- Chương 01: Nguồn gốc
- Chương 02: Thích Ca Thế Tôn
- Chương 03: Nguyên thỉ Phật giáo và Tam tạng kinh điển
- Chương 04: Vua A Dục và Đại Thiên
- Chương 05: Sự phân chia bộ phái Phật giáo
- Chương 06: Giáo nghĩa của Đại Chúng Bộ và Hữu bộ
- Chương 07: Nghệ thuật Phật giáo - Vương triều vua A Dục và sau đó
- Chương 08: Thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa
- Chương 09: Phật giáo Đại thừa hệ Long thọ và kinh điển của hệ này về sau
- Chương 10: Phật giáo Đại thừa hệ Vô Trước
- Chương 11: Vương triều Cấp Đa và Phật giáo sau vương triều này
- Chương 12: Từ thời Mật giáo thịnh hành đến Phật giáo cận đại
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
Pháp sư Thánh Nghiêm- Thích Tâm Trídịch
---o0o---
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA HỆ LONG THỌ
VÀ KINH ĐIỂN CỦA HỆ NÀY VỀ SAU
TIẾT 1: BỒ TÁT LONG THỌ
- Phép phân hệ của tư tưởng Đại thừa.
Về tổng quan mà nói, thì Phật pháp vốn dĩ chỉ một “vị”, đó là giải thoát. Nhưng về xu hướng phát triển thì không thể không có khác biệt. Luận vè tư tưởng “thừa thượng khải hạ” (tiếp nhận từ đời trước, để mở lối cho đời sau), theo Địch Nguyên Vân Lai có thể chia làm hai hệ thống lớn, theo biểu đồ sau(1):
Trên thực tế, Phật giáo Đại thừa chỉ có một hệ là hệ Tịnh tâm duyên khởi, nhân đấy đại sư Thái Hư mới chia làm ba hệ, ấy là căn cứ vào quá trình cải tiến qua ba thời kỳ của Đại thừa.
1. Không huệ tông gồm có ba luận.
2. Duy thức tông gồm có Duy thức và Giới Luật.
3. Chân Như tông gồm có Thiền Na, Thiên đài, Hiền thủ, Chân Như, Tịnh Độ(2).
Đến năm 1940, đại sư Thái Hư lại đem ba hệ trên đổi thành:
1. Pháp Tánh Không Huệ Tông, lấy pháp không Bát Nhã làm tông.
2. Pháp Tướng Duy Thức Tông, lấy Pháp tướng Duy thức làm căn bản.
3. Pháp Giới Viên Giác Tông, bao quát cả hai tông là Pháp tánh về Pháp tướng, lấy hết thảy các pháp làm giới, vì rằng không có một pháp nào là không siêu việt. Hoa Nghiêm (HiềnThủ), Pháp Hoa (Thiên Đài), Tịnh Độ, Chân Như v.v... không có pháp nào là không đi vào phạm vi của tông thứ ba này(3). Nói như thế là đứng trên lập trường Phật pháp bản nguyên chỉ có một “vị”, từ đó khai mở “pháp giới Viên Giác Tông” lấy đó làm viên dung cho tất cả Phật pháp. Trên thực tế, căn bản của Phật giáo nguyên thỉ chắc chắn thuộc về một vị, nhưng chi mạt Phật giáo được phát triển về sau này, tuy không phủ nhận “nhất vị”, nhưng nhân vào đâu để đi đến viên dung? Điều này tựa hồ như một nghi vấn lớn. Tuy nhiên, đại sư Thái hư là người chịu ảnh hưởng của Thiên Đài và Hiền Thủ về “Sở phán Viên giáo” nên cũng đã phải dựa vào cảnh giới Phật trí để xiển thuyết”; vì thế ông thiết lập Pháp Giới Viên Giác Tông, lấy đó thay cho địa vị của viên giáo. Vấn đề này sẽ thảo luận kỹ hơn trong sách Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc.
