Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 6- Hoạt động máy móc của tư tưởng

18/07/201100:49(Xem: 3895)
Chương 6- Hoạt động máy móc của tư tưởng

J. KRISHNAMURTI
NGHI VẤN KHÔNG ĐÁP ÁN
THE IMPOSSIBLE QUESTION
Lời dịch: Ông Không – 2010

Phần 1
Nói chuyện trước công chúng tại Saanen 1970

Chương 6

HOẠT ĐỘNG MÁY MÓC CỦA TƯ TƯỞNG

Ngày 28 tháng 7 năm 1970

Krishnamurti: Chúng ta đang nói về sự quan trọng của tư tưởng và cũng vậy về sự không-quan trọng của nó; về làm thế nào tư tưởng có nhiều hoạt động, và trong lãnh vực riêng của nó chỉ có sự tự do giới hạn. Chúng ta nói về một trạng thái của cái trí mà hoàn toàn không bị quy định. Sáng nay chúng ta có thể tìm hiểu nghi vấn của tình trạng bị quy định này; không chỉ bị quy định thuộc văn hóa, hời hợt, nhưng còn cả tại sao bị quy định lại xảy ra. Chúng ta có thể tìm hiểu về chất lượng của cái trí mà không bị quy định, mà đã vượt khỏi bị quy định. Chúng ta phải thâm nhập nghi vấn này rất sâu thẳm để tìm ra tình yêu là gì. Và trong hiểu rõ tình yêu là gì, có lẽ chúng ta sẽ có thể nắm bắt được ý nghĩa trọn vẹn của chết.

Vậy là, trước hết chúng ta sẽ tìm ra liệu, một cách tổng thể và hoàn toàn, cái trí có thể được tự do khỏi tình trạng bị quy định. Rất dễ dàng để hiểu rõ làm thế nào trên bề mặt chúng ta bị quy định bởi văn hóa, xã hội, sự tuyên truyền quanh chúng ta, và cũng vậy bởi chủ nghĩa quốc gia, bởi một tôn giáo đặc biệt, bởi giáo dục và qua những ảnh hưởng thuộc môi trường sống. Tôi nghĩ khá rõ ràng và khá đơn giản để thấy làm thế nào hầu hết những con người, thuộc bất kỳ quốc gia hay chủng tộc nào, đều bị quy định bởi văn hóa hay tôn giáo đặc biệt mà họ lệ thuộc. Họ bị đúc khuôn, bị nhốt chặt trong một khuôn mẫu đặc biệt. Người ta có thể gạt bỏ bị quy định đó khá dễ dàng.

Rồi lại có bị quy định sâu thẳm hơn, như một thái độ hung hăng đối với sống. Hung hăng hàm ý một ý thức của thống trị, của tìm kiếm quyền lực, những sở hữu, thanh danh. Người ta phải thâm nhập thật sâu thẳm để hoàn toàn được tự do khỏi điều đó; bởi vì nó rất tinh tế, khoác vào vô số những hình thức khác nhau. Người ta có lẽ nghĩ rằng người ta không hung hăng, nhưng khi người ta có một lý tưởng, một quan điểm, một đánh giá, bằng từ ngữ hay không-từ ngữ, có một ý thức của khẳng định mà từ từ trở thành hung hăng và bạo lực. Người ta có thể thấy điều này trong chính người ta. Đằng sau chính từ ngữ ‘hung hăng’, mặc dù bạn có thể nói nó rất dịu ngọt – có một cú đá, một hành động phản đối ngấm ngầm đang chi phối mà trở thành dữ dằn và bạo lực. Người ta phải khám phá tình trạng bị quy định của sự hung hăng đó, liệu người ta đã thừa hưởng nó từ thú vật, hay đã trở thành hung hăng trong vui thú tự-khẳng định riêng của người ta. Liệu người ta hung hăng trong toàn ý nghĩa của từ ngữ đó, mà có nghĩa ‘tiến về phía trước’.

