Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 1

05/04/201110:36(Xem: 4552)
Phần 1

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỰ THẬT
Lời dịch: Ông Không
Nguyên tác: ON TRUTH J. Krishnamurti

1

Poona, ngày 3 tháng 10 năm 1978

N

gười hỏi: Ông nói, ký ức là trải nghiệm không trọn vẹn. Tôi có một ký ức và một ấn tượng rõ rệt về những nói chuyện trước của ông. Đây là một trải nghiệm không trọn vẹn trong ý nghĩa gì? Ông làm ơn giải thích kỹ càng điều này.

Krishnamurti: Chúng ta có ý gì qua từ ngữ ký ức? Bạn đi đến trường, và nhét đầy những dữ kiện, sự hiểu biết kỹ thuật. Nếu bạn là một kỹ sư, bạn sử dụng ký ức của sự hiểu biết kỹ thuật để xây dựng một chiếc cầu. Đó là ký ức thuộc thực tế. Cũng có ký ức thuộc tâm lý. Bạn đã nói với tôi điều gì đó, dễ chịu hay khó chịu, và tôi giữ lại nó; và lần tới khi tôi gặp bạn, tôi gặp bạn bằng ký ức đó, ký ức của điều gì bạn đã nói hay đã không nói.

Vậy là có hai khía cạnh đối với ký ức, khía cạnh tâm lý và khía cạnh thực tế. Chúng có liên quan lẫn nhau, và vì vậy không rõ ràng. Chúng ta biết rằng ký ức thực tế là cần thiết như một phương tiện của kiếm sống. Nhưng liệu ký ức tâm lý là cần thiết? Và nhân tố nào duy trì ký ức tâm lý này? Điều gì làm người ta nhớ lại sự lăng nhục cũng như sự nịnh nọt? Tại sao người ta giữ lại những kỷ niệm nào đó và xua đuổi những kỷ niệm khác? Chắc chắn, người ta giữ lại những kỷ niệm dễ chịu và xua đuổi những kỷ niệm khó chịu. Nếu bạn quan sát, bạn sẽ thấy rằng những kỷ niệm đau khổ sẽ dễ dàng được quên lãng mau lẹ hơn những kỷ niệm vui vẻ. Và cái trí là ký ức, tại bất kỳ mức độ nào, bằng bất kỳ cái tên nào bạn gọi nó; cái trí là sản phẩm của quá khứ, nó được thành lập trên quá khứ, mà là ký ức, một tình trạng bị quy định.

Bây giờ, cùng ký ức đó chúng ta gặp gỡ sống, chúng ta gặp gỡ một thách thức mới mẻ. Thách thức luôn luôn mới mẻ, và phản ứng của chúng ta luôn luôn cũ kỹ, bởi vì nó là kết quả của quá khứ. Vậy là, trải nghiệm không-ký ức là một trạng thái và trải nghiệm có-ký ức là một trạng thái khác. Đó là, có một thách thức, mà luôn luôn mới mẻ. Tôi gặp gỡ nó bằng một phản ứng, bằng sự quy định của cái cũ kỹ. Vậy là điều gì xảy ra? Tôi hấp thụ cái mới mẻ, tôi không hiểu rõ nó; và đang trải nghiệm về cái mới mẻ bị quy định bởi quá khứ. Thế là, có sự hiểu rõ một phần về cái mới mẻ, không bao giờ có sự hiểu rõ trọn vẹn. Chỉ khi nào có sự hiểu rõ trọn vẹn về bất kỳ thứ gì, người ta mới không để lại một vết sẹo của ký ức.

Khi có một thách thức, mà luôn luôn mới mẻ, bạn gặp gỡ nó bằng một phản ứng của quá khứ. Phản ứng cũ kỹ quy định cái mới mẻ, và thế là gây biến dạng nó, cho nó một thành kiến. Vì vậy, không có sự hiểu rõ trọn vẹn về cái mới mẻ; vì vậy cái mới mẻ bị hấp thụ vào cái cũ kỹ, và thế là củng cố cái cũ kỹ. Dường như điều này có lẽ trừu tượng, nhưng nó không khó hiểu lắm nếu bạn thâm nhập một cách cặn kẽ và kỹ càng. Tại thời điểm hiện nay, tình huống trong thế giới đòi hỏi một tiếp cận mới mẻ, một cách nhìn mới mẻ để giải quyết vấn đề của thế giới, mà luôn luôn mới mẻ. Chúng ta không thể tiếp cận nó bởi vì chúng ta tiếp cận nó bằng những cái trí bị quy định của chúng ta, bằng những thành kiến thuộc tôn giáo, gia đình, địa phương, và quốc gia. Đó là, những trải nghiệm thuộc quá khứ của chúng ta đang hành động như một rào cản đối với sự hiểu rõ về thách thức mới mẻ, thế là chúng ta đang tiếp tục vun đắp và củng cố ký ức và, thế là, không bao giờ hiểu rõ cái mới mẻ; chúng ta không bao giờ hiểu rõ thách thức một cách trọn vẹn. Chỉ khi nào người ta có thể gặp gỡ thách thức một cách mới mẻ, trong sáng, không-quá khứ, lúc đó nó mới sản sinh hoa quả của nó, sự phong phú của nó.

Người hỏi nói, ‘Tôi có một kỷ niệm và một ấn tượng sống động của những nói chuyện trước của ông. Trong ý nghĩa nào đây là một trải nghiệm không-trọn vẹn?’ Chắc chắn, nó là một trải nghiệm không-trọn vẹn nếu nó chỉ là một ấn tượng, một kỷ niệm. Nếu bạn hiểu rõ điều gì đã được nói, thấy sự thật của nó, sự thật đó không là một kỷ niệm. Sự thật không là một kỷ niệm, bởi vì sự thật luôn luôn mới mẻ, liên tục đang tự-thay đổi chính nó. Bạn có một kỷ niệm của một nói chuyện trước. Tại sao, bởi vì bạn đang sử dụng nói chuyện trước như một hướng dẫn, bạn không hiểu rõ nó trọn vẹn. Bạn muốn thâm nhập vào nó, và không ý thức hay có ý thức, nó đang được nuôi dưỡng. Nhưng nếu bạn hiểu rõ cái gì đó một cách trọn vẹn, đó là, thấy sự thật của cái gì đó một cách tổng thể, bạn sẽ phát giác rằng không có kỷ niệm gì cả.

Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức. Chúng ta có ý gì qua điều đó? Tại sao chúng ta bám vào ký ức? Tôi không hiểu liệu bạn đã nhận thấy điều đó, khi bạn lớn lên, bạn hướng về quá khứ, về những hân hoan của nó, những đau khổ của nó, những vui thú của nó; và nếu bạn còn trẻ, bạn hướng đến tương lai. Tại sao chúng ta đang làm điều này? Tại sao ký ức đã trở thành quan trọng như thế? Bởi vì lý do rõ ràng và đơn giản rằng chúng ta không biết làm thế nào để sống một cách tổng thể, trọn vẹn trong hiện tại. Chúng ta đang sử dụng hiện tại như phương tiện dẫn đến tương lai, và vì vậy hiện tại không quan trọng. Chúng ta không thể sống trong hiện tại bởi vì chúng ta đang sử dụng hiện tại như một đoạn đường dẫn đến tương lai. Bởi vì tôi sắp sửa trở thành cái gì đó, không bao giờ có một hiểu rõ trọn vẹn về chính tôi, và hiểu rõ về chính tôi – chính xác điều gì tôi là ngay lúc này – không cần đến sự vun đắp của ký ức. Ngược lại, ký ức là một cản trở đối với sự hiểu rõ cái gì là.

Tôi không hiểu liệu bạn đã nhận thấy rằng một suy nghĩ mới mẻ, một cảm giác mới mẻ, hiện diện chỉ khi nào cái trí không bị trói buộc trong mạng lưới của ký ức. Có một khoảng ngừng giữa hai suy nghĩ, giữa hai kỷ niệm, và khi khoảng ngừng đó có thể được duy trì, vậy thì từ khoảng ngừng đó có một trạng thái mới mẻ của sự hiện diện mà không còn là ký ức. Chúng ta có những kỷ niệm, và chúng ta vun đắp ký ức, như một phương tiện của sự tiếp tục. Đó là, ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’ trở thành rất quan trọng chừng nào sự vun đắp của ký ức còn tồn tại; và bởi vì hầu hết chúng ta đều được tạo thành từ ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, ký ức đảm nhiệm một vai trò quan trọng trong những sống của chúng ta. Nếu bạn không có ký ức, tài sản của bạn, gia đình của bạn, những ý tưởng của bạn, sẽ không quan trọng như thế; thế là để tạo sức mạnh cho ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, bạn vun đắp ký ức. Nhưng nếu bạn nhìn ngắm, bạn sẽ thấy rằng có một khoảng ngừng giữa hai suy nghĩ, giữa hai cảm xúc. Trong khoảng ngừng đó, mà không là sản phẩm của ký ức, có một tự do lạ thường khỏi ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, và khoảng ngừng đó là không-thời gian.

Chúng ta hãy theo dõi vấn đề một cách khác hẳn. Chắc chắn, ký ức là thời gian, đúng chứ? Đó là, ký ức tạo ra ngày hôm qua, ngày hôm nay và ngày mai. Ký ức của ngày hôm qua quy định ngày hôm nay và vì vậy định hình ngày mai. Đó là quá khứ qua hiện tại tạo ra tương lai. Có một tiến trình thuộc thời gian đang xảy ra, mà là ý muốn để trở thành. Ký ức là thời gian, và qua thời gian chúng ta hy vọng đạt được một kết quả. Hôm nay tôi là một thư ký, và được trao cho thời gian và cơ hội, tôi sẽ trở thành một giám đốc hay người chủ. Vì vậy, tôi phải có thời gian; và bằng tinh thần như thế chúng ta nói, ‘Tôi sẽ đạt được sự thật, tôi sẽ gặp được Thượng đế’. Thế là, tôi phải có thời gian để thực hiện, mà có nghĩa tôi phải vun đắp ký ức, củng cố ký ức bằng luyện tập, bằng kỷ luật, để là cái gì đó, để đạt được, để kiếm được, mà có nghĩa sự tiếp tục trong thời gian. Thế là, qua thời gian chúng ta hy vọng đạt được cái không-thời gian, qua thời gian chúng ta hy vọng kiếm được cái vĩnh hằng. Bạn có thể làm điều đó? Bạn có thể trói buộc cái vĩnh hằng trong mạng lưới của thời gian, qua ký ức, mà thuộc thời gian?

Cái không-thời gian có thể hiện diện chỉ khi nào ký ức, mà là ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, không-hiện diện. Nếu bạn thấy sự thật của điều đó – rằng qua thời gian cái không-thời gian không thể được hiểu rõ hay được thâu nhận – vậy là chúng ta thâm nhập vấn đề của ký ức. Ký ức của những sự việc thuộc kỹ thuật là cần thiết; nhưng ký ức thuộc tâm lý mà duy trì cái ngã, ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, mà cho sự nhận dạng và sự tiếp tục, hoàn toàn hủy diệt sự sống và sự thật. Khi người ta thấy sự thật của điều đó, điều giả dối rơi rụng; thế là, không còn sự ghi nhớ thuộc tâm lý của trải nghiệm ngày hôm qua.