Nhân việc phân phán vừa nêu của đại sư Thái Hư, nên gần đây pháp sư Ấn thuận căn cứ vào quá trình phát triển của Phật giáo, và thể hệ tư tưởng của quá trình này mới đem Phật giáo Đại thừa Ấn Độ chia làm thành ba giòng lớn:
1. Tánh Không Duy Danh Luận, lấy Long Thọ làm đầu mối cho sơ kỳ Đại thừa.
2. Hư Vọng Duy Thức Luận, lấy Vô làm đầu mối cho trung kỳ Đại thừa.
3. Chân Thường Duy Tâm Luận, lấy Phật Phạn Tông hiệp với hậu kỳ Đại thừa(4).
Các sách của sư Ấn Thuận chính là nhằm giới thiệu Đại thừa Phật giáo của giáo hệ Long Thọ. Do đó, nên đem việc phân hệ của Đại thừa ra giới thiệu trước.
- Lược truyện về Long Thọ.
Đứng về phương diện lịch sử của Phật giáo Ấn Độ, Long Thọ (Nàgàrjuna) được tôn là đệ nhị Thích Ca. Chữ Nàgàrjuna có thể dịch sang Hán ngữ là Long Mãnh, hoặc Long Thắng. Theo như Long Thọ Bồ Tát Truyện ở phần cuối, chép: ”Mẹ ông sinh ra ông dưới gốc cây (Thọ) “ông nhờ rồng mà thành đạo” nên có hiệu là Long Thọ.
Truyện ký viết về Long Thọ có rất nhiều thứ loại, nay xin đơn cử ba thứ loại:
1. Long Thọ Bồ Tát Truyện, sách do ngài La Thập dịch ra Hán văn(5) chép:
“Ông sinh trong một gia đình theo Bà La Môn giáo ở nam Ấn Độ. Ông là bậc “thiên thông kỳ ngộ” (thiên chất thông minh đạt đến mực kỳ tài đỉnh ngộ), việc gì đã học qua là nhớ không phải lặp lại, đầu tiên ông học Vệ Đà, thuật số, thiên văn địa lý, đồ vĩ, bí sấm. Sau ông cùng ba người bạn thân theo học thuận ẩn thân, thường lẻn vào cung vua dâm loạn với các mỹ nữ trong cung hơn trăm ngày, sau sự việc bị bại lộ, ba người bạn đều bị tội chết, riêng ông được miễn tội chết. Nhân vụ việc này, ông thể ngộ rằng “dục là cái gốc của khổ, là căn nguyên của các họa”, và rồi ông xuất gia đầu Phật. Trước tiên ông tu học theo tam tạng Tiểu thừa, sau ông ông đến Tuyết Sơn tháp thọ học kinh điển Đại thừa với các vị Tỳ kheo già. Nhân lúc chưa nắm được thực nghĩa Đại thừa, ông khởi tâm kiêu mạn. Do đó, Bồ tát Đại Long thấy được liền sanh lòng thương, và đưa ông đến biển, tại cung rồng Cửu Thập Thiên ông đọc được kinh điển thâm áo như Phương Đẳng, nhờ đó ông thể ngộ được cái lợi thiết thực. Sau đó ông về lại nam Ấn và đại hoằng Phật pháp tại đây. Ông phá đổ ngoại đạo, và tùy từng sự kiện mà trước thuật kinh luận. Vừa lúc ông đang hóa độ vị quốc vương của vùng nam Ấn vừa xong thì được biết có vị pháp sư Tiểu thừa ganh ghét ông. Ông bèn vào thất đóng chặt cửa rồi ra đi.