Một hình thức khác của bị quy định là hình thức của so sánh. Người ta tự-so sánh mình với điều gì người ta nghĩ là cao quý và anh hùng, với điều gì người ta muốn là, đối nghịch với điều gì người ta là. Sự theo đuổi so sánh là một hình thức của bị quy định; lại nữa nó tinh tế ghê lắm. Tôi tự- so sánh mình với người nào đó mà thông minh hơn một chút hoặc đẹp đẽ hơn một chút. Kín đáo hay lộ liễu, có một độc thoại liên tục, tự nói với mình trong nền tảng của so sánh. Hãy quan sát điều này trong chính bạn. Nơi nào có sự so sánh, có một hình thức của hung hăng trong cảm giác của thành tựu; hoặc, khi bạn cảm thấy không thành tựu, có một ý thức của tuyệt vọng và một cảm giác của thấp kém. Từ niên thiếu chúng ta được giáo dục để so sánh. Hệ thống giáo dục của chúng ta được đặt nền tảng trên sự so sánh, trên chấm điểm, trên những kỳ thi. Trong tự-so sánh chính mình với người nào đó mà thông minh hơn, có ganh ghét, đố kỵ, và tất cả xung đột phát sinh từ đó. So sánh hàm ý đo lường; tôi đang tự-đo lường chính tôi với cái gì đó mà tôi nghĩ tốt lành hơn và cao quý hơn.

Người ta hỏi: ‘Liệu cái trí có thể được tự do khỏi tình trang bị quy định thuộc văn hóa và xã hội này, khỏi cái trí đang đo lường và đang so sánh, khỏi tình trạng bị quy định của sợ hãi và vui thú, của phần thưởng và hình phạt?’ Toàn cấu trúc thuộc tôn giáo và đạo đức của chúng ta đều được đặt nền tảng trên điều đó. Tại sao chúng ta bị quy định? Chúng ta thấy những ảnh hưởng phía bên ngoài mà đang quy định chúng ta và sự đòi hỏi tự nguyện phía bên trong để bị quy định. Tại sao chúng ta chấp nhận bị quy định này? Tại sao cái trí đã tự-cho phép chính nó để bị quy định. Nhân tố đằng sau tất cả điều này là gì? Tại sao tôi, được sinh ra trong một quốc gia và văn hóa nào đó, đang gọi chính tôi là một người Ấn độ, cùng tất cả sự mê tín và truyền thống bị áp đặt bởi gia đình, xã hội, lại chấp nhận bị quy định như thế? Sự thôi thúc nằm sau điều này là gì? Nhân tố mà liên tục đang đòi hỏi và đang bằng lòng, đang nhượng bộ hoặc đang chống đối bị quy định này là gì? Người ta có thể thấy rằng người ta muốn được an toàn và bảo đảm trong cộng đồng mà đang tuân theo một khuôn mẫu nào đó. Nếu người ta không tuân theo khuôn mẫu đó, người ta có lẽ mất việc làm, sống không tiền bạc, không được coi như một con người đáng kính trọng. Có một phản kháng chống lại điều đó, và phản kháng đó hình thành một quy định riêng của nó – mà lúc này tất cả những người trẻ đang trải qua. Người ta phải tìm ra cái gì là sự thôi thúc mà bắt buộc người ta tuân phục. Nếu người ta không tự-khám phá nó cho chính người ta, người ta sẽ luôn luôn bị quy định theo cách này hay cách khác, một cách tích cực hay tiêu cực. Từ khoảnh khắc người ta được sinh ra cho đến khi người ta chết đi, tiến trình này tiếp tục. Người ta có lẽ phản kháng chống lại nó, người ta có lẽ cố gắng tẩu thoát vào một bị quy định khác, rút lui vào một tu viện như những người hiến dâng trọn đời cho sự suy ngẫm, cho một triết lý, đã thực hiện, nhưng nó cũng chỉ là cùng một chuyển động. Cái gì là bộ máy mà đang tự-chuyển động liên tục, đang tự-điều chỉnh chính nó đến vô vàn hình thức của bị quy định?