Bạn thấy một hoàng hôn đẹp, một cái cây dễ thương trong một cánh đồng, và lần đầu tiên khi bạn nhìn nó, bạn thưởng thức nó một cách tổng thể, trọn vẹn; nhưng sau đó bạn quay lại nó với ham muốn thưởng thức lại. Điều gì xảy ra khi bạn làm điều đó? Không có sự thưởng thức, bởi vì nó là ký ức của hoàng hôn ngày hôm qua mà lúc này đang khiến cho bạn quay lại, ký ức đó đang xô đẩy, đang thôi thúc bạn thưởng thức. Ngày hôm qua không có ký ức, chỉ có một sự trân trọng tự phát, một phản ứng hiệp thông; nhưng ngày hôm nay bạn ham muốn nắm bắt lại trải nghiệm của ngày hôm qua. Đó là ký ức đang can thiệp giữa bạn và hoàng hôn; vì vậy, không có thưởng thức, không có phong phú, không có tổng thể của vẻ đẹp. Lại nữa, bạn có một người bạn đã nói điều gì đó với bạn ngày hôm qua, một lăng nhục hay một khen ngợi, bạn giữ lại ký ức đó; và với ký ức đó bạn gặp gỡ người bạn của bạn ngày hôm nay. Bạn thực sự không gặp gỡ người bạn của bạn – bạn mang theo cùng bạn ký ức của ngày hôm qua, mà can thiệp vào nó; và thế là, chúng ta tiếp tục, đang vây quanh chúng ta và những hành động của chúng ta bằng ký ức, và vì vậy không có trạng thái mới mẻ, không có sự trong sáng. Đó là lý do tại sao ký ức khiến cho sống trở thành buồn chán, trì trệ, và trống rỗng.

Chúng ta sống đối kháng lẫn nhau bởi vì ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’ được củng cố qua ký ức. Ký ức hồi sinh qua hành động trong hiện tại; chúng ta cho ký ức sự sống qua hiện tại, nhưng khi chúng ta không cho ký ức sự sống, nó tan biến. Vì vậy ký ức về những sự kiện, về những sự kiện kỹ thuật, rõ ràng là một cần thiết, nhưng ký ức như sự ghi nhớ thuộc tâm lý hủy diệt sự hiểu rõ về sống, sự hiệp thông lẫn nhau.

Người hỏi: Ông đã nói rằng khi cái trí tầng ý thức bên ngoài yên lặng,cái trí tầng ý thức bên trong tự-chiếu rọi. Liệu cái trí tầng ý thức bên trong là một thực thể cao cấp? Liệu không cần thiết phải tuôn trào tất cả mọi điều bị giấu giếm trong mê cung của tầng ý thức bên trong với mục đích tự-cởi bỏ tình trạng bị quy định của người ta, hay sao? Làm thế nào người ta có thể khởi sự nó?

Krishnamurti: Tôi không hiểu có bao nhiêu người trong chúng ta nhận biết được rằng có một tầng ý thức bên trong, và nhận biết được rằng có những tầng khác nhau trong ý thức của chúng ta? Tôi nghĩ hầu hết chúng ta chỉ nhận biết được cái trí hời hợt, nhận biết được hoạt động hàng ngày, nhận biết được tầng ý thức bề mặt, huyên náo. Chúng ta không nhận biết được chiều sâu, sự quan trọng và ý nghĩa của những tầng giấu giếm; và thỉnh thoảng, qua một giấc mơ, qua một gợi ý lờ mờ, qua một gián tiếp, người ta nhận biết được rằng có những trạng thái khác của thân tâm. Hầu hết chúng ta đều quá bận rộn, quá bận tâm với sống của chúng ta, với những vui chơi, với những ham muốn nhục dục, với những viễn vông, không thể nhận biết được bất kỳ điều gì ngoại trừ tầng ý thức bên ngoài. Hầu hết chúng ta đều tiêu xài những sống của chúng ta trong sự đấu tranh giành giật quyền hành, thuộc chính trị hay cá nhân, sự đấu tranh tìm kiếm chức vụ, thành công.

Lúc này, người hỏi muốn biết, ‘Liệu tầng ý thức bên trong là một thực thể cao cấp?’ Đó là câu hỏi đầu tiên. Liệu có một thực thể cao cấp tách khỏi qui trình của sự suy nghĩ? Chắc chắn, chừng nào qui trình của sự suy nghĩ còn tồn tại, mặc dù nó có lẽ phân chia thành thấp kém hoặc cao cấp, không thể có thực thể cao cấp, không thể có thực thể vĩnh cửu nào tách khỏi cái nhất thời, phù du. Vì vậy chúng ta sẽ phải tìm hiểu câu hỏi này rất cẩn thận và hiểu rõ toàn ý nghĩa của ý thức. Tôi đã nói rằng khi bạn có một vấn đề và đã suy nghĩ về nó cho đến lúc cái trí của bạn bị kiệt quệ mà không tìm được đáp án, nó thường xuyên xảy ra rằng khi bạn gác vấn đề đó qua một bên, đáp án được tìm thấy vào sáng sớm. Trong khi cái trí tầng ý thức bên ngoài yên lặng, những tầng giấu giếm của cái trí tầng ý thức bên trong đang làm việc về vấn đề, và khi bạn thức giấc bạn tìm được đáp án. Chắc chắn, điều đó có nghĩa rằng những tầng giấu giếm của cái trí không ngủ khi bạn ngủ, nhưng luôn luôn đang làm việc. Mặc dù cái trí tầng ý thức bên ngoài có lẽ ngủ say, phía bên trong, nơi những tầng khác nhau của nó đang vật lộn với vấn đề đó, và tự nhiên nó tự-chiếu rọi chính nó lên tầng ý thức bên ngoài. Lúc này câu hỏi là, liệu đó là một thực thể cao cấp? Chắc chắn không. Bạn có ý gì qua từ ngữ một thực thể cao cấp? Bạn có ý, đúng chứ, một thực thể thuộc tinh thần, một thực thể mà vượt khỏi thời gian? Bạn ngập tràn những suy nghĩ, và một thực thể mà bạn suy nghĩ về nó chắc chắn không là một thực thể tinh thần – nó là bộ phận của sự suy nghĩ; vì vậy nó là một đứa con của sự suy nghĩ, vẫn còn ở bên trong lãnh vực của sự suy nghĩ. Dù gọi nó bằng bất kỳ cái tên gì, nó vẫn còn là một sản phẩm của sự suy nghĩ; vậy là nó là một sản phẩm của thời gian, và không là một thực thể thuộc tinh thần.

Câu hỏi kế tiếp là, ‘Liệu không cần thiết phải tuôn tràn tất cả mọi điều bị giấu giếm trong mê cung của tầng ý thức bên trong với mục đích tự-cởi bỏ tình trạng bị quy định của người ta, hay sao? Làm thế nào người ta có thể khởi sự nó?’ Như tôi đã nói, ý thức có những tầng khác nhau. Đầu tiên, có tầng bề mặt, và dưới đó có ký ức, bởi vì nếu không có ký ức không có hành động. Dưới đó nữa có sự ham muốn để hiện diện, để trở thành, sự ham muốn để thành tựu. Nếu bạn vẫn còn thâm nhập sâu thẳm hơn, bạn sẽ phát hiện một trạng thái của phủ nhận hoàn toàn, của không-chắc chắn, của trống không. Tổng thể của tất cả những cái này là ý thức. Bây giờ, chừng nào còn có sự ham muốn để tồn tại, để trở thành, để thành tựu, để đạt được, phải có sự củng cố của nhiều tầng thuộc ý thức như ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, và làm trống không nhiều tầng đó có thể xảy ra chỉ khi nào bạn hiểu rõ qui trình của trở thành. Đó là, chừng nào còn có sự ham muốn để tồn tại, để trở thành, để thành tựu, ký ức được củng cố, và từ ký ức đó có hành động, mà chỉ quy định cái trí thêm nữa. Tôi hy vọng bạn quan tâm tất cả điều này. Nếu không, cũng chẳng quan trọng lắm; nhưng tôi sẽ tiếp tục, bởi vì một số trong các bạn có lẽ nhận biết được vấn đề này.

Sự sống không chỉ là một tầng của ý thức, nó không phải là một chiếc lá, một cái cành: sự sống là một tiến hành tổng thể, trọn vẹn. Chúng ta phải hiểu rõ sự tiến hành tổng thể trước khi chúng ta có thể hiểu rõ vẻ đẹp của sự sống, sự vĩ đại của nó, những đau khổ của nó, những phiền muộn của nó và những hân hoan của nó. Lúc này, muốn làm trống không tầng ý thức bên trong, mà là muốn hiểu rõ trạng thái tổng thể của sự tồn tại, của ý thức, chúng ta phải thấy nó được cấu thành từ cái gì; chúng ta phải nhận biết được vô số những hình thức của tình trạng bị quy định mà là những ký ức của chủng tộc, gia đình, nhóm nguời, và vân vân, vô số những ký ức không-trọn vẹn. Lúc này, người ta có thể phân tích những ký ức này, sử dụng mỗi phản ứng, mỗi ký ức, và gỡ rối nó, thâm nhập vào nó một cách trọn vẹn và xóa sạch nó; nhưng muốn thực hiện điều đó người ta sẽ cần thời gian, kiên nhẫn, và lưu tâm vô hạn. Chắc chắn, phải có một tiếp cận khác hẳn đối với vấn đề.

Bất kỳ người nào đã suy nghĩ về nó đều quen thuộc với qui trình của sử dụng một phản ứng, phân tích nó, theo dõi nó, và xóa sạch nó, và thực hiện điều đó với mọi phản ứng; và nếu người ta không phân tích xong xuôi một phản ứng, hay bỏ qua điều gì trong sự phân tích đó, thế là người ta phải quay lại từ đầu và mất đi nhiều ngày trong qui trình không hiệu quả đó. Phải có một tiếp cận khác hẳn để xóa sạch toàn bộ sự hiện diện của những ký ức, để cho cái trí có lẽ được mới mẻ mỗi khoảnh khắc. Làm thế nào điều đó sẽ được thực hiện? Bạn hiểu rõ vấn đề? Nó là thế này: Chúng ta quen thuộc gặp gỡ sống bằng những ký ức cũ kỹ, những truyền thống cũ kỹ, những thói quen cũ kỹ; chúng ta gặp gỡ ngày hôm nay bằng ngày hôm qua. Lúc này, liệu người ta có thể gặp gỡ ngày hôm nay, hiện tại, mà không có sự suy nghĩ của ngày hôm qua? Chắc chắn, đó là một nghi vấn mới mẻ, đúng chứ? Chúng ta biết phương pháp cũ kỹ của đi từng bước một, phân tích mỗi phản ứng, xóa sạch nó qua sự luyện tập, sự kỷ luật, và vân vân. Chúng ta thấy rằng một phương pháp như thế dính dáng đến thời gian; và khi bạn sử dụng thời gian như một phương tiện của xóa sạch tình trạng bị quy định, chắc chắn nó chỉ củng cố thêm tình trạng bị quy định. Nếu tôi sử dụng thời gian như một phương tiện giải thoát cho tôi, trong chính qui trình đó tôi đang trở nên bị quy định.

Thế là tôi sẽ làm gì? Bởi vì nó là một nghi vấn mới mẻ, tôi phải tiếp cận nó mới mẻ lại. Đó là, liệu người ta có thể giải thoát ngay tức khắc, ngay lập tức? Liệu có thể có sự tái sinh mà không có yếu tố của thời gian; thời gian không là gì cả ngoại trừ ký ức? Tôi nói rằng sự tái sinh, sự đột biến, là ngay lúc này, không phải ngày mai, và sự đột biến đó có thể hiện diện chỉ khi nào có sự tự do tuyệt đối khỏi ngày hôm qua. Làm thế nào người ta sẽ được tự do khỏi ngày hôm qua? Lúc này, khi tôi đặt ra câu hỏi đó, điều gì đang xảy ra trong cái trí của bạn? Điều gì đang xảy ra trong cái trí của bạn khi bạn thấy rằng cái trí của bạn phải mới mẻ, rằng ngày hôm qua của bạn phải tan biến? Khi bạn thấy sự thật của điều này, trạng thái cái trí của bạn là gì? Nếu bạn muốn hiểu rõ một bức tranh hiện đại, chắc chắn bạn không được tiếp cận nó bằng sự đào tạo cổ điển của bạn. Nếu bạn nhận ra điều đó như một sự kiện, điều gì xảy ra cho sự đào tạo cổ điển của bạn? Sự đào tạo cổ điển của bạn không còn khi có ý định để hiểu rõ một bức tranh hiện đại – thách thức là mới mẻ, và bạn nhận ra rằng bạn không thể hiểu rõ nó qua bức màn của ngày hôm qua. Khi bạn thấy sự thật của điều đó, vậy thì ngày hôm qua tan biến, có sự xóa sạch hoàn toàn của ngày hôm qua.