2. Theo đại sư Bố Đống (Bu-ston) người Tây Tạng, ông là người viết bộ “Phật Giáo Sử” bằng Tạng văn, thì:
“Long Thọ được sinh tại Vi Đà Nhĩ Bốc (Vidarbha - nay là Bối Lạp Nhĩ - Berar), ông xuất gia tại chùa Na Lan đà, đầu tiên theo học với Bà La Môn tên Sa La Tư (Sàraha) và trưởng lão Tỳ kheo La Hầu La Bạt Đà La (Bàhuladhadra). Sau đó ngài tiếp nhận “Thập vạn tụng Bát Nhã” tại nước Rồng (Nàga), ông lại tìm đến phái Thổ Vi Sa (Patavésa) ở phương đông, và các địa vức như Câu Lâu ở phương bắc v.v... ông có kiến tạo tự viện tại các nơi này. Sau cùng ông nhận lời của Sa Khắc Đế Mã (Saktimar) cháu của một quốc vương và rồi ông tự vẫn mà hóa”
3. Đại Đường Tây Vức Ký - quyển mười(6) chép:
“Long Thọ được vua nước Kiều Tát La mời đến, tại đây ông được Bà Đa Bà Từ (Satavahara) - Chính Dẫn) qui y tín phụng, và ông này là Long Thọ mà kiến tạo Già Lam tại Tạc Sơn thuộc địa phận Bạt La Mạt Kỳ Lý (Bhramara - giri- Hắc Phong) cực kỳ trang nghiêm. Công trình xây được nửa chừng thì phủ khố trống rỗng, Long Thọ bèn dùng dược liệu, và đãi đá lấy vàng nhờ đó mà thành thắng nghiệp. Lại nữa, Long Thọ là người giỏi về dược học, ăn uống theo thuật dưỡng sinh nên ông thọ có hơn trăm tuổi, vua Chánh Dẫn nhờ thuật dưỡng sinh của ông nên cũng sống hơn trăm tuổi. Khiến người con nối ngôi vua Chánh Dẫn dợi mãi để được lên ngôi, nhưng vua Chánh Dẫn vẫn sống mãi, nên hướng về Bồ tát Long Thọ mà cầu xin Long Thọ thu thần nhập tịch. Long thọ nhân đó tự vẫn không sống nữa. Vua Chánh Dẫn thấy vậy sinh buồn phiền đau xót mà chết”.
Trong ba thuyết vừa nêu, thì thuyết thứ nhất và thứ ba có vẻ như diễn nghĩa chứ chưa hẳn là sự thực lịch sử. Tuy nhiên, trong các thuyết trên cũng tiềm ẩn phần nào sự thực lịch sử. Đại loại các thuyết đều đồng ý Long Thọ ra đời tại nam Ấn Độ, buổi đầu ông chịu sự cảm hóa của Đại Chúng Bộ Án Đạt La, sau ông xuất gia với Hữu Bộ, tiếp đó ông chịu ảnh hưởng của kinh Bát Nhã và kinh Hoa Nghiêm, và rồi ông là người hoằng truyền Đại thừa. Ông tuy là người tu hành toàn cõi Ấn Độ, nhưng những hoạt động hoằng hóa của ông chủ yếu là tại nam Ấn, ấy là do ông cảm hóa được vị quốc vương mà trước đó vốn là người tín phụng ngoại đạo giờ trở về quy y Tam Bảo; Đại thừa Phật giáo tại nam Ấn cũng nhờ đó mà thịnh hành. Liên quan đến niên đại của Long Thọ cũng có nhiều thuyết khác nhau. Đại loại Long Thọ là vị Bồ tát hoằng truyền Đại thừa Phật pháp vào khoảng từ năm 150 đến năm 250 tây lịch. Điều suy định này được đa số các hoạc giả cận đại công nhận.
- Những trước thuật chủ yếu của Long Thọ.
Bồ tát Long Thọ là vị luận sư vĩ đại vào bậc nhất của Phật giáo Đại thừa. Có truyền thuyết nói ông thọ thế từ một trăm hai đến một trăm ba mươi tuổi. Luận điển do ông trước tác thì nhiều vô kể. Theo Đại Chánh Tân tu Đại Tạng Kinh của Nhật Bản, thì những trước tác của Long Thọ gồm có hai mươi lăm bộ, còn Tây Tạng Đại Tạng Kinh thì nói, Long Thọ trước tác có đến một trăm hai mươi lăm bộ. Nhân vì Long Thọ là vị luận sư có danh tiếng quá lớn, nên không thể tránh khỏi người đời sau trước tác nhưng lại gán tên ông. Những bộ chủ yếu đủ để tin là của Long Thọ, xin liệt kê số liệu như sau:
I. Trung luận tụng (Madhyamaka - Kàrikà). Những thích luận có liên quan đến Trung Luận Tụng gồm có:
1. Vô Úy chú - có thuyết nói Vô Úy chú là do Long Thọ tự tuyển. Tây Tạng mới có dịch bản này.
2. Thanh Mục chú - Bản này được La Thập dịch ra Hán văn từ Trung Luận. Bản Phạn văn và Tây Tạng văn hiện không còn.
3. Phật Hộ chú - bản dịch của Tây Tạng văn có tên là Căn Bản Trung Sớ.
4. Thanh Biện chú - bản Hán dịch và bản dịch của Tây Tạng có tên là Bát Nhã Đăng Luận Thích.
5. Nguyệt Xứng chú - bản Phạn văn là bản Tây Tạng dịch có tên là Minh Cú Luận (Drasannapada).
6. An Huệ chú - bản Hán dịch có tên là Đại thừa Trung Quán Luận, có chín quyển.
II. Thập Nhị Môn Luận - một quyển. Được La Thập dịch sang Hán văn. Bản Phạn văn và Tây Tạng văn hiện chưa tìm thấy.
III. Thất Thập Không Tánh Luận. Đã dịch ra Tây Tạng văn. (Ba tác phẩm vừa nêu là nhằm đả phá Tiểu thừa, hoằng dương Đại thừa).
IV. Hồi Tránh Luận. Một quyển, bản luận này được Tỳ Mục Trí Tiên và Cù Đàm Lưu Chi cộng tác dịch a Hán văn, bản Phạn văn và bản Tây Tạng văn hiện vẫn còn.
V. Lục Thập Tụng Như Lý Luận. Một quyển, do Thi Hộ dịch ra Hán văn, Tây Tạng cũng có dịch bản này.
VI. Quảng Phá Kinh, Quảng Phá Luận. Hai bản kinh luận này đã dịch ra Tây Tạng văn (ba bản IV, V, VI chủ yếu là đả phá phái Chánh Lý của ngoại đạo).
VII. Đại Trí Độ Luận. Một trăm quyển. Do La Thập dịch ra Hán văn. Luận này có liên hệ với “Đại Bát Nhã Kinh” đệ nhị hội tức thích luận của Đại Phẩm Bát Nhã. (Với hai vạn năm nghìn tụng). Đại Trí Độ Luân chưa truyền đến Tây Tạng.
VIII. Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận - mười bảy quyển. Bản Hán dịch là của La Thập, luận này có liên hệ đến kinh Hoa Nghiêm qua thích luận của “Thập Địa Kinh” và chỉ mới dịch ra Hán văn hai bộ phận là Sơ địa và Nhị dịa. Bản Phạn văn đã bị mất và chưa thấy truyền đến Tây Tạng. (hai luận trên chủ yếu là để thích luận kinh Đại thừa).
IX. Đại Thừa Nhị Thập Tụng Luận, bản Hán dịch của Thi Hộ. Tây Tạng cũng có dịch bản (đây là một đoản luận có tính độc lập).
X. Nhân Duyên Tâm Luận Tụng. Nhân Duyên Tâm Luận Thích - một quyển, bản Hán dịch đã bị mất. Tây Tạng cũng có dịch bản này. (Tiểu luận này được phát hiện tại Đôn Hoàng).
XI. Bồ Đề Tư Lương Luận Tụng - sáu quyển, do Tự Tại làm lời thích, và được Đạt Ma Cấp Đa dịch ra hán văn.
XII. Bảo Hành Vương Chính Luận - một quyển, bản Hán dịch của Chơn Đế, Tây Tạng cũng có bản dịch này. Đây chính là bộ Bảo Man Luận của bản Phạn văn.
XIII. Long Thọ Bồ Tát Khuyên Giới Vương Tụng - môt quyển; bản Hán dịch của Nghĩa Tịnh, Hán dịch còn có hai bản khác, không rõ ai dịch: Tây Tạng cũng có dịch bản này. Riêng bản Phạn văn nay không còn. (Ba luận, tụng 11, 12, 13 là nhằm thảo luận vấn đề tu trì, và cách đối xử của Phật giáo với các thể chế Chính trị).
