Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu âu năm 1967, Paris, ngày 30 tháng 4 năm 1967

01/07/201100:59(Xem: 3702)
5. Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu âu năm 1967, Paris, ngày 30 tháng 4 năm 1967

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu âu năm 1967
Paris, ngày 30 tháng 4 năm 1967

Cái trí tôn giáo hoàn toàn khác hẳn cái trí tin tưởng tôn giáo. Cái trí tôn giáo theo tâm lý được tự do khỏi văn hóa của xã hội; nó cũng được tự do khỏi bất kỳ hình thức nào của niềm tin, khỏi bất kỳ hình thức nào của đòi hỏi để trải nghiệm hay tự mở rộng. Và xuyên suốt mọi thời đại qua niềm tin con người đã tạo ra một ý tưởng được gọi là Thượng đế. Đối với con người niềm tin trong ý tưởng được gọi là Thượng đế đã cần thiết bởi vì anh ấy tìm thấy cuộc sống là một công việc đau khổ, một công việc của những đấu tranh liên tục, xung đột, phiền muộn, với thỉnh thoảng một lóe sáng, vẻ đẹp và hân hoan.

Tin tưởng trong một khái niệm, trong một công thức, trong một ý tưởng, đã trở nên cần thiết bởi vì cuộc sống chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Những công việc đều đặn hàng ngày, đi đến văn phòng, gia đình, ái ân, cô độc, gánh nặng, xung đột của tự diễn tả, tất cả những điều này chẳng có ý nghĩa bao nhiêu – và luôn luôn có cái chết tại khúc cuối của tất cả nó. Vì vậy con người phải tin tưởng như một nhu cầu khẩn cấp.

Tùy theo cảm nghĩ chung, tùy theo năng lực thuộc trí năng của những người sáng chế ra những khái niệm và những công thức này, ý tưởng về Thượng đế, đấng cứu rỗi, vị Thầy, được hình thành, và qua đó con người luôn luôn luôn cố gắng đạt được một trạng thái hạnh phúc, chân lý, sự thật về một trạng thái của cái trí không bao giờ bị náo động. Vì vậy anh ấy đã đặt ra một đích đến và làm việc hướng về nó. Những tác giả của những ý tưởng và những khái niệm này đã đặt ra hoặc một hệ thống hoặc một con đường mà phải được tuân theo với mục đích đạt được sự thật tối thượng đó. Và con người đã hành hạ cái trí của anh ấy – qua kỷ luật, qua kiểm soát, qua tự chối từ, qua thực hành kềm chế ăn uống, rượu chè, ái ân, qua khổ hạnh – sáng chế ra những phương pháp khác nhau để tiếp cận sự thật đó. Ở Châu á có nhiều phương pháp dẫn đến sự thật đó, (ít nhất chúng cũng đã được nói như thế) tùy thuộc vào tính khí và những hoàn cảnh, và những con đường đó được tuân theo để đạt được sự thật mà không thể đo lường được bởi con người, bởi tư tưởng. Ở phương Tây chỉ có một đấng cứu rỗi; qua Ngài, một mình, sẽ tìm được cái gì đó tối thượng. Tất cả những hệ thống của phương Đông hay phương Tây hàm ý sự kiểm soát liên tục, sự biến dạng liên tục của cái trí để tuân phục một khuôn mẫu được đặt ra bởi vị giáo sĩ, bởi những quyển sách thiêng liêng, bởi tất cả những sự việc bất hạnh kia mà thuộc về chính bản chất của bạo lực. Bạo lực của họ không chỉ trong việc khước từ ham muốn nhục dục của thân thể, mà còn khước từ mọi hình thức của ham muốn, mọi hình thức của vẻ đẹp, và trong việc kiểm soát và tuân phục một khuôn mẫu nào đó đã được đặt ra.