Bạn phải thấy sự thật rằng ngày hôm qua không thể giải thích hiện tại. Chính là sự thật mới xóa sạch tình trạng bị quy định, và thấy sự thật của ‘cái gì là’ đòi hỏi một chú ý lạ thường. Bởi vì không có sự chú ý tuyệt đối nếu có sự xao lãng, chúng ta có ý gì qua từ ngữ xao lãng? Khi có nhiều quan tâm mà bạn lại chọn lựa một quan tâm và cố định cái trí của bạn vào nó, vậy thì bất kỳ quan tâm nào mà mang cái trí của bạn ra khỏi sự quan tâm trọng yếu, bạn gọi là sự xao lãng. Bây giờ, liệu bạn có thể chọn lựa một quan tâm và tập trung vào một quan tâm đó? Tại sao bạn chọn lựa một quan tâm và loại bỏ những quan tâm khác? Bạn chọn lựa một quan tâm bởi vì nó cho nhiều lợi lộc hơn; vì vậy, sự chọn lựa của bạn được đặt nền tảng trên lợi lộc, sự ham muốn để kiếm được; và khoảnh khắc bạn có một ham muốn để kiếm được, bạn phải chống cự như một xao lãng mọi thứ mà mang những suy nghĩ của bạn ra khỏi sự quan tâm trọng yếu. Ngoại trừ những thèm muốn thuộc sinh học của bạn, liệu bạn có một quan tâm trọng yếu? Tôi thực sự nghi ngờ không hiểu bạn có một quan tâm trọng yếu. Thế là bạn không bị xao lãng – bạn chỉ đang sống trong một trạng thái không-trung tâm.

Con người muốn hiểu rõ sự thật phải trao cho nó sự chú ý không-phân chia của anh ấy, và sự chú ý không-phân chia đó hiện diện chỉ khi nào không có sự chọn lựa, và thế là không ý tưởng của xao lãng. Không có sự việc như là xao lãng, bởi vì sự sống là một chuyển động, và người ta phải hiểu rõ toàn chuyển động này mà không phân chia nó thành những quan tâm và những xao lãng. Thế là, người ta phải nhìn ngắm mọi thứ để thấy sự thật hay sự giả dối của nó. Khi người ta thấy sự thật của điều này, nó giải phóng ý thức khỏi ngày hôm qua. Bạn có thể tự-áp dụng điều đó cho chính bạn. Muốn thấy sự thật của chủ nghĩa quốc gia và không bị trói buộc trong những tranh luận ủng hộ hay chống đối, bạn sẽ phải thâm nhập nó và khoáng đạt với tất cả những hàm ý của vấn đề đó. Trong nhận biết vấn đề của chủ nghĩa quốc gia mà không chỉ trích hay bênh vực, trong thấy sự thật rằng nó là giả dối, bạn sẽ phát giác rằng: kia kìa hiện diện một tự do tuyệt đối khỏi toàn vấn đề. Vậy thì, chỉ sự nhận biết của sự thật mới giải thoát; và muốn thấy, muốn nhận được sự thật, phải có sự tập trung của chú ý, mà có nghĩa rằng bạn phải trao quả tim và cái trí của bạn để thấy và để hiểu rõ.

_________________________________________________

Rajghat, ngày 23 tháng giêng năm 1949

C

hắc rằng, hầu hết các bạn đều có loại người thầy nào đó, loại đạo sư nào đó, hoặc ở dãy núi Himalayas, hoặc quanh góc đường, loại hướng dẫn viên nào đó. Bây giờ, tại sao bạn cần anh ấy? Chắc chắn, bạn không cần anh ấy vì những mục đích vật chất, nếu anh ấy không hứa hẹn cho bạn một việc làm tốt vào ngày mốt. Vì vậy có lẽ bạn cần anh ấy vì những mục đích tâm lý. Bây giờ, tại sao? Chắc chắn, tại cơ bản, bạn cần anh ấy bởi vì bạn nói, ‘Tôi bị hoang mang, tôi không biết làm thế nào để sống trong thế giới này, mọi sự việc đều quá mâu thuẫn. Có hỗn loạn, có đau khổ, có chết chóc, thoái hóa, hủy hoại, phân rã; và tôi cần người nào đó để chỉ bảo tôi nên làm gì’. Đó không phải là tại sao bạn cần một đạo sư, tại sao bạn nương dựa một đạo sư, hay sao? Bạn nói, ‘Bởi vì bị hoang mang, tôi cần một người thầy mà sẽ giúp đỡ tôi khai quang sự hoang mang, hay nói khác hơn giúp đỡ tôi xóa sạch nó’. Thế là nhu cầu của bạn thuộc tâm lý. Bạn không đối xử với người thủ tướng của bạn như vị đạo sư của bạn, bởi vì anh ấy chỉ giải quyết sống vật chất của xã hội. Bạn nương dựa anh ấy vì những nhu cầu vật chất của bạn.

Bây giờ, bạn có ý gì qua từ ngữ nhu cầu? Tôi cần ánh sáng mặt trời, tôi cần lương thực, quần áo, và chỗ ở; và trong cùng cách, liệu tôi cần một người thầy? Muốn trả lời câu hỏi đó, tôi phải tìm ra ai đã tạo ra sự hỗn loạn lạ kỳ này quanh tôi và trong tôi. Nếu tôi chịu trách nhiệm cho sự hỗn loạn, tôi là người duy nhất có thể khai quang nó, mà có nghĩa tôi phải tự-hiểu rõ nó; nhưng thông thường bạn nhờ vả một người thầy để cho anh ấy có thể giải thoát cho bạn khỏi sự hỗn loạn, hay chỉ bảo cho bạn lối thoát, cho bạn những phương hướng để thoát khỏi nó. Hoặc bạn nói, ‘Ồ, thế giới này là giả dối, tôi phải tìm ra sự thật’. Và vị đạo sư hay người thầy nói, ‘Ta đã tìm được sự thật’, thế là bạn đi tới anh ấy để cùng nhau tận hưởng sự thật đó.

Liệu sự hỗn loạn có thể được khai quang bởi một người, dù vĩ đại đến chừng nào? Chắc chắn, sự hỗn loạn này tồn tại trong sự liên hệ của chúng ta; vì vậy chúng ta phải hiểu rõ sự liên hệ của chúng ta với một người khác, với xã hội, với tài sản, với những ý tưởng, và vân vân; và liệu người nào đó có thể trao tặng cho chúng ta sự hiểu rõ của liên hệ đó? Người nào đó có thể vạch rõ, có thể giải thích, nhưng tôi phải hiểu rõ sự liên hệ của tôi, tôi ở đâu.

Bạn có quan tâm đến điều này? Sự khó khăn của tôi là rằng tôi cảm thấy bạn không quan tâm, bởi vì bạn đang quan sát người nào đó đang làm việc gì đó. Khi bạn đưa ra một nghi vấn, liệu bạn cảm thấy sự quan trọng của lắng nghe đáp án? Sự sống không quan trọng đối với bạn, cái gì đó đầy sức sống, đầy sáng tạo cần phải được hiểu rõ, hay sao? Bạn lắng nghe để được khẳng định trong sự tìm kiếm những vị đạo sư của bạn, hay để củng cố sự tin tưởng riêng của bạn rằng những vị đạo sư là cần thiết. Theo phương hướng đó chúng ta không tìm được sự thật của vấn đề. Bạn có thể tìm được sự thật của vấn đề bằng cách tìm kiếm nơi quả tim của bạn, tại sao bạn cần một đạo sư?

Nhiều sự việc được bao gồm trong câu hỏi này. Có vẻ nhiều người nghĩ rằng sự thật đứng yên, cố định và thế là một đạo sư có thể dẫn người ta đến đó. Bởi vì người nào đó có thể hướng dẫn bạn đến nhà ga, thế là bạn nghĩ một đạo sư có thể dắt bạn đến sự thật. Điều đó có nghĩa là sự thật đứng yên, nhưng liệu sự thật đứng yên? Bạn mong muốn nó đứng yên; bởi vì cái đứng yên rất gây thỏa mãn; ít ra bạn biết được nó là gì và bạn có thể bám vào nó.

Thế là, thật ra bạn đang tìm kiếm sự thỏa mãn. Bạn mong muốn sự an toàn, bạn thèm khát sự đảm bảo của một đạo sư, bạn ao ước anh ấy bảo với bạn: bạn đang làm rất tốt, cứ tiếp tục, bạn muốn anh ấy trao cho bạn sự thanh thản tinh thần, một cái vỗ lưng đầy thân ái. Thế là, luôn luôn, bạn đi đến một đạo sư mà thực sự gây hài lòng cho bạn. Đó là lý do tại sao có quá nhiều đạo sư! Và quá nhiều đệ tử! Mà có nghĩa rằng, thật ra bạn không đang tìm kiếm sự thật: bạn mong muốn sự thỏa mãn, và người mà cho bạn sự thỏa mãn vô hạn bạn gọi là đạo sư của bạn. Sự thỏa mãn đó hoặc thuộc hệ thần kinh cơ thể, đó là vật chất, hoặc thuộc tâm lý; và bạn nghĩ trong sự hiện diện của anh ấy bạn cảm thấy sự an bình vô cùng, sự yên lặng tuyệt đối, một ý thức của được hiểu rõ. Nói cách khác, bạn muốn một nguời cha hoặc nguời mẹ được ca ngợi mà sẽ giúp đỡ bạn vượt qua sự khó khăn!

Liệu bạn có khi nào ngồi yên lặng dưới một cái cây? Cũng vậy, ở đó bạn sẽ tìm được sự an bình vô cùng. Cũng vậy, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đang được hiểu rõ! Nói cách khác, trong sự hiện diện của một con nguời rất yên lặng, bạn cũng trở nên yên lặng; và sự yên lặng này bạn lại nói nhờ vào người thầy. Vậy là bạn choàng một vòng hoa quanh anh ấy, và đá vào người hầu của bạn. Vì vậy, khi bạn nói bạn cần một người thầy, chắc chắn tất cả những sự việc này được hàm ý trong nó, đúng chứ? Và vị đạo sư mà bảo đảm cho bạn một tẩu thoát, vị đạo sư đó trở thành nhu cầu của bạn.

Lúc này, sự hỗn loạn tồn tại chỉ trong sự liên hệ; và tại sao chúng ta lại cần người nào đó giúp đỡ chúng ta hiểu rõ sự hỗn loạn này? Lúc này bạn có lẽ hỏi, ‘Ông đang làm gì vậy? liệu ông không đang hành động như một đạo sư, hay sao?’ Chắc chắn, tôi không đang hành động như vị đạo sư của bạn bởi vì, trước hết, tôi không đang trao tặng cho bạn bất kỳ thỏa mãn nào, tôi không đang chỉ bảo cho bạn nên làm gì từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác hoặc từ ngày này sang ngày khác; tôi chỉ đang vạch rõ cái gì đó cho bạn; bạn có thể thâu nhận nó hay bỏ qua nó. Điều đó phụ thuộc vào bạn, không phải phụ thuộc vào tôi. Tôi không đòi hỏi một thứ gì từ bạn, không cần sự tôn sùng của bạn, không cần sự tâng bốc của bạn, cũng không phiền hà những lăng mạ của bạn. Tôi nói đây là một sự kiện, thâu nhận nó hay bỏ qua nó. Nhưng hầu hết các bạn sẽ bỏ qua nó bởi vì lý do rõ ràng rằng các bạn sẽ không tìm được sự thỏa mãn trong nó. Nhưng cái người thực sự khẩn thiết, thực sự nghiêm túc trong ý định dể tìm ra của anh ấy, sẽ có dư thừa lương thực trong điều gì đang được nói; đó là, sự hỗn loạn đó tồn tại chỉ trong sự liên hệ của bạn, thế là chúng ta hãy hiểu rõ sự liên hệ đó.