Trong số các luận vừa nêu, chủ yếu nhất là Trung Luận, Đại Trí Độ Luận, và Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Trung Luận xiển dương và phát huy thâm nghĩa tánh không duyên khởi; nêu rõ căn bản của vấn đề sinh tử, giải thoát, làm “cửa” chung cho tam thừa; Đại Trí Độ Luận đào sâu vào lập trường Trung đạo nhằm hiển thị “Bất Cộng Bát Nhã” (lập trường của Bát Nhã không cùng có với lập trường của các Luận). Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, dùng cái thấy thâm viễn để xướng phát đại hạnh của Bồ tát.
- Tư tưởng Long Thọ.
Tương truyền Long Thọ là người hưởng tuổi thọ rất cao, trong suốt một đời ông sống, theo đó mà thời gian sáng tác của ông cũng rất dài lâu. Tư tưởng của một con người, hơn nữa người đó lại là một tư tưởng gia thì biên độ tư tưởng do người đó sáng tác hẳn nhiên là chịu chi phối bởi tuổi tác, và hoàn cảnh không phải lúc nào cũng giống nhau, mà có sự “co - dãn” biến động. Do đó, chúng ta nhận ra toàn bộ những trước tác của Long Thọ không thể không nói là nội dung tư tưởng của ông rất phức tạp, thậm chí còn mâu thuẫn nhau là đàng khác. Vì thế, có người cho rằng tư tưởng của Long Thọ tự nói không thống nhất, và đưa ra ba lý do:
Thứ nhất, về thời gian trước tác có trước, có sau. Thứ hai, đối tượng nhắm đến để sáng tác bao gồm Tiểu thừa, Đại thừa, và dị chấp ngoại đạo. Tất cả là không giống nhau, cho nên tùy từng đối tượng mà dùng phương thuyết giảng khác nhau. Thứ ba, đối tượng sáng tác còn phải tùy vào từng lĩnh vực về thời gian, về giai tầng xã hội mà dẫn dụ, nên cũng theo đó mà phương tiện thuyết giảng có khác nhau.
Đối với ngoại đạo và Tiểu thừa, thì lúc đối diện với ngoại đạo, ông đứng trên lập trường Phật giáo để hoằng dương Đại thừa, chứ không đứng trên địa vị Tiểu thừa, ông miễn cưỡng khi so sánh Tiểu thừa chẳng khác gì ngoại đạo. Nhân đấy, khi ông đứng trên lập trường Đại thừa để phê phán Tiểu thừa là nhằm ứng phó lại lập trường của ngoại đạo, ngay cả việc ông lợi dụng kinh, lụât, luận của Tiểu thừa.
Như vậy, Long Thọ tuy lấy “Bát Nhã không nghĩa” làm trọng tâm cho giáo nghĩa Đại thừa của mình. Nhưng khi đối diện với Tiểu thừa, ông lại hoàn toàn đứng trên lập trường Đại thừa, ông cũng làm cho kinh điển của hệ giáo lý Tịnh độ thuộc về tư tưởng Đại thừa và so ra đẹp hơn Tiểu thừa, bởi ông không bỏ sót tư tưởng Tịnh độ.
Đương thời, Bồ tát Long Thọ khi đối diện với việc tiếp dẫn chúng sinh mà trước tác, thì điều cần thiết là thích ứng với căn tánh của từng hạng người.
Do đó, việc thiết giáo không thể không có sự sai biệt. Chẳng hạn luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa thích hợp cho việc giáo hóa hàng thượng căn, thượng trí, nên có lúc ông dùng cách phân loại ba thừa - Đại - Trung - Tiểu, có khi ông dùng cách phân loại Đại thừa, Trung thừa (Độc giác), Tiểu thừa (Thanh văn), Nhơn, Thiên - năm thừa. Đến luận Đại Trí Độ, luận này chẳng khác gì bộ bách khoa toàn thư của Phật giáo, nó giải thích một cách hết sức sâu rộng cả về truyền thuyết, thí dụ, tên người, địa danh, Bộ phái danh và kinh điển danh v.v...