Tư tưởng vĩnh viễn bị quy định, bởi vì nó là sự phản ứng của quá khứ như ký ức. Tư tưởng luôn luôn thuộc máy móc; nó dễ dàng rơi vào một khuôn mẫu, vào một khe rãnh, rồi sau đó bạn lại nghĩ rằng bạn rất năng động, dù bạn bị đúc khuôn vào khe rãnh Cộng sản, khe rãnh Thiên chúa giáo, hay bất kỳ khe rãnh nào. Nó là việc dễ dàng nhất, máy móc nhất khi thực hiện – và chúng ta nghĩ chúng ta đang sống! Thế là mặc dù tư tưởng có một tự do bị giới hạn nào đó trong lãnh vực của nó, mọi thứ nó làm đều bị quy định. Rốt cuộc, đi dến mặt trăng hoàn toàn thuộc máy móc, nó là kết quả của sự hiểu biết được tích lũy qua hàng thế kỷ. Sự theo đuổi của suy nghĩ thuộc kỹ thuật đưa bạn đến mặt trăng, hay xuống đáy biển và vân vân. Cái trí muốn tuân theo một khe rãnh, muốn được máy móc và theo cách đó có sự an toàn, sự bảo đảm, không có sự quấy rầy. Sống máy móc không những được khuyến khích bởi xã hội, mà còn bởi mỗi người chúng ta, bởi vì đó là cách dễ dàng nhất khi sống.

Vì vậy tư tưởng là một theo đuổi lặp lại, máy móc, chấp nhận bất kỳ hình thức của bị quy định nào mà làm cho nó có thể tiếp tục trong hoạt động máy móc của nó. Một người triết lý sáng chế một lý thuyết mới, một người kinh tế sáng chế một hệ thống mới, và chúng ta chấp nhận khe rãnh đó và tuân theo nó. Xã hội của chúng ta, văn hóa của chúng ta, sự xúi giục tôn giáo của chúng ta, dường như mọi thứ vận hành một cách máy móc; tuy nhiên trong đó có một ý thức nào đó của kích thích. Khi bạn đi dự một thánh lễ Mass, có một hứng khởi, một cảm xúc nào đó, và việc đó trở thành một khuôn mẫu. Tôi không biết liệu đây là cái gì đó mà bạn đã từng thử – hãy thực hiện nó một lần và bạn sẽ thấy điều nực cười của nó: nhặt một miếng gỗ hay một cục đá, bất kỳ miếng nào là lạ hao hao giống như một hình thể, đặt nó trên kệ lò sưởi và đặt một bông hoa bên cạnh nó mỗi sáng. Trong khoảng một tháng bạn sẽ thấy rằng nó đã trở thành một thói quen, như một biểu tượng tôn giáo, và bạn đã bắt đầu đồng hóa mình cùng nó.

Tư tưởng là sự phản ứng của quá khứ. Nếu người ta được dạy ngành kỹ sư như một nghề nghiệp, người ta thêm vào và điều chỉnh hiểu biết đó, nhưng người ta bị cố định trong lãnh vực đó; tương tự như thế nếu bạn là bác sĩ và vân vân. Trong chừng mực nào đó tư tưởng được tự do bên trong một lãnh vực nào đó, nhưng nó vẫn còn trong những giới hạn của sự vận hành thuộc máy móc. Liệu bạn thấy điều đó, không chỉ bằng từ ngữ và trí năng, nhưng thực sự? Liệu bạn nhận biết được điều đó giống như bạn nghe tiếng ồn của chiếc xe lửa kia? (Xe lửa đang chạy ngang qua).