Hiểu rõ sự liên hệ đó là nhận biết nó, không phải lẩn tránh nó, nhưng thấy toàn nội dung của sự liên hệ. Sự thật không xa xôi lắm, sự thật rất gần gũi; sự thật ở dưới mỗi chiếc lá, trong mỗi nụ cười, trong những từ ngữ, những cảm giác, những suy nghĩ mà người ta có. Nhưng nó bị che kín đến độ chúng ta phải lật tung nó để thấy. Lật tung nó là khám phá điều gì là giả dối; và khoảnh khắc bạn biết điều gì là giả dối; và khi giả dối đó rơi rụng, sự thật hiện diện ở đó.

Vậy là, sự thật là một sự việc đang sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc – phải được khám phá, không phải bị tin tưởng, không phải bị trích dẫn, không phải bị lập công thức. Nhưng muốn thấy sự thật đó, cái trí của bạn và quả tim của bạn phải linh động lạ thường, tỉnh táo lạ thường. Nhưng bất hạnh thay, hầu hết chúng ta không muốn một cái trí mau lẹ, linh động, và tỉnh táo; chúng ta muốn được ngủ quên qua những câu kinh kệ, những nghi thức. Chúng ta tự ru ngủ chính chúng ta qua vô vàn phương cách! Chắc chắn chúng ta cần một môi trường nào đó, một không khí nào đó, một mình, tĩnh mịch – không phải sự theo đuổi hay sự lẩn trốn của cô độc – nhưng một cô đơn nào đó, mà trong đó có chú ý trọn vẹn; và cô đơn đó, chú ý trọn vẹn đó, hiện diện ở đó chỉ khi nào bạn ở trong sự bất an, khi những khủng hoảng của bạn thực sự mãnh liệt. Và nếu bạn có một người bạn, nếu bạn có người nào đó có thể giúp đỡ bạn, bạn đi đến anh ấy; nhưng chắc chắn, đối xử với anh ấy như vị đạo sư của bạn rõ ràng là không chín chắn, rõ ràng là trẻ con. Nó giống như đang bám gấu váy của người mẹ.

Khi chúng ta gặp phải sự khó khăn, mọi bản năng của chúng ta là nương dựa người nào đó – người mẹ, người cha, hay một cha lành được tôn vinh, người mà bạn gọi là người thầy hay đạo sư. Nhưng nếu một đạo sư xứng đáng, anh ấy sẽ bảo bạn phải tự-hiểu rõ về chính bạn trong hành động, mà là sự liên hệ. Chắc chắn, bạn còn quan trọng hơn vị đạo sư nhiều; bạn còn quan trọng hơn tôi nhiều, bởi vì nó là sống của bạn, đau khổ của bạn, xung đột của bạn, đấu tranh của bạn. Vị đạo sư, hay tôi, hay người nào đó có lẽ được tự do, nhưng điều đó có giá trị gì đối với bạn? Sự tôn thờ đạo sư gây hủy hoại cho sự hiểu rõ về chính bạn của bạn. Và có một nhân tố kỳ dị trong trong điều này. Bạn càng thể hiện sự kính trọng đối với một người nhiều bao nhiêu, bạn càng thể hiện sự kính trọng đối với những nguời khác ít hơn bấy nhiêu. Bạn kính cẩn thưa thỉnh vị đạo sư của bạn và lại khinh miệt những người thấp kém hơn bạn. Vì vậy, sự kính trọng của bạn chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Đây là tất cả những sự kiện. Tôi biết có thể hầu hết các bạn đều không ưa thích điều gì đã được nói, bởi vì cái trí của bạn muốn được thanh thản, nó đã bị vùi dập quá nhiều. Nó đã bị trói buộc trong quá nhiều phiền muộn và đau khổ, và nó nói, ‘Lạy Thượng đế hãy cho con hy vọng nào đó, ẩn náu nào đó’.

Chỉ cái trí trong vô vọng mới có thể tìm ra sự thật. Một cái trí bất mãn tột độ có thể nhảy vào sự thật; không phải một cái trí mãn nguyện, không phải một cái trí được kính trọng, được bao bọc bởi những niềm tin.

Vậy là, bạn nở hoa chỉ trong sự liên hệ; bạn nở hoa chỉ trong tình yêu, không phải trong mãn nguyện. Nhưng những quả tim của chúng ta đã héo hắt; chúng ta đã nhét đầy những quả tim của chúng ta bằng những sự việc của cái trí, thế là chúng ta nương nhờ những người khác để nhét đầy những quả tim của chúng ta bằng những sáng chế của họ. Bởi vì chúng ta không có tình yêu, chúng ta cố gắng tìm ra nó bởi người thầy, bởi người nào đó.

Có phải bạn đang bị mê hoặc bởi giọng nói và những từ ngữ của tôi? Chắc chắn, điều gì tôi vừa nói phải rất gây khó chịu cho bạn? Nếu nó không gây khó chịu, chắc phải có gì sai lầm. Bởi vì người ta đang tấn công vào toàn cấu trúc của qui trình suy nghĩ của bạn, những phương cách sống thoải mái của bạn, và sự khó chịu đó chắc phải gây mệt mỏi lắm. Chúng ta hãy rất rõ ràng về điều gì chúng ta đang cố gắng thực hiện, các bạn và tôi. Có thể, hầu hết chúng ta sẽ nói, ‘Tôi biết tất cả điều này; Shankara, Phật, người nào đó đã nói’. Câu phát biểu này thể hiện rằng, bởi vì đã đọc quá nhiều, một cách hời hợt, bạn chuyển điều gì đang được nói vào một trong những ngõ ngách sâu kín nào đó trong cái trí của bạn, và thế là quên bẵng nó. Nó là một cách thuận tiện để xua đuổi điều gì bạn đã nghe, mà có nghĩa bạn đang lắng nghe chỉ trên mức độ từ ngữ, và không thâu nhận toàn nội dung, mà tạo ra một khó chịu.

An bình không thể hiện diện nếu không có nhiều thâm nhập; và điều gì bạn và tôi đang thực hiện là thâm nhập vào những cái trí và những quả tim của chúng ta với mục đích bắt gặp điều gì là sự thật và điều gì là giả dối. Và thâm nhập là tiêu xài năng lượng, sinh lực; nó phải gây kiệt sức phần thân thể giống như đang đào bới! Nhưng bất hạnh thay, nhiều người quen thuộc với lắng nghe; nhiều người chỉ là những khán giả đang thưởng thức, đang quan sát điều gì một người khác đang trình diễn; vì vậy, bạn không mệt mỏi. Những khán giả không bao giờ mệt mỏi, mà thể hiện rằng họ không đang tham gia trò chơi! Bạn không là khán giả, và tôi không là người trình diễn.

Bạn không có mặt ở đây để nghe một bài hát. Điều gì bạn và tôi đang cố gắng làm là tìm được một bài hát trong những quả tim của chúng ta và không lắng nghe bài hát của một người khác. Nhiều người quen lắng nghe bài hát của một người khác, và vì vậy những quả tim của họ trống rỗng, và chúng sẽ luôn luôn trống rỗng bởi vì họ nhét đầy những quả tim của họ bằng bài hát của một người khác. Đó không là bài hát của bạn; lúc đó bạn chỉ là một cái máy đĩa, đang thay đổi những cái đĩa tùy theo tâm trạng của bạn; bạn không là những nhạc sĩ. Và đặc biệt trong những thời điểm của phiền muộn và khó nhọc vô cùng, mỗi người chúng ta phải là nhạc sĩ; chúng ta phải tự-sáng tạo bài hát cho chính chúng ta, mà có nghĩa làm tự do, làm trống không quả tim khỏi những sự việc bị nhét đầy bởi cái trí. Vì vậy chúng ta phải hiểu rõ những sáng chế của cái trí, và thấy sự giả dối của những sáng chế đó. Thế là chúng ta sẽ không nhét đầy những quả tim của chúng ta bởi những sáng chế đó. Vậy thì khi quả tim được trống không – không phải bị nhét đầy tro bụi – khi quả tim được trống không, và cái trí yên lặng, vậy thì có một bài hát, bài hát không thể bị hủy hoại hay bị biến dạng, bởi vì nó không bị sắp xếp vào chung bởi cái trí.

_________________________________________________

Rajahmundry, ngày 20 tháng 11 năm 1949

N

gười hỏi: Ông nói rằng những đạo sư không cần thiết, nhưng làm thế nào tôi có thể tìm được sự thật nếu không có sự hướng dẫn và giúp đỡ thông minh mà chỉ một đạo sư mới có thể trao tặng?

Krishnamurti: Câu hỏi là: liệu một đạo sư cần thiết hay không. Liệu sự thật có thể tìm được qua một người khác? Một số người nói nó có thể và một số người nói nó không thể. Chúng ta muốn biết sự thật của điều này, không phải quan điểm của tôi đối nghịch quan điểm của người khác. Tôi không có quan điểm gì trong vấn đề này. Hoặc nó là như thế hoặc không. Liệu có cần thiết rằng bạn phải có hay không có một đạo sư không là một câu hỏi của quan điểm, dù sâu sắc, uyên bác, phổ biến, hay ưa chuộng. Sự thật của vấn đề phải được tìm ra trong sự kiện.

Trước hết, tại sao chúng ta muốn một đạo sư? Chúng ta nói chúng ta cần một đạo sư bởi vì chúng ta bị hoang mang, và vị đạo sư sẽ hữu ích. Anh ấy sẽ vạch rõ sự thật là gì, anh ấy sẽ giúp đỡ chúng ta hiểu rõ, anh ấy biết nhiều về sống hơn chúng ta, anh ấy sẽ hành động như một người cha,như một người thầy để hướng dẫn chúng ta trong sống. Anh ấy có sự trải nghiệm rộng khắp và chúng ta chẳng có bao nhiêu; anh ấy sẽ giúp đỡ chúng ta qua những trải nghiệm rộng khắp của anh ấy, và vân vân và vân vân. Tại cơ bản, đó là, bạn nương dựa một người thầy bởi vì bạn bị hoang mang. Nếu bạn được rõ ràng, bạn sẽ không cần gần gũi người nào cả. Chắc chắn, nếu bạn có hạnh phúc sâu thẳm, nếu không có những vấn đề, nếu bạn hiểu rõ trọn vẹn về sống, bạn sẽ không nương dựa bất kỳ vị đạo sư nào. Tôi hy vọng bạn thấy ý nghĩa của nó.

Bởi vì bạn bị hoang mang, bạn tìm kiếm một người thầy. Bạn nương dựa anh ấy để trao tặng cho bạn một phương cách sống, để làm sáng sủa sự hoang mang riêng của bạn, để tìm ra sự thật. Bạn chọn lựa vị đạo sư của bạn bởi vì bạn bị hoang mang, và bạn hy vọng anh ấy sẽ trao tặng bạn điều gì bạn đòi hỏi. Đó là, bạn chọn lựa người nào đó mà sẽ thỏa mãn sự đòi hỏi của bạn; bạn chọn lựa tùy theo sự thỏa mãn mà anh ấy sẽ trao tặng cho bạn, và sự chọn lựa của bạn phụ thuộc vào sự thỏa mãn của bạn. Bạn không chọn lựa một đạo sư mà nói hãy phụ thuộc vào chính bạn. Bạn chọn lựa anh ấy tùy theo những thành kiến của bạn. Vậy là, bởi vì bạn chọn lựa vị đạo sư của bạn tùy theo sự thỏa mãn anh ấy trao tặng cho bạn, bạn không đang tìm kiếm sự thật nhưng đang tìm kiếm một phương cách thoát khỏi sự hoang mang của bạn; và phương cách thoát khỏi sự hoang mang bị lầm lẫn gọi là sự thật.

Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu ý tưởng rằng một đạo sư có thể khai quang sự hoang mang của bạn. Liệu bất kỳ người nào khác có thể khai quang sự hoang mang của bạn mà là sản phẩm của những phản ứng của chúng ta? Chúng ta đã tạo ra nó. Bạn nghĩ người nào khác đã tạo ra sự đau khổ này, trận chiến này tại mọi mức độ của sự tồn tại, cả phía bên trong lẫn phía bên ngoài? Nó là kết quả của sự không-hiểu rõ về chính mình của chúng ta. Do bởi chúng ta không hiểu rõ về chính chúng ta, những xung đột của chúng ta, những phản ứng của chúng ta, những đau khổ của chúng ta, nên chúng ta mới nương dựa một đạo sư mà chúng ta nghĩ sẽ giúp đỡ chúng ta được tự do khỏi sự hoang mang đó. Chúng ta có thể hiểu rõ về chính chúng ta chỉ trong sự liên hệ với hiện tại; và chính sự liên hệ đó là đạo sư, không phải người nào khác phía bên ngoài. Nếu tôi không hiểu rõ sự liên hệ đó, bất kỳ điều gì vị đạo sư nói đều vô ích, bởi vì nếu tôi không hiểu rõ sự liên hệ của tôi với tài sản, với con người, với những ý tưởng, ai có thể giải quyết được sự xung đột bên trong tôi? Muốn giải quyết sự xung đột đó, chính tôi phải tự hiểu rõ nó, mà có nghĩa tôi phải nhận biết được chính tôi trong sự liên hệ. Muốn nhận biết, không đạo sư nào là cần thiết. Nếu tôi không hiểu rõ về chính tôi, một vị đạo sư có ích lợi gì? Giống như một người lãnh đạo chính trị được chọn lựa bởi những người bị hoang mang, và sự chọn lựa của những người đó cũng bị hoang mang, thế là tôi chọn lựa một đạo sư. Tôi có thể chọn lựa anh ấy chỉ tùy theo sự hoang mang của tôi. Vậy là, anh ấy, giống như người lãnh đạo chính trị, cũng bị hoang mang.

Vì vậy, điều gì quan trọng không phải là ai đúng – liệu tôi đúng, hay những người nói một đạo sư là cần thiết – nhưng tìm ra tại sao tôi cần một đạo sư. Những đạo sư tồn tại vì sự trục lợi thuộc nhiều loại khác nhau, nhưng điều đó không liên quan. Nó cho bạn sự thỏa mãn nếu người nào đó bảo cho bạn rằng bạn đang tiến bộ ra sao. Nhưng tìm ra tại sao bạn cần một đạo sư – chìa khóa nằm ở đó. Một người khác có thể chỉ rõ phương cách; nhưng bạn phải làm tất cả mọi việc, thậm chí nếu bạn có một đạo sư. Bởi vì bạn không muốn đối diện với sự kiện đó, bạn chuyển trách nhiệm sang vị đạo sư. Vị đạo sư trở thành vô ích khi có một chút ít hiểu rõ về chính mình. Không đạo sư, không quyển sách hay kinh thánh, có thể cho bạn sự hiểu rõ về chính mình; nó hiện diện khi bạn nhận biết được chính bạn trong sự liên hệ. Hiện diện là có liên hệ. Không hiểu rõ về liên hệ là đau khổ, bất an.

Không nhận biết được sự liên hệ của bạn với tài sản là một trong những nguyên nhân của hoang mang. Nếu bạn không biết sự liên hệ đúng đắn của bạn với tài sản, chắc chắn phải có xung đột, mà gia tăng sự xung đột trong xã hội. Nếu bạn không hiểu rõ sự liên hệ giữa bạn và người vợ của bạn, giữa bạn và người con của bạn, làm thế nào một người khác có thể giải quyết được sự xung đột đang nảy sinh từ sự liên hệ đó? Tương tự như thế với những ý tưởng, những niềm tin, và vân vân. Bởi vì bị hoang mang trong sự liên hệ của bạn với con người, tài sản, và những ý tưởng, bạn tìm kiếm một đạo sư. Nếu anh ấy là một đạo sư đúng đắn, anh ấy sẽ bảo cho bạn phải hiểu rõ về chính bạn. Bạn là cái nguồn của tất cả sự hiểu lầm và hoang mang; và bạn có thể giải quyết được sự xung đột đó chỉ khi nào bạn hiểu rõ về chính bạn trong sự liên hệ.

Bạn không thể tìm được sự thật nhờ vào bất kỳ người nào khác. Làm thế nào bạn có thể? Chắc chắn, sự thật không là cái gì đó đứng yên; nó không có chỗ ở cố định; nó không là một kết thúc, một mục đích. Ngược lại, nó đang sống, năng động, linh động, sinh động. Làm thế nào nó có thể là một kết thúc? Nếu sự thật là một điểm cố định, nó không còn là một sự thật; lúc đó nó chỉ là một quan điểm. Sự thật là cái không biết được, và một cái trí đang tìm kiếm sự thật sẽ không bao giờ tìm được nó. Bởi vì cái trí được tạo thành từ cái đã được biết, nó là kết quả của quá khứ, kết quả của thời gian – điều đó bạn có thể tự quan sát cho chính bạn.

Vì vậy, cái trí là dụng cụ của cái đã được biết, nó không thể tìm ra cái không biết được; nó chỉ có thể chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết. Khi cái trí tìm kiếm sự thật, sự thật nó đã đọc được trong những quyển sách, ‘sự thật’ đó là tự-chiếu rọi; nó là tưởng tượng, không thật. Cái gì có thật là cái gì là, không phải cái đối nghịch. Nhưng một cái trí đang tìm kiếm sự thật, đang tìm kiếm Thượng đế, là đang tìm kiếm cái đã được biết. Khi bạn suy nghĩ về Thượng đế, Thượng đế của bạn là sự chiếu rọi của sự suy nghĩ riêng của bạn, kết quả của những ảnh hưởng xã hội. Bạn chỉ có thể suy nghĩ về cái đã được biết; bạn không thể suy nghĩ về cái không biết được, bạn không thể tập trung về sự thật. Khoảnh khắc bạn suy nghĩ về cái không biết được, nó chỉ là cái đã được biết tự-chiếu rọi. Vì vậy, không thể suy nghĩ về Thượng đế hay sự thật. Nếu bạn suy nghĩ về nó, nó không là sự thật. Sự thật không thể được tìm kiếm; nó tự đến với bạn. Bạn chỉ có thể theo đuổi cái gì đã được biết. Khi cái trí không bị hành hạ bởi cái đã được biết, bởi những ảnh hưởng của cái đã được biết, chỉ đến lúc đó sự thật có thể tự-phơi bày. Sự thật ở trong mỗi chiếc lá, mỗi giọt nước mắt; nó phải được biết từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Không ai có thể dắt bạn đến được sự thật; và nếu có người nào dắt bạn, nó chỉ có thể đến cái đã được biết.

_________________________________________________

Bombay, ngày 12 tháng 3 năm 1950

N

gười hỏi:Nghi vấn của ‘sự thật là gì’ là một nghi vấn có từ xa xưa, và cuối cùng vẫn chưa có ai đã trả lời lời nó. Ông nói về sự thật, nhưng chúng tôi không thấy những thực hiện và những nỗ lực của ông để đạt được nó, như chúng tôi đã thấy trong sống của những người như Manhatma Gandhi và Dr. Besant. Nhân cách dịu dàng của ông là tất cả mà chúng tôi thấy được. Ông làm ơn giải thích tại sao có một khác biệt như thế giữa sống của ông và sống của những người tìm kiếm sự thật khác. Liệu có hai sự thật?

Krishnamurti: Bạn muốn chứng cớ? Và sự thật sẽ được đánh giá bởi tiêu chuẩn gì? Có những người nói rằng nỗ lực và thực hiện rất cần thiết cho sự thật; nhưng liệu sự thật sẽ có được qua phương cách đó, qua thử nghiệm và sai lầm? Có những người đấu tranh và tạo ra những nỗ lực phi thường, phấn đấu đầy can đảm, hoặc công khai hoặc âm thầm trong những hang động; và họ sẽ tìm được sự thật? Liệu sự thật là một sự việc sẽ được khám phá qua nỗ lực? Liệu có một con đường dẫn đến sự thật, con đường của bạn và con đường của tôi, con đường của người thực hiện nỗ lực phi thường, và con đường của người không thực hiện? Có hai sự thật, hay sự thật có nhiều hình thái?

Bây giờ, đây là câu hỏi của bạn: Bạn nói, ‘Những người nào đó – hai hay nhiều hay hàng trăm người – đã thực hiện những nỗ lực, đã đấu tranh, đã tìm kiếm sự thật, trái lại ông không thực hiện một nỗ lực, ông theo một sống khiêm tốn, thanh thản’. Vậy là, bạn muốn so sánh; đó là, bạn có một tiêu chuẩn, bạn có một bức tranh của những người lãnh đạo mà đã đấu tranh để đạt được sự thật; và khi người nào đó xuất hiện nhưng không phù hợp vào cái khung của bạn, bạn bị cản trở, và thế là bạn hỏi, ‘Điều gì là sự thật?’ Bạn bị cản trở – đó là vấn đề quan trọng, không phải liệu tôi có sự thật hay người nào đó có sự thật. Điều gì quan trọng là tìm ra liệu bạn có thể khám phá sự thật qua nỗ lực, ý chí, đấu tranh, phấn đấu. Việc đó mang lại sự hiểu rõ? Chắc chắn, sự thật không là cái gì đó xa xôi, nhưng trong những sự việc nhỏ nhoi của sống hàng ngày, trong mọi từ ngữ, mọi nụ cười, mọi liên hệ, chỉ vì chúng ta không biết làm thế nào để thấy nó; và người cố gắng, phấn đấu đầy can đảm, kỷ luật, kiểm soát chính anh ấy – liệu anh ấy thấy sự thật? Cái trí bị kỷ luật, bị kiểm soát, bị chật hẹp qua nỗ lực – nó sẽ thấy sự thật? Chắc chắn, không.

Chỉ cái trí yên lặng sẽ thấy sự thật, không phải cái trí tạo ra nỗ lực để thấy. Nếu bạn đang tạo ra một nỗ lực để nghe điều gì tôi đang nói, liệu bạn sẽ nghe à? Chỉ khi nào bạn yên lặng, khi nào bạn thực sự yên lặng, lúc đó bạn hiểu rõ. Nếu bạn nhìn ngắm kỹ càng, lắng nghe yên lặng, vậy thì bạn sẽ nghe; nhưng nếu bạn căng thẳng, đấu tranh để nắm bắt mọi thứ đang được nói, năng lượng của bạn sẽ bị hao tán trong nỗ lực đó. Vậy là bạn sẽ không tìm được sự thật qua nỗ lực, không đặt thành vấn đề người nào nói nó, dù nó là những quyển sách cổ, những vị thánh xa xưa, hay những con người hiện đại. Chính nỗ lực là sự phủ nhận của hiểu rõ; và chỉ một cái trí yên lặng, cái trí đơn giản, cái trí đứng yên, không bị quá tải bởi những nỗ lực riêng của nó – chỉ một cái trí như thế sẽ hiểu rõ, sẽ thấy sự thật. Sự thật không là cái gì đó xa xôi; không có con đường dẫn đến nó, cũng không có con đường của bạn lẫn con đường của tôi; không có con đường hiến dâng, không có con đường của hiểu biết hay con đường của hành động, bởi vì sự thật không có con đường dẫn đến nó. Khoảnh khắc bạn có một con đường dẫn đến nó, bạn phân chia nó, bởi vì con đường là loại trừ; và cái gì loại trừ tại ngay khởi đầu sẽ kết thúc trong sự loại trừ. Cái người đang theo một con đường không bao giờ có thể biết sự thật bởi vì anh ấy đang sống trong sự loại trừ; phương tiện của anh ấy là loại trừ, và phương tiện là kết thúc, không tách rời khỏi kết thúc. Nếu phương tiện là loại trừ, kết thúc cũng là loại trừ.