Một cách tổng quát, hầu như tất cả tư tưởng Phật giáo đều được Long Thọ kiến giải tường tận. Ông lấy Đại thừa làm trung tâm rồi từ đó mà định địa vị cao thấp không đồng nhất, ông tùy vào “tứ phương bát diện” (bốn phương tám mặt) mà phát huy Đại thừa giáo nghĩa, điều này cho thấy tư tưởng của Long Thọ là vô cùng phong phú, đại khái nhận xét như vậy là chính xác. Cũng chính vì điều này, mà chiêu bài về Long Thọ được các Phật tử hậu thế chia thành nhiều lập trường, thế nên Long Thọ được coi là vị khai tổ của tám tông hoặc chín tông phái.
- Lập trường của Long Thọ.
Căn cứ vào những nghiên cứu của các học giả cận đại, thì tuy tư tưởng, ý thức của Long Thọ nhắm vào nhiều phương diện, nhưng lập trường chủ yếu của ông là ở Trung Luận. Long Thọ viết bộ Trung Luận vào thời tráng niên, do đó sức sáng tác của ông vô cùng sung mãn. Trung Luận có có năm trăm bài tụng, chia làm hai mươi bảy phẩm. Tư tưởng chủ yếu của Trung Luận là ở “Bát bất kệ”, hoặc có thêm nữa là “Tam Đế Kệ”. Muốn lý giải rốt ráo Bát Bất kệ thì căn cứ vào phẩm Nhân Duyên, phẩm này được coi là phần mở đầu được Long Thọ sử dụng; đến phẩm Tà Kiến là phần rốt cuối của luận; tựu trung ấy là sự trước tác theo một nguyên lý. Nguyên lý này quán thông toàn bộ luận thư. Xin lược giới thiệu nội dung hai bài kệ.
1. Bát Bất Kệ:
Bất sinh diệc bất diệt, bất thường diệc bất đoạn.
Bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất.
(Không sinh cũng chẳng diệt, chẳng thường còn cũng chẳng đoạn mất.
Chẳng phải một cũng chẳng phải khác một, chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu.)
Đó là bài tụng đầu tiên của phẩm thứ nhất(7) Kinh Bát Nhã quán chiếu thấy ngũ uẩn, thập bát giới, tất cả đều không. Nhưng đứng trên lập trường thực itễn mà nói, thì lập trường “Không” vẫn chưa đạt đến luận lý minh bạch. Trung Luận của Long Thọ đem thuyết chân không của Bát Nhã tiến thêm bước nữa bằng cách lập luận lý biện chứng.
“Bát bất” đặt cơ sở trên bản chất của nhân duyên pháp mà lý luận một cách có biện chứng. Bản chất của nhân duyên pháp là “Không”. Không tức vô ngại. “Không” ở đây không rơi vào ý niệm không và có, mà là trung đạo. Do đó, tên gọi Trung Luận là nhằm để xiển minh Trung đạo. Có người quán sát trạng thái của thế giới, với quan niệm coi sự sinh diệt, thường đoạn, nhất dị, lai xuất (tức khứ lai) là cố định, do đó mà có sự chấp ngã của hạng phàm phu, có chấp thường kiến, đoạn kiến của ngọai đạo, và “pháp chấp sinh khởi” của Tiểu thừa. Dưới thước đo của duyên khởi mà quán sát chân tướng của thế giới, thì thế giới tự nó không sinh khởi, cũng không tự nó tiêu diệt; nó cũng “phi thường hữu diệc phi đoạn tuyệt” (không thường có cũng không đoạn dứt). Không thể nói thế giới là một khối thống nhất và không bị dịch biến, thế giới tự nó không phải sinh ra cái mới, cũng không phải tự nó không diệt đi cái cũ. Có một số học giả của các tôn giáo khác ngộ nhận và cho rằng luận thuyết như vậy là ngụy biện, là “vô thị vô phi luận”, là “tợ thị nhi phi luận” (luận giống như thực nhưng không thực). Kỳ thực, các học giả này chưa thấu hiểu Trung đạo quán được giảng một cách minh bạch bởi giáo nghĩa Phật giáo. Trung đạo quán nhìn trên cơ sở đệ nhất nghĩa đế của pháp duyên khởi mới thấy xuyên suốt được chân tướng của thế giới. Thế giới mà chân tướng của nó là “không”, tức không có tự tánh có thể khả đắc, tuy nhiên trên mặt tục đế mà xét, thì thế giới dựa vào qui tắc “duyên sinh duyên diệt” mà tồn tại. Nếu chấp thế giới do duyên khởi huyễn hữu này là thực tại, hoặc là hư vô, thì rơi vào cảnh giới của ngoại đạo và phàm phu, còn như nhận thức thế giới do duyên khởi này tuy huyễn hữu, không thực, rồi lấy việc tu quán pháp duyên khởi để đi đến cảnh giới Niết bàn và cho đó là thực tại, thì rơi vào cảnh giới của Tiểu thừa. Điều này khi đến Thiên Đài Gia của Trung Quốc, liền được nhận định: phàm phu và ngoại đạo thì chấp tục (giả), đến thánh giả Tiểu thừa thì chấp chơn (không) đế, Thánh giả Đại thừa đứng trên lập trường “Trung” để phủ định cả tục đế và chơn đế. Duy chỉ có người ngộ nhập Trung đế mới có khả năng đi vào sinh tử mà không bị sinh tử trói buộc, nhiễu hại; nhập Niết bàn mà vẫn không quên cứu chúng sinh khổ.
2. Tam Đế Kệ:
Chúng nhân duyên sinh pháp,
Ngã thuyết tức thị võ,
Diệc vi thị giả danh,
Diệc thị trung đạo nghĩa.
Tạm dịch: Pháp được sinh từ nhiều nhân và duyên, ta cho rằng pháp đó là không (có tự tánh cá biệt), pháp chỉ là tên chứ không có thực, đấy cũng là nghĩa trung đạo.
Trên đây là bài tụng thứ mười tám trong phẩm Quán Tứ Đế thứ hai mươi bốn của Trung Luận(8). Câu sau cùng của bài kệ “diệc thị trung đạo nghĩa”, là dựa vào bản dịch của Tây Tạng mà dịch sang Hán văn là “Tư Thị trung nghĩa đạo”, dịch như vậy là biểu thị “tức không tức giả tức thị trung đạo nghĩa” (ấy là không ấy là giả ấy cũng là nghĩa của trung đạo), chứ không lập riêng Trung đế nào khác, chính vì vậy nên Tam Luận Tông của Trung Quốc chỉ nói nhị đế tương hiệp.
Kỳ thực thì gốc của Trung Luận vẫn chưa dùng bài kệ này chia làm ba đế, mà chỉ nói tất cả các pháp được sinh từ nhiều nhân và nhiều duyên, do đó, mà (tự tánh của) các pháp là không, là giả, là trung. Pháp duyên khởi không có tự tánh, vì thế nên nói là “không”; nhưng vì dãn dắt chúng sinh nên không thể không đề cập đến các pháp, và các pháp được đề cập đến đều không có tự tánh, vì vậy mới nói các pháp chỉ là tên gọi giả. Pháp chỉ là tên gọi giả, pháp như vậy gọi là tục đế (cái thấy đúng của người đời về mặt hình tướng, trạng thái). Hàng Tiểu thừa, mà kết quả của họ là quán sát pháp duyên khởi trên cơ sở “không”, cái “không” này bắt nguồn từ nghĩa thứ hai (tục đế) có tính tương đối, vì thế không triệt để, cho nên chỉ có “không vô tự tánh” mới quét sạch được quan niệm “không” của Tiểu thừa. “Không vô tự tánh” mới là đệ nhất nghĩa đế của Đại thừa, đó là trung đạo, và không rơi vào quan niệm nhị biên là “không” đối lập với “hữu”.