Liệu cái trí có thể làm tự do chính nó khỏi những thói quen mà nó đã nuôi dưỡng, từ những quan điểm, những đánh giá, những thái độ và những giá trị nào đó? Mà có nghĩa, liệu cái trí có thể được tự do khỏi tư tưởng? Nếu điều này không được hiểu rõ hoàn toàn, vậy thì vấn đề kế tiếp mà tôi sắp sửa trình bày, sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Hiểu rõ điều này dẫn đến câu hỏi kế tiếp, mà là điều không tránh khỏi, nếu bạn thâm nhập nó. Nếu tư tưởng là máy móc, nếu nó chắc chắn tuân phục vào tình trạng bị quy định của cái trí, vậy thì tình yêu là gì? Tình yêu là sản phẩm của tư tưởng? Tình yêu được nuôi dưỡng, được vun quén bởi tư tưởng, lệ thuộc vào tư tưởng?

Tình yêu là gì? – luôn luôn nhớ rằng sự diễn tả không là điều được diễn tả, từ ngữ không là sự việc. Liệu cái trí có thể được tự do khỏi hoạt động máy móc của tư tưởng để tìm được tình yêu là gì? Đối với hầu hết chúng ta, tình yêu được liên tưởng, hay tương đương, với tình dục. Đó là một hình thức của bị quy định. Khi bạn đang thâm nhập cái sự việc thực sự phức tạp, khó hiểu và đẹp đẽ lạ thường này, bạn phải tìm được từ ngữ ‘tình dục’ đã quy định cái trí như thế nào.

Chúng ta nói chúng ta sẽ không giết chóc – chúng ta sẽ không đi đến Việt nam hay nơi nào khác để giết chóc, nhưng chúng ta không thèm quan tâm khi giết chết thú vật. Nếu tự tay bạn phải giết chết con thú mà bạn ăn, và thấy được sự đau đớn của nó, liệu bạn sẽ ăn nổi con thú đó? Tôi nghi ngờ điều đó nhiều lắm. Nhưng bạn không thèm quan tâm khi để người bán thịt giết chết nó cho bạn ăn; trong đó có quá nhiều đạo đức giả.

Vì vậy người ta phải hỏi không chỉ tình yêu là gì, mà còn cả từ bi là gì. Trong văn hóa Thiên chúa giáo thú vật không có linh hồn, chúng được đem xuống thế gian này cho bạn hưởng thụ; đó là tình trạng bị quy định của Thiên chúa giáo. Trong những vùng đất nào đó của Ấn độ, giết chóc là sai trái, dù giết một con ruồi, một con thú hay bất kỳ con gì. Vì vậy họ chẳng giết chết con gì cả, họ đi đến sự cực đoan; lại nữa, đó là tình trạng bị quy định của họ. Và cũng có những người cổ vũ không mổ xẻ thịt sống, tuy nhiên lại mặc những bộ lông thú tuyệt vời: sự đạo đức giả như thế tiếp tục!

Sống từ bi có nghĩa gì? Không chỉ bằng từ ngữ, nhưng thực sự từ bi? Từ bi là một vấn đề của thói quen, của tư tưởng, một vấn đề thuộc sự lặp lại máy móc của ân cần, tử tế, hòa nhã, dịu dàng? Liệu cái trí mà bị trói buộc trong hoạt động của tư tưởng cùng bị quy định của nó, sự lặp lại máy móc của nó, có thể từ bi? Nó có thể nói về tình yêu, nó có thể khuyến khích sự đổi mới xã hội, hãy tử tế với những người ngoại đạo và vân vân; nhưng liệu đó là từ bi? Khi tư tưởng sai khiến, khi tư tưởng năng động, liệu có nơi chỗ nào cho từ bi? Từ bi là hành động mà không có động cơ, mà không có ích kỷ, mà không có bất kỳ ý thức của sợ hãi nào, mà không có bất kỳ ý thức của vui thú nào.