Vậy là, không có con đường dẫn đến sự thật, và không có hai sự thật. Sự thật không thuộc quá khứ hay hiện tại, nó là không-thời gian; cái người trích dẫn sự thật của Phật, của Shankara, của Christ, hay cái người chỉ lặp lại điều gì tôi đang nói, sẽ không tìm được sự thật, bởi vì sự lặp lại không là sự thật. Sự lặp lại là một dối trá. Sự thật là một trạng thái của đang làmà hiện diện khi cái trí mà tìm kiếm để phân chia, để loại trừ, mà chỉ có thể suy nghĩ dựa vào những kết quả, dựa vào những thành tựu, đã kết thúc. Chỉ đến lúc đó sẽ có sự thật. Cái trí đang tạo ra nỗ lực, đang kỷ luật chính nó với mục đích đạt được một kết thúc, không thể biết sự thật, bởi vì một kết thúc là sự chiếu rọi riêng của nó, và sự theo đuổi của chiếu rọi đó, dù cao cả biết chừng nào, là một hình thức của tự-tôn sùng. Một tồn tại như thế là đang tự-tôn sùng chính anh ấy, và vì vậy không thể biết sự thật.

Sự thật chỉ biết được khi chúng ta hiểu rõ toàn qui trình của cái trí, đó là, khi không có đấu tranh. Sự thật là một sự kiện, và sự kiện có thể được hiểu rõ chỉ khi nào vô vàn sự việc khác nhau bị đặt giữa cái trí và sự kiện được xóa sạch. Sự kiện là sự liên hệ của bạn với tài sản, với người vợ của bạn, với những con người, với thiên nhiên, với những ý tưởng; và chừng nào bạn còn không hiểu rõ sự kiện của sự liên hệ, sự tìm kiếm Thượng đế của bạn chỉ làm gia tăng sự hoang mang, bởi vì nó là một thay thế, một tẩu thoát, và vì vậy nó không có ý nghĩa. Chừng nào bạn còn thống trị người vợ của bạn hay cô ấy còn thống trị bạn, chừng nào bạn còn sở hữu và bị sở hữu, bạn không thể biết tình yêu; chừng nào bạn còn đang kiềm chế, đang thay thế, chừng nào bạn còn tham vọng, bạn không thể biết sự thật. Không phải sự phủ nhận của tham vọng làm cho cái trí được yên lặng, và đạo đức không là sự phủ nhận của tội lỗi. Đạo đức là một trạng thái của tự do, của trật tự, mà tội lỗi không thể mang lại. Và hiểu rõ tội lỗi là thiết lập đạo đức.

Cái người xây dựng những thánh đường và những đền chùa nhân danh Thượng đế và bằng tiền bạc mà anh ấy đã kiếm được qua sự bóc lột, qua sự lừa gạt, qua những trò chơi xấu xa và xảo quyệt, sẽ không biết sự thật; anh ấy có lẽ giẻo lưỡi, nhưng cái lưỡi của anh ấy lại cay nghiệt bởi mùi vị của sự bóc lột, mùi vị của sự đau khổ. Anh ấy, người không đang tìm kiếm, không đang đấu tranh, không đang cố gắng đạt được một kết quả, một mình, sẽ biết sự thật. Chính cái trí là một kết quả, và bất kỳ cái gì nó sản sinh vẫn còn là một kết quả. Nhưng một người mãn nguyện cùng cái gì là sẽ biết sự thật. Mãn nguyện không có nghĩa được thỏa mãn bởi tình huống như nó là bây giờ, đang duy trì những sự việc như nó là – đó không là mãn nguyện. Do bởi đang thấy một sự kiện một cách trung thực và đang được tự do, đó là sự mãn nguyện, mà là đạo đức. Sự thật không liên tiếp, nó không có một nơi cố định, nó có thể được thấy chỉ từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Sự thật luôn luôn mới mẻ, và vì vậy không-thời gian. Cái gì là sự thật ngày hôm qua không là sự thật ngày hôm nay, cái gì là sự thật ngày hôm nay không là sự thật ngày mai. Sự thật không có sự liên tục. Do bởi cái trí muốn làm cho sự trải nghiệm mà nó gọi là sự thật được tiếp tục, và một cái trí như thế sẽ không biết sự thật. Sự thật luôn luôn mới mẻ; nó là thấy cùng nụ cười, và thấy nụ cười đó một cách mới mẻ, thấy cùng con người, và thấy con người đó mới mẻ lại, thấy những cái cây đang đong đưa mới mẻ lại, gặp gỡ sự sống mới mẻ lại.

Sự thật sẽ không có được qua những quyển sách, qua hiến dâng, hay qua tự-hy sinh; nó tự-hiện diện khi cái trí được tự do, yên lặng. Và tự do đó, yên lặng đó của cái trí, hiện diện chỉ khi nào những sự kiện của những liên hệ của nó được hiểu rõ. Nếu không hiểu rõ những liên hệ của nó, bất kỳ điều gì cái trí làm chỉ tạo tác những vấn đề thêm nữa. Nhưng khi cái trí được tự do khỏi tất cả những chiếu rọi của nó, có một trạng thái của yên lặng trong đó những vấn đề đã kết thúc, và lúc đó chỉ còn cái không-thời gian, cái vĩnh hằng hiện diện. Vậy là sự thật không là vấn đề của hiểu biết, nó không là một sự việc để được ghi nhớ, nó không là một sự việc để được lặp lại, được in ấn và được loan truyền rộng rãi.

Sự thật là cái là. Nó không tên tuổi, và thế là cái trí không thể tiếp cận nó.

_________________________________________________

London, ngày 23 tháng 4 năm 1952

K

rishnamurti:Đối với hầu hết chúng ta, toàn sống của chúng ta đều được đặt nền tảng trên nỗ lực, loại ý chí nào đó. Và chúng ta không thể hình dung một hành động mà không được đặt nền tảng trên nó. Sống thuộc kinh tế, xã hội, và tạm gọi là tinh thần của chúng ta, là một chuỗi của những nỗ lực, luôn luôn đang lên đến cực điểm trong một kết quả nào đó. Chúng ta nghĩ nỗ lực là cần thiết. Vì vậy chúng ta sẽ tìm ra liệu có thể sống một cách khác hẳn, mà không có trận chiến liên tục này.

Tại sao chúng ta tạo ra nỗ lực? Nói một cách đơn giản, có phải vì mục đích đạt được một kết quả, trở thành cái gì đó, đến được một mục tiêu? Nếu chúng ta không tạo ra một nỗ lực, chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ bị trì trệ. Chúng ta có một ý tưởng về một mục tiêu mà hướng về đó chúng ta đang liên tục phấn đấu; và sự phấn đấu này đã trở thành bộ phận thuộc sống của chúng ta. Nếu chúng ta muốn thay đổi, tạo ra một thay đổi cơ bản trong chính chúng ta, chúng ta tạo ra một nỗ lực phi thường để loại bỏ những thói quen cũ kỹ, để kháng cự những ảnh hưởng môi trường sống theo thói quen, và vân vân. Vì vậy, chúng ta quen thuộc chuỗi những nỗ lực này với mục đích tìm được hay đạt được cái gì đó, với mục đích để sống.

Lúc này, liệu tất cả những nỗ lực như thế không là hoạt động của cái tôi, hay sao? Nỗ lực không là hoạt động tự cho mình là trung tâm, hay sao? Và, nếu chúng ta tạo ra một nỗ lực từ trung tâm của cái tôi, chắc chắn nó phải sản sinh xung đột nhiều hơn, hỗn loạn nhiều hơn, đau khổ nhiều hơn. Vẫn vậy, chúng ta tiếp tục thực hiện nỗ lực này kế tiếp nỗ lực khác; và chẳng có bao nhiêu người trong chúng ta nhận ra rằng hoạt động tự cho mình là trung tâm của nỗ lực không dọn dẹp bất kỳ vấn đề nào của chúng ta. Trái lại, nó gia tăng sự hỗn loạn của chúng ta và sự đau khổ của chúng ta và sự phiền muộn của chúng ta. Hoặc chúng ta biết điều này, và tuy nhiên lại tiếp tục hy vọng trong chừng mực nào đó phá vỡ hoạt động tự cho mình là trung tâm này của nỗ lực, hành động của ý chí.

Đây là nghi vấn của chúng ta – liệu có thể hiểu rõ bất kỳ vấn đề nào mà không cần nỗ lực? Liệu có thể thấy điều gì là thực sự, điều gì là đúng thực, mà không giới thiệu hành động của ý chí, mà tại cơ bản được đặt nền tảng trên cái tôi, cái ngã? Và nếu chúng ta không tạo ra một nỗ lực, liệu không có một nguy hiểm của thoái hóa, của mê muội, của trì trệ, hay sao? Như tôi đang nói, có lẽ chúng ta có thể thử nghiệm điều này từng cá nhân, và xem thử chúng ta có thể thâm nhập vào nghi vấn này sâu thẳm đến chừng nào. Bởi vì tôi cảm thấy rằng điều gì mang lại hạnh phúc, yên lặng, thanh bình của cái trí, không hiện diện qua bất kỳ nỗ lực nào. Một sự thật không nhận biết được qua bất kỳ ý nguyện, qua bất kỳ hành động nào của ý chí. Và nếu chúng ta có thể thâm nhập vào nó rất cẩn thận và siêng năng, có lẽ chúng ta sẽ tìm được đáp án.

Chúng ta phản ứng như thế nào khi một sự thật được phơi bày? Ví dụ, hãy sử dụng, vấn đề của sợ hãi. Chúng ta nhận ra rằng tại cơ bản hoạt động của chúng ta và sự hiện diện của chúng ta và toàn sự tồn tại của chúng ta sẽ được thay đổi nếu không có sự sợ hãi thuộc bất kỳ loại nào trong chúng ta. Chúng ta có lẽ thấy điều đó, chúng ta có lẽ thấy sự thật của nó; và thế là có sự tự do khỏi sợ hãi. Nhưng đối với hầu hết chúng ta, khi một sự kiện, một sự thật, được phơi bày trước chúng ta, phản ứng tức khắc của chúng ta là gì? Làm ơn, hãy thử nghiệm điều gì tôi đang nói; làm ơn đừng chỉ lắng nghe. Hãy quan sát những phản ứng riêng của bạn; và tìm ra điều gì xảy ra khi một sự kiện, một sự thật, được phơi bày trước bạn – như là ‘bất kỳ sự phụ thuộc nào trong liên hệ hủy hoại sự liên hệ’. Bây giờ, khi một phát biểu thuộc loại đó được thực hiện, phản ứng của bạn là gì? Liệu bạn thấy, liệu bạn nhận biết, sự thật của nó, và nhờ đó sự phụ thuộc kết thúc? Hay liệu bạn có một ý tưởng về sự kiện? Đây là một phát biểu của sự thật. Liệu chúng ta trải nghiệm sự thật của nó, hay liệu chúng ta sáng chế một ý tưởng về nó?