Họ đã nói về một loại phép lạ nào đó – nhưng những phép lạ là việc dễ dàng nhất để đạt đến, dù ở phương Tây hay phương Đông. Và những người đạt được những phép lạ này được phong chức thành những vị thánh; họ đã thiết lập được kỷ lục khi họ hoàn toàn tuân phục đến một khuôn mẫu được diễn tả trong đời sống hàng ngày của họ. Họ chẳng có bao nhiêu khiêm tốn, vì khiêm tốn không thể được thể hiện phía bên ngoài – mặc vào một cái khố hay một cái áo choàng vải thô không thể hiện khiêm tốn gì cả. Giống như bất kỳ đức hạnh nào, khiêm tốn là từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc; nó không thể được tính toán, được thiết lập, và được đặt ra như một khuôn mẫu để được tuân theo. Nhưng con người, qua những thời đại, đã làm việc này; người khởi xướng, người sáng chế mà đã trải nghiệm cái gì đó gọi là sự thật, đã đặt ra một hệ thống, một phương pháp, một phương cách – và phần còn lại của thế giới đã tuân theo. Rồi thì những đệ tử, qua truyền bá ma mãnh, qua những phương cách ma mãnh để quyến rũ cái trí con người, thiết lập một nhà thờ và những giáo điều, những nghi lễ. Và con người bị trói buộc trong đó – rằng bất kỳ con người nào ao ước tìm được cái đó mà cái trí luôn luôn đang tìm kiếm phải trải qua loại xuyên tạc sự thật, loại đè nén, loại hành hạ nào đó, để đến được vẻ đẹp tối thượng đó.

Và thế là, theo trí năng, người ta thấy sự vô lý của tất cả việc này; theo trí năng, theo từ ngữ, người ta thấy được sự vô lý khi có bất kỳ niềm tin nào; người ta thấy được sự ngu xuẩn của bất kỳ học thuyết nào. Theo trí năng cái trí có lẽ nói rằng điều đó vô lý và gạt bỏ nó, nhưng bên trong, sâu thẳm, luôn luôn có sự tìm kiếm vượt khỏi những nghi lễ, vượt khỏi những giáo điều, những niềm tin, vượt khỏi những Đấng cứu rỗi, vượt khỏi mọi hệ thống mà rõ ràng là sự sáng chế của con người. Người ta thấy rằng những Đấng cứu rỗi của anh ấy, những vị Thượng đế của anh ấy, là những sáng chế, và người ta có thể gạt bỏ những điều này tương đối dễ dàng – và những con người hiện đại đang làm như vậy. (Tôi không biết tại sao người ta sử dụng từ ngữ hiện đại – con người đã tồn tại như anh ấy là hiện nay từ bao nhiêu thế hệ qua bao nhiêu thế hệ. Nhưng cảm nghĩ chung của ngày nay là anh ấy đang phủ nhận hoàn toàn uy quyền của vị giáo sĩ, niềm tin, và giáo điều, tại ngay gốc rễ của ý tưởng; đối với anh ấy Thượng đế đã chết rồi, và ngài chết khi còn rất trẻ.) Và vì không còn Thượng đế hay không còn niềm tin, không còn ý tưởng nào khác hơn là tận hưởng vật chất thực sự, và thỏa mãn vật chất, và sự phát triển xã hội: con người sống cho hiện tại, phủ nhận toàn thể ý tưởng về tôn giáo.