Vậy là người ta hỏi: ‘Liệu tình yêu là vui thú?’ – tình dục là vui thú, dĩ nhiên. Chúng ta nhận được vui thú trong bạo lực, chúng ta nhận được vui thú trong thành tựu, trong khẳng định, trong hung hăng. Chúng ta cũng nhận được vui thú trong là người nào đó. Và tất cả điều đó là sản phẩm của tư tưởng, sản phẩm của sự đo lường – ‘Tôi là điều kia’ và ‘Tôi sẽ là điều này’. Liệu vui thú, trong ý nghĩa mà chúng ta đang nói, liệu đó là tình yêu? Làm thế nào một cái trí mà bị trói buộc trong thói quen, trong đo lường và so sánh, có thể biết tình yêu là gì? Người ta có lẽ nói, tình yêu là điều này hay điều kia, nhưng tất cả đều là sản phẩm của tư tưởng.

Từ sự quan sát đó nảy sinh câu hỏi: chết là gì? Nó có nghĩa gì, chết? Nó phải là trải nghiệm lạ thường nhất! Nó phải hàm ý cái gì đó hoàn toàn kết thúc. Chuyển động mà đã được cố định tạo tác xung đột, đấu tranh, lao dịch, tất cả những tức giận và tuyệt vọng – tất cả đều đột ngột kết thúc. Cái người đang cố gắng trở nên nổi tiếng, mà khẳng định, bạo lực, hung tợn – hoạt động đó bị cắt đứt! Bạn đã nhận thấy làm thế nào bất kỳ điều gì mà tiếp tục thuộc tâm lý đều trở nên máy móc, lặp lại. Chỉ khi nào sự tiếp tục thuộc tâm lý kết thúc, lúc đó có cái gì đó hoàn toàn mới mẻ – bạn có thể thấy điều này trong chính bạn. Sáng tạo không là sự tiếp tục của cái gì là, của cái gì đã là, nhưng sự kết thúc của nó.

Vậy là thuộc tâm lý liệu người ta có thể chết? Bạn hiểu rõ câu hỏi của tôi? Liệu người ta có thể chết đi cái đã được biết, chết đi cái gì đã là – không phải với mục đích trở thành cái gì khác – mà là sự kết thúc của cái đã được biết và sự tự do khỏi cái đã được biết? Rốt cuộc, đó là chết là gì.

Các cơ quan thân thể sẽ chết, tự nhiên; nó đã bị lạm dụng, đã bị đối xử tàn bạo, đã bị chà đạp; nó đã nuốt trọn và ngấu nghiến mọi loại sự việc. Bạn biết bạn sống như thế nào và bạn tiếp tục theo cách đó cho đến khi nó chết. Thân thể, qua tai nạn, qua tuổi già, qua căn bệnh nào đó, qua sự căng thẳng của đấu tranh cảm xúc liên tục phía bên trong và bên ngoài, trở thành quằn quại, xấu xí, và nó chết. Có tự-thương xót trong chết này và cũng tự-thương xót cho chính người ta khi người nào khác chết. Khi người nào khác mà chúng ta thương yêu chết, liệu trong đau khổ đó không có nhiều lo lắng hay sao? Bởi vì bạn bị bỏ lại một mình, bạn phải tự-phơi bày trước mọi người, bạn không có ai để nhờ cậy, không người nào cho bạn sự an ủi. Đau khổ của bạn bị lồng khung cùng sợ hãi và tự-thương xót này, và tự nhiên trong sự hoang mang này người ta chấp nhận mọi hình thức của niềm tin.

