Thiên mà thành nguyên lý của hữu hạn hóa, đó là nhân cách của Thần Tự Tại, nhờ vào huyễn lực mà sáng tạo tất cả mọi hiện tượng của thế giới, đấy là sứcc sáng tạo của Thần Tự Tại; hiện tượng giới là cái được sáng tạo, đối với Đại Phạm Thiên tối cao mà nói, thì thế giới hiện tượng chỉ là hữu hạn, là phi thực tại, phi tinh thần; tính hư huyễn của phi thực tại, của hiện tượng giới, được gọi là “huyễn tính”.

Khảo sát áo nghĩa của “Huyễn thuyết”, thì trong các điển tịch chính thống của Bà La Môn giáo không tìm thấy có ý vị nào tương đương với thuyết “Huyễn tính” cả, nhưng kinh Bát Nhã của Phật giáo đến Trung Luận của Long Thọ thì ý vị tương tự với Huyễn Thuyết là rất nhiều, tỉ như kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật(9)dùng mười thí dụ để thuyết minh “tính không” của các pháp; tất cả pháp như huyễn, như ánh lửa, như trăng dưới nước, như hư không, như tiếng vang, như thành Kiền Đạt Bà, như cảnh trong gương, trong mộng, như ảnh, như hóa. Qua đó, có khả năng là Thương Yết La A Xà Lê tá dụng (mượn dùng) thuyết Tánh không của Phật giáo mà phát triển thành thuyết Thần tạo hóa của ông, và đặt cái tên là Huyễn thuyết.

Thứ nữa, Thương Yế La A Xà Lê còn thiết đặt nên lập trường “nhị đế”, và dùng nó để phát huy triết học của ông. Ông cho rằng do nhờ lập trường chơn đế mà biết có Thượng Phạm (Thượng Phạm chỉ cho Bản Thể), Thượng Phạm sản sinh thượng trí, chỉ có thượng trí mới biết được chân thực tối cao của Phạm Thiên. Do đó, theo ông tất cả thế giới hiện tượng đều là hư vọng; còn về lập trường tục đế, nhờ mà biết có Hạ Phạm (Hạ Phạm chỉ cho thần Tự Tại, hoặc thần Sáng Tạo), Hạ Phạm sản sinh hạ trí, nhờ hạ trí mà biết sự sáng tạo của Hạ Phạm nên nói tất cả hiện tượng giới là thực tại.

Khảo sát ý vị của thuyết “nhị đế” này, thì thấy căn nguyên của thuyết có xuất xứ từ Trung Luận của Long Thọ, đặc biệt là luận Đại Trí Độ quyển ba mươi tám(10), có đoạn: “vị thế đế cố, thuyết chúng sinh vô sở hữu” (vì thế tục đế, cho nên nói có chúng sinh; vì đệ nhất nghĩa đế mà nói, thì chúng sinh không do đâu mà có).

- Kết quả của sự giao thiệp.

Thời ấy, Ấn Độ giáo nhờ dung nạp rất nhiều dạng văn hóa trong dân gian của Ấn Độ sau đó mới phục hưng, họ hiệu đính, san định lại kinh điển và khắc bản in thành giáo điều; có những giáo điều hạn chế hành vi, tư tưởng của tín đồ, và tín đồ Ấn Độ tự nhận chỉ có tôn giáo của họ là độc tôn cao thượng. Họ quan niệm rằng chỉ có “Thần” của người dân họ là đệ nhất tối tôn, và đất nước Ấn Độ của họ cũng là độc nhất vô nhị trên thế giới này. Theo họ, không quốc gia nào trên thế giới ưu tú như quốc gia họ, kết quả Ấn Độ giáo trở thành quốc giáo của dân tộc Ấn Độ.

Nói về Phật giáo sau thời kỳ vua Giới Nhật, Phật giáo nhận thấy thế lực phục hưng của Ấn Độ giáo là cực kỳ lớn mạnh, nên cũng thuận theo yêu cầu của dân gian bằng cách Phật giáo hóa những gì đặc sắc của Ấn Độ giáo. Làm vậy, là vì bấy giờ các luận sư Phật giáo không còn đủ sức để thủ thắng Ấn Độ giáo về mặt biện luận. Nhưng lại “vũ trang” về mặt tâm lý. Đó là lý do xuất hiện những thần Kim Cang với vẻ mặt phẫn nộ, tức sự xuất hiện của thần Kim Cang Tát Đỏa có nhiều đầu nhiều tay. Phật giáo tạc tượng Kim Cang Thủ Bồ tát với chân bên hữu dẫm lên Đại Tự Tại Thiên, chân bên tả dẫm lên Tự Tại Thiên đang trong tư thế giao hợp với nữ thần. Ấn Độ giáo thờ rất nhiều thần, và các thần của Ấn Độ giáo không vị nào là không bị Kim Cang Tát Đỏa hàng phục.

Tất cả việc làm vừa nêu của Phật giáo là nhằm biểu lộ trạng thái tâm lý đương thời chứ không là gì khác. Những khổ tâm đó của Phật giáo đương thời như thế nào, cuối chương sau sẽ rõ.



(1)Năm 330-379 sau Công nguyên.

(2)Năm 380- 414 sau Công nguyên.

(3)Năm 535 đến năm 730 tây lịch

(4)Đại Chánh Tạng-50, cuối trang 321.

(5)Đại Chánh tạng-50, cuối trang 337.

(6)Ấn Độ Chí Phật giáo, tiết I, chương 13, của pháp sư Ấn Thuận.

(7)Đại Chánh tạng-38, đầu trang 428.

(8)Đại Chánh tạng-45, giữa trang 1.

(9)Đại Chánh tạng-8, đầu trang 217.

(10)Đại Chánh tạng-25, trang 336.


 

TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Đại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Đà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Đại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Đạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Độ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốc có pháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Đây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

lichsuphatgiaoando-06-04

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vi và pháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Đạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyên và mười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

lichsuphatgiaoando-06-05

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệt và độc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tương và liên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

lichsuphatgiaoando-06-06

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian pháp và xuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gian và xuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế gian và khí thế gian. Địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gian mà an lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữu và trung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gian mà an lập thứ tự. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giới và vô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Định của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trí và vô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp trí và loại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần định và căn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơn là trải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyên mà ngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Độc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trước và hiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Đẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Đây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.

(1) Đại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Đạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Điển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Đại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Đại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Đại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Đại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Đại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Đại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Đại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Điển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Độ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com