Người ta khởi đầu bằng cách phủ nhận những vị Thượng đế, ở bên ngoài, với những vị giáo sĩ của họ – thuộc bất kỳ tôn giáo có tổ chức nào – người ta phải hoàn toàn phủ nhận những sự việc này bởi vì chúng không có giá trị gì cả. Chúng đã nuôi dưỡng chiến tranh, đã tách rời con người; dù rằng trong Do thái giáo, Ấn độ giáo, Thiên chúa giáo, hay Hồi giáo – chúng đã hủy diệt con người, chúng đã tách rời con người, chúng đã là một trong những nguyên nhân chính của chiến tranh, của bạo lực. Khi thấy tất cả việc này, người ta phủ nhận nó, người ta gạt nó đi như một cái gì đó ngây ngô và không chín chắn. Theo trí năng người ta có thể thực hiện việc này rất dễ dàng. Đang sống trong thế giới này, đang quan sát những phương pháp trục lợi của những nhà thờ, những đền chùa, ai có thể làm gì đây ngoại trừ phủ nhận? Nhưng làm tự do khỏi niềm tin và khỏi tìm kiếm tại mức độ tâm lý còn khó khăn hơn nhiều. Tất cả chúng ta đều muốn tìm ra cái gì đó mà không bị tác động bởi con người, không bị lay động bởi tư tưởng ma mãnh, cái gì đó mà không bị vấy bẩn bởi bất kỳ tổ chức thuộc văn hóa, thuộc trí năng, hay thuộc xã hội, cái gì đó mà không bị hủy diệt bởi lý lẽ. Tất cả chúng ta trong sâu thẳm đều tìm kiếm nó, vì cuộc sống này là một lao dịch, một trận chiến, một đau khổ, một lề thói. Người ta có lẽ có khả năng bày tỏ chính mình bằng từ ngữ, hay trong hội họa, trong điêu khắc, trong âm nhạc, nhưng thậm chí như thế việc đó cũng trở nên khá trống rỗng. Cuộc sống như nó là bây giờ rất trống rỗng và chúng ta cố gắng lấp đầy bằng âm nhạc và văn chương, bằng vui chơi, bằng giải trí, bằng những ý tưởng, bằng hiểu biết; nhưng khi người ta tìm hiểu nó sâu xa và rộng rãi hơn một tí, người ta phát giác rằng người ta quá trống rỗng, toàn hiện hữu này là nhỏ nhen – mặc dù người ta có lẽ có những tước hiệu, những của cải, những năng lực.

Cuộc sống là trống rỗng, và nhận ra việc đó chúng ta muốn lấp đầy nó. Chúng ta đang tìm kiếm, đang tìm kiếm những phương pháp và những phương tiện, không chỉ lấp đầy sự trống rỗng này mà còn tìm ra cái gì đó mà không thể đo lường được bởi con người. Một vài người có lẽ dùng thuốc men – LSD hay một trong vô số loại thuốc kích thích nào đó mà trao tặng “sự mở rộng của ý thức” – và trong trạng thái đó người ta có được hay trải nghiệm những kết quả nào đó, bởi vì một nhạy cảm nào đó đã được tác động vào bộ não. Nhưng đây là những kết quả hóa học. Chúng là những kết quả của những tác nhân gián tiếp từ bên ngoài. Người ta tràn trề hy vọng khi dùng thuốc kích thích, rồi thì ở bên trong người ta có những trải nghiệm này; bởi vì người ta có những niềm tin nào đó, thế là người ta trải nghiệm tùy theo những niềm tin đó; những tiến hành đều giống hệt nhau. Cả hai đều sản xuất một trải nghiệm, tuy nhiên con người lại bị lạc lõng trong niềm tin – trong thuốc men của chính niềm tin, hay trong niềm tin của thuốc men hóa học. Rõ ràng anh ấy đã bị trói buộc trong những tư tưởng của anh ấy. Và qua tất cả việc đó người ta thấy và gạt bỏ nó; đó là, người ta hoàn toàn được tự do khỏi tất cả mọi niềm tin. Điều đó không có nghĩa người ta phải theo thuyết bất khả tri, người ta phải trở nên ngờ vực hay cay đắng. Trái lại, bạn thấy bản chất của niềm tin và tại sao niềm tin trở nên quan trọng cực kỳ; đó là bởi vì chúng ta sợ hãi – theo căn bản đó là lý do. Bởi vì sợ hãi – không chỉ trong sự giày xéo hàng ngày của cuộc sống, sợ hãi của không trở thành, của không đạt được phần tinh thần, không có quyền lực, chức vụ, thanh danh, nổi tiếng – tất cả việc này gây ra nhiều sợ hãi và người ta chịu đựng sợ hãi đó, nhưng cũng bởi vì sợ hãi bên trong này nên niềm tin đã trở thành quá quan trọng. Bị đối diện với sự trống rỗng hoàn toàn của cuộc sống, người ta vẫn bám víu vào niềm tin; mặc dù người ta có thể vất bỏ những uy quyền của niềm tin ở bên ngoài – niềm tin được sáng chế bởi những vị giáo sĩ khắp thế giới – người ta tạo cho chính mình niềm tin riêng của người ta với mục đích tìm ra và bắt gặp được sự việc lạ thường đó mà con người đã và đang tìm kiếm, đang tìm kiếm, đang tìm kiếm.