Nếu chúng ta có thể hiểu rõ toàn qui trình của sáng chế ý tưởng, vậy thì có lẽ chúng ta sẽ hiểu rõ toàn qui trình của nỗ lực. Bởi vì ngay khi chúng ta đã sáng chế ý tưởng, tiếp theo nỗ lực hiện diện. Vì vậy vấn đề nảy sinh, phải làm gì, phải hành động ra sao? Đó là, chúng ta thấy rằng, sự phụ thuộc tâm lý vào một điều gì khác là một hình thức của tự-thành tựu; nó không là tình yêu; trong nó có xung đột, sợ hãi, ham muốn để tự-thành tựu qua một điều gì khác, ghen tuông, và vân vân, mà gây hủy hoại. Chúng ta thấy rằng sự phụ thuộc tâm lý vào một điều gì khác bao gồm tất cả những sự kiện này. Vậy thì, chúng ta tiếp tục sáng chế ý tưởng, đúng chứ? Chúng ta không trải nghiệm hiệp thông sự kiện, sự thật của nó; nhưng, chúng ta quan sát nó, và sau đó sáng chế một ý tưởng của làm thế nào được tự do khỏi sự phụ thuộc. Chúng ta thấy những hàm ý của sự phụ thuộc tâm lý, và sau đó chúng ta sáng chế ý tưởng của làm thế nào được tự do khỏi nó. Chúng ta không trải nghiệm hiệp thông sự kiện, sự thật, mà là nhân tố gây giải thoát. Nhưng từ trải nghiệm của quan sát sự kiện đó, chúng ta sáng chế một ý tưởng. Chúng ta không thể nhìn ngắm nó một cách hiệp thông, mà không hình thành ý tưởng. Vậy thì, đã sáng chế ý tưởng, chúng ta tiếp tục đặt ý tưởng đó thành hành động. Sau đó chúng ta lại cố gắng lấp kín khoảng trống giữa ý tưởng và hành động – mà trong đó nỗ lực được dùng đến.

Vì vậy, liệu chúng ta không thể nhìn ngắm sự thật mà không sáng chế những ý tưởng, hay sao? Hầu như đó là một bản năng đối với chúng ta: khi cái gì đó thực sự được phơi bày trước chúng ta, ngay tức khắc chúng ta sáng chế một ý tưởng về nó. Và tôi nghĩ nếu chúng ta có thể hiểu rõ tại sao chúng ta làm điều này quá tự nhiên như bản năng, gần như không-ý thức, vậy thì có lẽ chúng ta sẽ hiểu rõ liệu có thể được tự do khỏi nỗ lực.

Vậy thì, tại sao chúng ta sáng chế những ý tưởng về sự thật? Chắc chắn, tìm ra điều đó rất quan trọng, đúng chứ? Hoặc chúng ta thấy sự thật một cách rõ ràng, chính xác như nó là, hoặc chúng ta không. Tại sao chúng ta có một hình ảnh về nó, một biểu tượng, một từ ngữ, một hình ảnh, mà khiến cho một trì hoãn trở thành cần thiết, sự hy vọng về một kết quả cuối cùng? Vì vậy, một cách ngần ngừ và thận trọng, liệu chúng ta có thể thâm nhập vào qui trình này của tại sao cái trí sáng chế hình ảnh, ý tưởng – rằng tôi phải là cái này hay cái kia, rằng tôi phải được tự do khỏi ý tưởng, và vân vân? Chúng ta hiểu rõ rằng khi chúng ta thấy cái gì đó rất rõ ràng, trải nghiệm nó một cách hiệp thông, có một tự do khỏi nó. Chính sự tức khắc đó là sức sống, không phải hình ảnh hay biểu tượng về sự thật – dựa vào đó tất cả những hệ thống và những triết lý và những tổ chức thoái hóa được xây dựng. Vì vậy, rất quan trọng phải tìm ra tại sao cái trí, thay vì thấy sự việc sự vật một cách hiệp thông và đơn giản, và trải nghiệm sự thật của nó ngay tức khắc, lại sáng chế một ý tưởng về nó?

Tôi không hiểu liệu bạn đã từng suy nghĩ về điều này. Có lẽ nó là cái gì đó mới mẻ. Và muốn tìm được sự thật của nó, làm ơn đừng chỉ chống đối. Đừng nói, ‘Điều gì sẽ xảy ra nếu cái trí không sáng chế ý tưởng? Chính chức năng của nó là phải sáng chế những ý tưởng, phải lập ra những từ ngữ, phải nhớ lại những kỷ niệm, phải công nhận, phải tính toán’. Chúng ta biết điều đó. Nhưng cái trí không được tự do; và chỉ khi nào cái trí có thể nhìn ngắm sự thật một cách tổng thể, nguyên vẹn, không có rào cản, mới có tự do.

Vì vậy, vấn đề của chúng ta là – tại sao cái trí, thay vì thấy sự việc sự vật ngay tức khắc và trải nghiệm nó một cách hiệp thông, lại buông thả trong tất cả những ý tưởng này? Đây không phải là một trong những thói quen của cái trí, hay sao? Cái gì đó được phơi bày trước chúng ta, và ngay tức khắc có thói quen cũ kỹ của sáng chế một ý tưởng, một lý thuyết về nó. Và cái trí thích sống trong thói quen. Bởi vì nếu không có thói quen, cái trí bị lạc lõng. Nếu không có một lề thói, một phản ứng thuộc thói quen đến điều mà nó đã trở nên quen thuộc, nó cảm thấy bị hoang mang, bị rối loạn.

Đó là một khía cạnh. Cũng vậy, liệu cái trí không tìm kiếm một kết quả, hay sao? Bởi vì trong kết quả là sự vĩnh cửu. Và cái trí lại ghét tình trạng không-vĩnh cửu. Nó luôn luôn tìm kiếm sự an toàn trong những hình thức khác nhau – qua những niềm tin, qua hiểu biết, qua trải nghiệm. Và khi điều đó bị ngờ vực liền có một bực dọc, lo âu. Và thế là cái trí, bởi vì lẩn trốn không-vĩnh cửu, tự-tìm kiếm sự an toàn cho chính nó bằng cách tạo ra những nỗ lực để đạt được một kết quả.

Tôi hy vọng bạn đang thực sự nhìn ngắm những cái trí riêng của bạn đang vận hành. Nếu bạn không, vậy thì bạn sẽ không trải nghiệm, cái trí của bạn sẽ vẫn còn ở trên mức độ của từ ngữ. Nhưng – nếu tôi được phép đề nghị – nếu bạn có thể nhìn ngắm cái trí riêng của bạn đang vận hành, và nhìn ngắm cách nó suy nghĩ, cách nó phản ứng, khi một sự thật được phơi bày trước nó, vậy thì bạn sẽ trải nghiệm từng bước một điều gì tôi đang nói. Vậy thì sẽ có một trải nghiệm lạ thường. Và chính sự tiếp cận hiệp thông này, trải nghiệm hiệp thông này của sự thật là gì, là cốt lõi để mang lại một sống sáng tạo.

Vì vậy, tại sao cái trí sáng chế những ý tưởng này, thay vì trải nghiệm hiệp thông? Tại sao cái trí can thiệp? Như chúng ta đã nói, nó là thói quen. Cũng vậy, cái trí muốn đạt được một kết quả. Tất cả chúng ta đều muốn đạt được một kết quả. Trong lắng nghe tôi, liệu bạn đang tìm kiếm một kết quả? Bạn đang tìm kiếm, đúng chứ? Cái trí đang tìm kiếm một kết quả; nó thấy sự phụ thuộc đó là hủy hoại, và thế là nó muốn được tự do khỏi sự phụ thuộc đó. Nhưng chính sự ham muốn được tự do lại sáng chế ý tưởng. Cái trí không được tự do; nhưng sự ham muốn được tự do sáng chế ý tưởng của tự do như một mục đích mà nó phải làm việc hướng về đó. Và thế là nỗ lực xuất hiện. Và nỗ lực đó là tự cho mình là trung tâm; nó không mang lại tự do. Thay vì phụ thuộc vào một người, bạn lại phụ thuộc vào một ý tưởng hay vào một hình ảnh. Vậy là nỗ lực của bạn chỉ là đang tự-khép kín; nó không đang giải thoát.

Lúc này, liệu cái trí, bởi vì đã nhận ra rằng nó bị trói buộc trong thói quen, có thể được tự do khỏi thói quen – không phải có một ý tưởng rằng nó phải đạt được tự do như một mục đích tối hậu, nhưng thấy sự thật rằng cái trí bị trói buộc trong thói quen, có thể trải nghiệm nó một cách hiệp thông? Và tương tự, liệu cái trí có thể thấy rằng nó đang tự-theo đuổi không ngừng nghỉ một vĩnh cửu cho chính nó, một mục đích phải đạt được, một Thượng đế, một sự thật, một đạo đức, một trạng thái của hiện diện, hay bất kỳ điều gì, và thế là đang tạo ra hành động của ý chí này, cùng tất cả những phức tạp của nó? Và khi chúng ta thấy điều đó, liệu không thể trải nghiệm sự thật của cái gì đó một cách hiệp thôngmà không có tất cả những linh tinh của diễn đạt bằng từ ngữ, hay sao? Theo khách quan, bạn có lẽ thấy một sự kiện, trong thấy đó không có hình thành ý tưởng, không có sáng chế của ý tưởng, biểu tượng, ham muốn. Nhưng theo chủ quan, phía bên trong, nó hoàn toàn khác hẳn. Bởi vì ở đó, chúng ta mong muốn một kết quả; có sự khao khát để là cái gì đó, để đạt được, để trở thành – trong đó tất cả những nỗ lực được sinh ra.

Tôi cảm thấy rằng thấy cái gì là sự thật từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, mà không có bất kỳ nỗ lực, nhưng một cách hiệp thông trải nghiệm nó, là sự hiện diện sáng tạo duy nhất. Bởi vì chỉ trong những khoảnh khắc của yên lặng tuyệt đối, bạn bắt gặp cái gì đó – không phải khi bạn đang tạo ra một nỗ lực, dù nó ở dưới kính hiển vi hay phía bên trong. Chỉ khi nào cái trí không bị kích động, không bị trói buộc trong thói quen, không cố gắng đạt được một kết quả, không cố gắng trở thành cái gì đó – chỉ khi nào nó không đang làm những việc này, khi nó thực sự yên lặng, khi không-nỗ lực, không-chuyển động – thì mới có thể bắt gặp cái gì đó mới mẻ.

Chắc chắn, đó là sự tự do khỏi cái tôi, đó là sự phủ nhận của ‘cái tôi’ – và không phải những biểu tượng phía bên ngoài, dù bạn có sở hữu đạo đức này hay đạo đức kia hay không. Nhưng sự tự do hiện diện chỉ khi nào bạn hiểu rõ những qui trình riêng của bạn, có ý thức cũng như không-ý thức. Điều đó chỉ có thể xảy ra được khi bạn thâm nhập trọn vẹn vào những qui trình khác nhau của cái trí. Và bởi vì hầu hết chúng ta đều sống trong một tình trạng của căng thẳng, trong nỗ lực liên tục; rất cần thiết phải hiểu rõ sự phức tạp của nỗ lực, phải thấy sự thật rằng nỗ lực không mang lại đạo đức, rằng nỗ lực không là tình yêu, rằng nỗ lực không mang lại sự tự do mà sự thật, một mình, có thể trao tặng – mà là một đang trải nghiệm hiệp thông. Muốn có trải nghiệm đó, người ta phải hiểu rõ cái trí, cái trí riêng của người ta – không phải cái trí của người nào khác, không phải điều gì người nào khác nói về nó. Bạn có lẽ đọc tất cả những quyển sách đã từng viết về nó nhưng chúng sẽ hoàn toàn vô ích. Bởi vì bạn phải nhìn ngắm cái trí riêng của bạn và thâm nhập vào nó càng thăm thẳm bao nhiêu càng tốt, và trải nghiệm sự thật một cách hiệp thông khi bạn đang tiến hành. Bởi vì chất lượng đang sống, không phải trong những sự việc của cái trí. Và cái trí, để tìm được những qui trình riêng của nó, phải không bị khép kín bởi những thói quen riêng của nó, nhưng thỉnh thoảng phải được tự do để nhìn ngắm. Vì vậy, hiểu rõ toàn qui trình của nỗ lực này là điều rất cần thiết. Bởi vì nỗ lực không mang lại sự tự do. Nỗ lực chỉ đang tự-khép kín mỗi lúc một dày dặc thêm, mỗi lúc một hủy hoại thêm, phía bên ngoài cũng như phía bên trong, trong sự liên hệ với một người hay với nhiều người.