Toàn thế giới Châu á tin tưởng sự đầu thai, được sinh lại một đời khác. Khi bạn tìm hiểu nó là gì mà sắp sửa được sinh lại trong đời sau, bạn gặp phải nhiều khó khăn. Nó là gì? Chính bạn? Bạn là gì? Nhiều từ ngữ, nhiều quan điểm, nhiều quyến luyến đến những sở hữu của bạn, đến đồ đạc của bạn, đến tình trạng bị quy định của bạn. Liệu đó là tất cả, mà bạn gọi là linh hồn, sắp sửa được sinh lại trong đời sau? Sự đầu thai hàm ý rằng điều gì bạn là hôm nay khẳng định điều gì bạn sẽ lại là trong đời sau. Vì vậy, hãy cư xử tốt lành! – không phải ngày mai, nhưng ngày hôm nay, bởi vì điều gì bạn làm ngày hôm nay sẽ đền bù cho bạn trong đời sau. Những người tin tưởng sự đầu thai không bận tâm về cách cư xử gì cả; nó chỉ là một vấn đề của niềm tin, mà không có giá trị. Hãy tạo hình hài, mới mẻ lại ngày hôm nay, không phải trong đời sau! Hãy thay đổi nó hoàn toàn ngay lúc này, thay đổi bằng đam mê vô hạn, hãy để cho cái trí lột bỏ khỏi nó mọi thứ, mọi bị quy định, mọi hiểu biết, khỏi mọi thứ nó nghĩ là ‘đúng đắn’ – hãy làm trống không nó. Vậy thì bạn sẽ biết chết có nghĩa gì; và vậy thì bạn sẽ biết tình yêu là gì. Bởi vì tình yêu không là cái gì đó của quá khứ, của tư tưởng, của văn hóa; nó không là vui thú. Một cái trí mà đã hiểu rõ toàn chuyển động của tư tưởng trở nên phẳng lặng lạ thường, tĩnh lặng tuyệt đối. Tĩnh lặng đó là sự khởi đầu của cái mới mẻ.

Người hỏi: Thưa ông, liệu tình yêu có thể có một mục tiêu?

Krishnamurti: Ai đang đưa ra câu hỏi? Tư tưởng hay tình yêu? Tình yêu không đang đưa ra câu hỏi này. Khi bạn thương yêu, bạn thương yêu! – bạn không hỏi, ‘Liệu có một mục tiêu, hay không mục tiêu, liệu nó là cá nhân, hay không- cá nhân?’ Tình yêu của chúng ta, như nó là, là một thử thách như thế; sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta là một xung đột như thế. Tình yêu của chúng ta được đặt nền tảng trên hình ảnh về tôi của bạn và hình ảnh về bạn của tôi. Hãy quan sát nó rất cẩn thận, quan sát sự liên hệ giữa hai hình ảnh tách rời này mà nói với nhau, ‘Chúng ta thương yêu’. Những hình ảnh là sản phẩm của quá khứ, của những kỷ niệm, những kỷ niệm của điều gì bạn đã nói với tôi và tôi đã nói với bạn; và sự liên hệ giữa hai hình ảnh này chắc chắn phải là một tiến trình tách rời. Đó là điều gì chúng ta gọi là liên hệ. Có liên hệ có nghĩa tiếp xúc không chỉ phần thân thể mà không thể được khi có một hình ảnh, khi có tiến trình tự-tách rời của tư tưởng, đó là ‘cái tôi’, và ‘cái bạn’. Chúng ta hỏi: ‘Tình yêu có một mục tiêu? Hay tình yêu là thiêng liêng hay dục vọng?’ – bạn theo kịp chứ? Thưa bạn, khi bạn thương yêu, bạn không cho và không nhận.

Người hỏi: Khi người ta thâm nhập đằng sau những từ ngữ ‘vẻ đẹp’ và ‘tình yêu’, tất cả những phân chia này không biến mất hay sao?

Krishnamurti: Bạn đã từng ngồi, không phải mơ mộng, nhưng rất yên lặng, hoàn toàn tỉnh táo? Trong tỉnh táo đó không hình thành từ ngữ, không chọn lựa, không kiềm hãm hay phương hướng. Khi thân thể hoàn toàn thư giãn, bạn có nhận thấy sự yên lặng hiện diện? Điều đó đòi hỏi nhiều tìm hiểu, bởi vì cái trí của chúng ta không bao giờ yên lặng nhưng huyên thuyên vô tận và vì vậy bị tách rời. Chúng ta tách rời sống thành những mảnh.