Và thế là người ta tìm kiếm. Bản chất, cấu trúc, của tìm kiếm là rất rõ ràng. Tại sao người ta lại tìm kiếm nó? Cốt lõi là tánh tư lợi – tánh tư lợi muốn được khai sáng, nhưng nó vẫn còn là tánh tư lợi. Vì vậy người ta nói rằng,: “Cuộc sống thật là mệt mỏi, trống rỗng, đờ đẫn, ngu xuẩn, phải có cái gì đó khác hơn nữa; tôi sẽ đến đền chùa đó, đến nhà thờ đó, đến … đó.” Và rồi người ta vất bỏ tất cả việc đó, và người ta bắt đầu tìm kiếm sâu thẳm hơn. Nhưng tìm kiếm, trong bất kỳ hình thức nào, trở thành một ngáng trở tâm lý. Tôi nghĩ điều đó phải được thấy rất đơn giản và rõ ràng. Theo khách quan người ta có lẽ gạt bỏ uy quyền của bất kỳ tác nhân bên ngoài nào mà khẳng định dẫn đế sự thật tối thượng, và người ta thực hiện việc đó. Nhưng gạt bỏ bởi vì người ta hiểu rõ bản chất của tìm kiếm, gạt bỏ mọi tìm kiếm, là cần thiết; bởi vì, người ta hỏi,: “Người ta đang tìm kiếm cái gì?” Nếu bạn tìm hiểu chúng ta đang tìm kiếm cái gì, chúng ta muốn cái gì, nó không hàm ý tìm kiếm một cái gì đó mà bạn đã biết rồi, mà bạn đã bị mất mát, và bạn cố gắng nắm bắt nó hay sao? Đó là một trong những hàm ý của tìm kiếm. Trong tìm kiếm, có liên hệ đến qui trình của công nhận – đó là ví dụ như, khi bạn tìm được nó, dù nó là bất kỳ cái gì, bạn phải có thể công nhận nó – nếu không tìm kiếm không có ý nghĩa gì cả. Làm ơn, hãy theo sát điều này. Người ta tìm kiếm một cái gì đó với hy vọng tìm được, và khi tìm được nó, công nhận nó; nhưng công nhận là hành động của ký ức; vì vậy có hàm ý rằng bạn đã biết nó rồi, rằng bạn đã thoáng thấy nó rồi. Hay là, vì bạn bị quy định quá nặng nề bởi sự truyền bá rộng rãi của tất cả những tôn giáo có tổ chức, bạn tự nhớ lại một trạng thái. Vì vậy khi bạn đang tìm kiếm, bạn đã có sẵn một ý tưởng, một ý tưởng về cái gì bạn đang tìm kiếm, và khi bạn tìm được nó, nó có nghĩa rằng bạn biết nó rồi, nếu không bạn không thể cảm nhận nó. Vì lý do này nó không là sự thật gì cả.

Vì vậy người ta cần thấy trạng thái đó của cái trí mà thực sự được tự do khỏi tất cả tìm kiếm, khỏi tất cả niềm tin – mà không trở nên nghi ngờ, mà không làm trì trệ. Dù chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng nếu chúng ta không tìm kiếm, gắng sức, đấu tranh, lục soát – vô tận – chúng ta sẽ tàn tạ đi. Và tôi không biết tại sao chúng ta không tàn tạ đi – như thể là chúng ta không đang tàn tạ bây giờ vậy. Người ta tàn tạ đi; khi người ta chết, khi người ta già nua, những cơ quan vật chất kết thúc. Cuộc sống của người ta là tiến hành của tàn tạ, bởi vì trong nó, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta mô phỏng, bắt chước, tuân theo, vâng lời, qui phục – mà là những hình thức của tàn tạ. Vì vậy một cái trí mà không còn bị trói buộc trong bất kỳ hình thức nào của niềm tin, không còn bị trói buộc trong niềm tin tự tạo, không đang tìm kiếm bất kỳ điều gì – mặc dù điều đó có lẽ khá khẩn cấp – sinh động cực kỳ. Sự thật là một cái gì đó chỉ từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Giống như đạo đức, giống như vẻ đẹp, nó là cái gì đó không tiếp tục. Cái có tiếp tục là sản phẩm của thời gian và thời gian là tư tưởng.