Liệu tất cả phân chia này có thể kết thúc? Vì biết rằng tư tưởng chịu trách nhiệm cho sự phân chia này, chúng ta hỏi, ‘Liệu tư tưởng có thể hoàn toàn yên lặng tuy nhiên lại phản ứng khi cần thiết, mà không bạo lực, một cách khách quan, thông minh, hợp lý – và vẫn cho phép sự yên lặng này lan tràn?’ Đó là cách duy nhất: tự tìm ra cho chính mình chất lượng của cái trí này mà không có những mảnh, mà không bị vỡ vụn như ‘cái bạn’ và ‘cái tôi’.

Người hỏi: Thưa ông, liệu giết chết một con ruồi cũng cùng mức độ như giết chết một con thú hay một con người?

Krishnamurti: Bạn sẽ bắt đầu hiểu rõ sự giết chóc từ đâu? Bạn nói bạn sẽ tham gia chiến tranh, giết chết một con người (Tôi không biết liệu bạn nói nó hay không, điều đó tùy thuộc vào bạn), nhưng bạn không thèm quan tâm đến sự phân chia phe phái của bạn và phe phái của tôi. Bạn không thèm quan tâm đến tin tưởng điều gì đó và ủng hộ điều gì bạn tin tưởng. Bạn không thèm quan tâm đến giết chết con người bằng một từ ngữ, bằng một cử chỉ – và bạn sẽ rất cẩn thận khi giết chết một con ruồi! Cách đây vài năm người nói đến một quốc gia nơi Phật giáo là một tôn giáo được chấp nhận. Nếu bạn đang là một Phật tử, nó là một nguyên tắc được chấp nhận khi không giết chóc. Hai người đến gặp người nói và hỏi, ‘Chúng tôi có một vấn đề: chúng tôi không muốn giết chóc. Chúng tôi là những Phật tử nhiệt thành, chúng tôi đã được dạy dỗ không được giết chóc; nhưng chúng tôi thích ăn trứng và chúng tôi không muốn giết trứng có trống – vì vậy chúng tôi phải làm gì?’ Bạn hiểu chứ? Nếu bên trong bạn rất rõ ràng về vấn đề giết chóc hàm ý gì – không chỉ bằng một khẩu súng, nhưng bằng một từ ngữ, bằng cử chỉ, bằng phân chia, bằng nói ‘quốc gia của tôi’, ‘quốc gia của bạn’, ‘Thượng đế của tôi’, ‘Thượng đế của bạn’, chắc chắn sẽ có đang giết chóc trong hình thức nào đó. Không nên rối rắm về việc giết chết một con ruồi và sau đó đi và ‘giết chết’ một người hàng xóm bằng một từ ngữ.

Người nói chưa bao giờ ăn thịt trong sống của ông ta, thậm chí không biết hương vị của nó ra sao, và tuy nhiên ông ta lại mang đôi giày bằng da thuộc. Người ta phải sống, và mặc dù trong quả tim của bạn bạn không muốn giết chóc bất kỳ thứ gì cả, gây tổn thương bất kỳ ai cả – và bạn thực sự có ý như thế – tuy nhiên bạn phải giết chết ‘rau’ mà bạn ăn; bởi vì nếu bạn không ăn gì cả, bạn sẽ kết thúc rất mau lẹ. Người ta phải tìm ra cho chính người ta một cách rõ ràng mà không chọn lựa, mà không thành kiến, người ta phải nhạy cảm và thông minh cao độ và sau đó để cho thông minh đó hành động – không nói, ‘Tôi sẽ không giết chết những con ruồi’, tuy nhiên lại đề cập điều gì đó rất tàn nhẫn về người chồng của người ta.

Ngày 28 tháng 7 năm 1970
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2744)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 710)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2284)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2513)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3029)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5960)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2202)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 2348)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2795)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com