Khi thấy điều gì con người đã làm cho chính anh ấy, anh ấy đã hành hạ anh ấy, đã khiến anh ấy trở thành tàn bạo như thế nào – quá kiêu hãnh trong chủ nghĩa quốc gia, bị mất hút trong một dạng giải trí nào đó, dù nó là văn chương, hay cái này hay cái kia – thấy được tất cả những khuôn mẫu này của cuộc sống anh ấy, người ta hỏi chính mình, người ta phải trải qua tất cả việc này hay sao? Bạn hiểu rõ câu hỏi không? Một con người phải trải qua tất cả tiến hành này, từng bước một – gạt bỏ niềm tin (nếu bạn tỉnh thức), gạt bỏ bất kỳ hình thức tìm kiếm nào, gạt bỏ sự hành hạ của cái trí, gạt bỏ sự buông thả? Khi thấy việc gì con người đã gây ra cho chính anh ấy với mục đích tìm được điều gì anh ấy gọi là sự thật, người ta hỏi – liệu có một cách, hay liệu có một trạng thái nổ tung mà gạt bỏ tất cả trong một hơi thở hay không? Bởi vì thời gian không là phương cách.

Tìm kiếm hàm ý thời gian – ví dụ như mười năm hay nhiều hơn, hay cuối cùng tìm được qua sự đầu thai như toàn thể Châu á tin tưởng. Tất cả việc này ngụ ý thời gian – quẳng đi từ từ những xung đột này, những vấn đề này, trở nên khôn ngoan hơn, ma mãnh hơn, được hiểu rõ dần dần – từ từ tháo gỡ tình trạng bị quy định cho cái trí. Thời gian hàm ý công việc đó. Rõ ràng thời gian không là phương cách, cũng không là niềm tin, cũng không là những kỷ luật giả tạo được áp đặt bởi một hệ thống, bởi một vị đạo sư, bởi một vị thầy, bởi một triết gia, bởi một giáo sĩ – tất cả điều đó quá ngây ngô. Vì vậy liệu có thể không trải qua tất cả việc này và tuy nhiên lại bất ngờ bắt gặp được sự việc lạ lùng đó hay không? – bởi vì sự việc đó không thể được mời mọc. Làm ơn hãy hiểu rõ sự kiện rất đơn giản này; nó không thể được mời mọc, nó không thể được tìm kiếm; bởi vì cái trí quá ngu xuẩn, quá nhỏ nhen, những cảm xúc của chúng ta quá tầm thường, những cách sống của chúng ta quá rối loạn cho cái vĩ đại đó, cho cái gì đó bao la được mời mọc vào ngôi nhà nhỏ xíu đó, vào một căn phòng tầm thường mặc dù ngăn nắp. Người ta không thể mời mọc nó. Muốn mời mọc nó, bạn phải biết nó, và bạn không thể biết nó (không đặt thành vấn đề ai nói như thế) bởi vì khoảnh khắc bạn nói rằng “Tôi biết”, bạn không biết. Khoảnh khắc bạn nói rằng bạn đã tìm được nó, bạn đã không tìm được nó. Nếu bạn nói rằng bạn đã trải nghiệm nó, bạn chưa bao giờ trải nghiệm nó. Đó là tất cả những phương cách ma mãnh trục lợi một người khác – người khác là người bạn của bạn hay kẻ thù của bạn.

Khi thấy tất cả việc này – không phải từ sách báo, nhưng trong cuộc sống hàng ngày, trong những hoạt động hàng ngày của bạn, khi bạn nhặt lên một cây bút, khi bạn nói chuyện, khi bạn lái xe ra ngoài hay khi bạn đang dạo bộ một mình trong cánh rừng – thấy tất cả việc này trong chớp mắt – bạn không phải đọc những quyển sách để tìm ra nó – thấy tất cả việc này trong một hơi thở, trong một thoáng nhìn, bạn có thể hiểu rõ toàn sự việc. Và bạn chỉ có thể thực sự hiểu rõ điều này như một tổng thể khi bạn hiểu rõ chính bạn, hiểu rõ chính bạn như bạn là, rất đơn giản, như kết quả của tổng thể của nhân loại, dù bạn là một người Ấn độ giáo, một người Hồi giáo, một người Thiên chúa giáo, hay bạn là bất kỳ ai. Nó kìa. Khi bạn hiểu rõ chính bạn như bạn là, vậy thì bạn hiểu rõ toàn cấu trúc của sự nỗ lực của con người, những dối gạt của anh ấy, tàn bạo của anh ấy, tìm kiếm của anh ấy.
Và người ta hỏi liệu có thể bất ngờ bắt gặp được sự việc này mà không cần mời mọc, không cần mong đợi, không cần tìm kiếm, không cần khám phá, cho cái đó đơn giản được hiện hữu, cho nó đơn giản được xảy ra. Giống như cơn gió mát mẻ ùa vào khi bạn để cửa sổ mở toang – bạn không thể mời mọc cơn gió mát mẻ đó, nhưng bạn phải để cửa sổ mở toang. Điều này không có nghĩa rằng chúng ta ở trong trạng thái mong đợi – đó là một hình thức khác của dối gạt; nó không có nghĩa rằng người ta phải mở toang chính mình để đón tiếp – lại nữa điều đó là một phương cách khác của tư tưởng.

Nhưng nếu người ta hỏi chính mình mà không tìm kiếm, không tin tưởng, vậy thì trong chính đang hỏi đó là đang tìm được. Nhưng chúng ta không hỏi. Chúng ta muốn được chỉ bảo cho biết, chúng ta muốn có mọi thứ được chứng thực, được khẳng định; theo căn bản, sâu thẳm, chúng ta không bao giờ được tự do khỏi mọi hình thức của uy quyền bên ngoài hay bên trong. Đó là một trong những sự việc kỳ lạ nhất trong cấu trúc tinh thần của chúng ta; tất cả chúng ta đều muốn được chỉ bảo cho biết; chúng ta là kết quả của điều gì chúng ta đã được chỉ bảo. Điều gì chúng ta đã được chỉ bảo là sự truyền bá của hàng ngàn năm. Có uy quyền của quyển sách cổ xưa, của vị lãnh đạo hiện nay, hay của người nói. Nhưng nếu thực sự sâu thẳm người ta phủ nhận mọi uy quyền, nó có nghĩa rằng người ta không có những sợ hãi. Không có sợ hãi là nhìn vào sợ hãi, nhưng giống như vui thú, chúng ta không bao giờ tiếp xúc trực tiếp cùng sợ hãi. Chúng ta không bao giờ tiếp xúc cùng sợ hãi như bạn tiếp xúc trực tiếp khi bạn sờ một cái cửa, một bàn tay, một khuôn mặt, một cái cây; chúng ta chỉ tiếp xúc trực tiếp cùng sợ hãi qua hình ảnh của sợ hãi mà chúng ta đã tạo ra cho chính chúng ta. Chúng ta chỉ biết vui thú qua những vui thú từng phần. Chúng ta không bao giờ tiếp xúc trực tiếp cùng cái gì cả. Tôi không biết liệu bạn đã theo dõi khi bạn sờ một cái cây hay không – như bạn làm khi bạn đang dạo bộ trong cánh rừng – liệu bạn thực sự đang sờ một cái cây? Hay có một bức màn giữa bạn và cái cây, mặc dù bạn đang sờ nó? Trong cùng cách như vậy, với mục đích tiếp xúc trực tiếp cùng sợ hãi phải không còn hình ảnh, mà thực sự có nghĩa rằng đang không có ký ức của sợ hãi ngày hôm qua. Vậy thì chỉ đến lúc đó bạn mới có thể tiếp xúc thực sự cùng sợ hãi thực sự của ngày hôm nay. Vậy thì, nếu không có ký ức của sợ hãi ngày hôm qua, bạn có năng lượng để gặp gỡ sự sợ hãi tức khắc, và bạn phải có một năng lượng lạ thường để gặp gỡ hiện tại. Chúng ta lãng phí năng lượng đầy sinh khí này – tất cả chúng ta đều như vậy – qua hình ảnh này, qua công thức này, qua uy quyền này; và nó cũng như vậy trong tìm kiếm vui thú. Sự theo đuổi vui thú rất quan trọng với chúng ta. Vui thú vĩ đại nhất trong tất cả là Thượng đế – giả sử là có – và đó có lẽ là sự việc kinh hãi nhất mà bạn có thể chưa từng biết – nhưng chúng ta đã tưởng tượng nó, cái tối thượng, vì vậy chúng ta không bao giờ bất ngờ bắt gặp nó. Lại nữa, chính khi bạn đã công nhận một vui thú như vui thú của ngày hôm qua; bạn thực sự không bao giờ tiếp xúc trực tiếp cùng trải nghiệm thực sự, một trạng thái thực sự. Luôn luôn là ký ức của ngày hôm qua bao bọc và che giấu hiện tại.

Vì vậy, khi thấy tất cả việc này, liệu có thể không làm một việc gì, không cố gắng, không tìm kiếm, hoàn toàn phủ nhận, hoàn toàn trống không, không có bất kỳ hành động nào? Bởi vì mọi hành động là kết quả của ý tưởng hình thành. Nếu bạn đã quan sát chính bạn đang hành động, bạn sẽ thấy rằng nó xảy ra bởi vì một ý tưởng từ trước, một khái niệm từ trước, một kỷ niệm từ trước. Có một phân chia giữa ý tưởng và hành động, một khoảng ngừng dù chớp nhoáng, dù chốc lát chừng nào chăng nữa, và bởi vì phân chia đó có xung đột. Liệu cái trí có thể hoàn toàn tĩnh lặng, không có suy nghĩ cũng không có sợ hãi, và vậy là sinh động, mãnh liệt lạ thường?

Bạn biết từ ngữ đam mê; từ ngữ đó thường được định nghĩa là đau khổ; những người Thiên chúa giáo đã sử dụng từ ngữ đó để diễn đạt hóa những hình thức nào đó của đau khổ. Chúng ta không đang sử dụng từ ngữ đam mê theo ý nghĩa đó. Trong trạng thái hoàn toàn của phủ nhận là hình thức tột đỉnh của đam mê. Đam mê đó hàm ý tự phủ nhận tổng thể cái tôi. Muốn tự phủ nhận tổng thể cái tôi đó phải có mộc mạc vô cùng, mộc mạc mà không là sự khắc khổ của vị giáo sĩ đang làm khổ sở con người, của những vị thánh mà đã hành hạ chính họ, đã trở nên khổ hạnh bởi vì họ đã đối xử hung bạo với những cái trí của họ. Thật ra mộc mạc là tánh đơn giản lạ thường, không phải trong quần áo, không phải trong thức ăn, nhưng bên trong. Mộc mạc này, đam mê này, là hình thức tột đỉnh của tự phủ nhận tổng thể cái tôi. Và rồi có lẽ, nếu bạn may mắn – không có may mắn ở đó, cái đó đến không mời mọc – lúc đó cái trí không thể nỗ lực. Vậy thì bạn làm bất kỳ điều gì bạn muốn, bởi vì có tình yêu.

Nếu không có cái trí tôn giáo này, một xã hội thực sự không thể nào được sáng tạo. Chúng ta phải sáng tạo một xã hội mới mẻ mà trong đó hoạt động khủng khiếp của tánh tư lợi này không còn vị trí. Chỉ một cái trí tôn giáo như thế mới có thể có hòa bình, bên trong cũng như bên ngoài
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2761)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 711)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2296)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2527)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3048)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5986)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2351)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2802)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 8159)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com