Người hỏi: Tôi phát hiện rằng một nhóm người gặp gỡ thường xuyên để bàn luận những lời giảng của ông có khuynh hướng trở nên hoang mang và nhàm chán. Liệu không tốt khi suy nghĩ những điều này một mình, hơn là với những nguời khác, hay sao?

Krishnamurti: Điều gì là quan trọng? Liệu không phải là tự-tìm ra, tự-khám phá cho chính mình những vấn đề về chính mình, hay sao? Nếu điều đó là sự cần thiết thuộc bản năng, tức khắc, khẩn thiết của bạn, vậy thì bạn có thể thực hiện nó cùng một người hay cùng nhiều người, một mình bạn hoặc cùng hai người hoặc ba người. Nhưng khi điều đó không có, những nhóm người trở thành nhàm chán. Vậy thì những người tụ tập thành nhóm bị chi phối bởi một người hoặc hai người thuộc thành viên của nhóm, mà biết mọi thứ, mà hiệp thông tức khắc cùng cái người đã nói những sự việc này rồi. Vậy là, một người trở thành uy quyền, và dần dần trục lợi những người khác. Chúng ta đều biết đây là trò chơi quá quen thuộc. Nhưng con người nhượng bộ nó bởi vì họ ưa thích ở cùng nhau. Họ ưa thích nói chuyện, có những bàn tán mới nhất hay những tin tức mới nhất. Và thế là sự việc chẳng mấy chốc bị thoái hóa. Bạn khởi sự bằng một ý định nghiêm túc, và nó trở thành cái gì đó xấu xa.

Nhưng nếu chúng ta thực sự, kiên định, cảm thấy sự cần thiết phải tự-khám phá cho chính chúng ta sự thật là gì, vậy thì tất cả liên hệ trở thành quan trọng. Nhưng những người như thế hiếm hoi lắm. Bởi vì chúng ta thực sự không nghiêm túc; và thế là cuối cùng chúng ta nghĩ về những nhóm hay những tổ chức như cái gì đó phải bị lẩn tránh. Chắc chắn, nó phụ thuộc vào liệu bạn thực sự khẩn thiết để tự-khám phá những sự việc này cho chính bạn. Và sự khám phá này có thể hiện diện tại bất kỳ khoảnh khắc nào – không chỉ trong một nhóm, hay chỉ khi bạn ở một mình, nhưng bất kỳ khi nào bạn nhận biết và nhạy cảm với những gợi ý của thân tâm riêng của bạn. Nhìn ngắm về chính bạn – cách bạn nói chuyện tại bàn, cách bạn giao tiếp với người hàng xóm, người phụ thuộc bạn, người chủ của bạn – chắc chắn tất cả việc này, thể hiện trạng thái thân tâm riêng của bạn. Và chính sự khám phá này mới quan trọng. Bởi vì chính sự khám phá này mới giải thoát.

Người hỏi: Cách sáng tạo nhất khi gặp gỡ sự đau khổ và mất mát to tát là gì?

Krishnamurti: Chúng ta có ý gì qua từ ngữ gặp gỡ? Chúng ta có ý, làm thế nào để tiếp cận nó, chúng ta nên làm gì về nó, làm thế nào để khuất phục nó, làm thế nào để được tự do khỏi nó, làm thế nào để có được lợi lộc từ nó, làm thế nào để học hành từ nó để tránh bị đau khổ thêm nữa? Chắc chắn, đó là điều gì chúng ta có ý qua cụm từ ‘làm thế nào để gặp gỡ đau khổ’.

Bây giờ, chúng ta có ý gì qua từ ngữ đau khổ? Liệu nó là cái gì đó tách khỏi chúng ta? Liệu nó là cái gì đó ở phía bên ngoài của chúng ta, phía bên trong hay phía bên ngoài, mà chúng ta đang quan sát, mà chúng ta đang trải nghiệm? Liệu chúng ta chỉ là những người quan sát đang trải nghiệm? Hay đau khổ là cái gì đó khác hẳn? Chắc chắn, đó là một mấu chốt quan trọng. Khi tôi nói, ‘Tôi đau khổ’, tôi có ý gì qua câu đó? Liệu tôi khác biệt với đau khổ? Chắc chắn, đó là nghi vấn. Chúng ta hãy tìm ra.

Có đau khổ – tôi không được thương yêu hay người con trai của tôi chết. Có một mảnh của tôi đang đòi hỏi sự giải thích, những lý do, những nguyên nhân. Mảnh khác của tôi đang đau khổ vì những lý do khác nhau. Và cũng có một mảnh khác của tôi muốn được tự do khỏi đau khổ, muốn thoát khỏi nó. Chúng ta là tất cả những mảnh này, đúng chứ? Vì vậy, nếu một mảnh của tôi đang khước từ và đang chống cự đau khổ, một mảnh khác của tôi đang tìm kiếm một giải thích, bị trói buộc trong những lý thuyết, và một mảnh khác của tôi đang tẩu thoát khỏi sự kiện, vậy thì làm thế nào tôi có thể hiểu rõ nó một cách tổng thể? Chỉ khi nào tôi có thể hiểu rõ tổng thể thì mới có thể có tự do khỏi đau khổ. Nhưng nếu tôi bị xé nát trong những phương hướng khác nhau, vậy thì tôi không thấy sự thật của nó.

Vì vậy rất quan trọng phải tìm ra liệu tôi chỉ là người quan sát đang trải nghiệm đau khổ. Nếu tôi chỉ là người quan sát đang trải nghiệm đau khổ, vậy thì có hai trạng thái trong thân tâm của tôi – một trạng thái mà quan sát, suy nghĩ, trải nghiệm, và trạng thái còn lại mà là bị quan sát, mà là trải nghiệm, vật được suy nghĩ. Vì vậy, chừng nào còn có một phân chia, không có sự tự do tức khắc khỏi đau khổ.

Lúc này, làm ơn hãy lắng nghe cẩn thận và bạn sẽ thấy rằng khi có một sự kiện, một sự thật, có hiểu rõ về nó chỉ khi nào tôi có thể trải nghiệm toàn bộ sự việc mà không có sự phân chia – và không phải khi có sự tách rời của ‘cái tôi’ đang quan sát đau khổ. Đó là sự thật. Lúc này, phản ứng tức khắc của bạn với nó là gì? Phản ứng, đáp trả tức khắc của bạn không là, ‘Làm thế nào tôi sẽ lấp kín khoảng trống giữa hai thực thể? Tôi nhận ra rằng có hai thực thể khác biệt trong tôi – người suy nghĩ và vật được suy nghĩ, người trải nghiệm và trải nghiệm, nguời đau khổ và người quan sát sự đau khổ. Chừng nào còn có một phân chia, một tách rời, có xung đột. Và chỉ khi nào có sự hợp nhất thì mới có sự tự do khỏi đau khổ. Đó là sự thật, đó là sự kiện. Lúc này, bạn phản ứng đến nó như thế nào? Bạn thấy sự kiện ngay tức khắc, và trải nghiệm nó một cách hiệp thông, hay bạn đưa ra câu hỏi, ‘Làm thế nào tôi sẽ kết nối sự phân chia này giữa hai thực thể? Làm thế nào tôi sẽ tạo ra sự hợp nhất?’ Nó không là phản ứng thuộc bản năng của bạn, hay sao? Nếu nó là như thế, vậy thì bạn không đang thấy sự thật. Câu hỏi của bạn về làm thế nào tạo ra sự hợp nhất không có giá trị. Bởi vì chỉ khi nào tôi có thể thấy sự kiện một cách nguyên vẹn, tổng thể, mà không có sự phân chia này trong chính tôi, thì mới có thể có sự tự do khỏi sự kiện mà tôi gọi là đau khổ.

Vì vậy, người ta phải tìm ra, người ta nhìn ngắm sự kiện như thế nào. Không phải điều gì những quyển sách hay bất kỳ những người khác nói, không phải phụ thuộc bất kỳ nguời thầy hay uy quyền nào, nhưng bạn nhìn ngắm nó như thế nào, theo bản năng bạn tiếp cận nó như thế nào. Vậy là chắc chắn bạn sẽ phát hiện liệu thực sự có sự phân chia này trong cái trí của bạn. Chừng nào còn có sự phân chia đó, chắc chắn phải có đau khổ. Chừng nào còn có sự ham muốn được tự do khỏi đau khổ, kháng cự đau khổ, tìm kiếm những giải thích, lẩn tránh, vậy thì đau khổ trở thành cái bóng, luôn luôn đang theo đuổi.

Vì vậy, điều gì rất quan trọng trong câu hỏi là: mỗi người chúng ta phản ứng đến sự đau khổ thuộc tâm lý như thế nào – khi chúng ta bị mất đi một người thân, khi chúng ta bị tổn thương, và vân vân. Ở đây chúng ta không cần tìm hiểu những nguyên nhân của đau khổ. Nhưng chúng ta biết chúng rất rõ – sự đau đớn của cô độc; sự sợ hãi của mất mát, của không được thương yêu; bị thất vọng; mất mát một ai đó. Chúng ta chỉ quá quen thuộc với sự kiện được gọi là đau khổ này. Và chúng ta có rất nhiều giải thích gây thỏa mãn và tiện lợi. Nhưng những giải thích không mang lại sự tự do khỏi đau khổ. Chúng có lẽ che đậy, nhưng sự kiện tiếp tục. Và chúng ta đang cố gắng tìm ra làm thế nào để được tự do khỏi đau khổ, không phải giải thích nào gây thỏa mãn nhiều hơn. Có thể có sự tự do như thế chỉ khi nào có một hợp nhất. Và chúng ta không thể hiểu rõ sự hợp nhất là gì nếu trước hết chúng ta không nhận biết được chúng ta nhìn ngắm đau khổ như thế nào.

Người hỏi: Đối với những người bị trói buộc trong thói quen, dường như không thể thấy sự thật của một sự việc ngay tức khắc. Chắc chắn, thời gian được cần đến – thời gian để phá vỡ khỏi hoạt động tức khắc của nguời ta và thực sự tìm kiếm để thâm nhập điều gì đã và đang xảy ra.

Krishnamurti: Lúc này, chúng ta có ý gì qua từ ngữ thời gian? Làm ơn – lại nữa chúng ta hãy thử nghiệm. Chắc chắn, không phải thời gian theo đồng hồ. Khi bạn nói, ‘Tôi cần thời gian’, nó có nghĩa gì? Rằng bạn cần sự nhàn rỗi – một tiếng đồng hồ cho bạn, hay một vài phút cho bạn? Chắc chắn bạn không có ý điều đó? Bạn có ý, ‘Tôi cần thời gian để đạt được một kết quả’. Đó là, ‘Tôi cần thời gian để phá vỡ khỏi những thói quen mà tôi đã tạo ra’.

Bây giờ, thời gian chắc chắn là sản phẩm của cái trí; cái trí là kết quả của thời gian. Điều gì chúng ta suy nghĩ, cảm thấy, những kỷ niệm của chúng ta, tại cơ bản đều là kết quả của thời gian. Và bạn lại nói rằng thời gian là cần thiết để phá vỡ khỏi những thói quen nào đó. Đó là, thói quen thuộc tâm lý phía bên trong là kết quả của ham muốn và sợ hãi, đúng chứ? Tôi thấy cái trí bị trói buộc trong nó, và tôi nói, ‘Tôi cần thời gian để phá vỡ nó. Tôi nhận ra chính là thói quen này đang ngăn cản tôi không thấy những sự kiện ngay tức khắc, không trải nghiệm nó một cách hiệp thông, và thế là tôi phải có thời gian để phá vỡ thói quen này’.

Trước hết, làm thế nào thói quen này hiện diện? Qua giáo dục, qua những ảnh hưởng môi trường sống, qua những kỷ niệm riêng của chúng ta. Cũng vậy, có một hệ thống máy móc đang vận hành theo thói quen là rất dễ chịu, để cho nó không bao giờ bị hoang mang, run sợ, thắc mắc, ngờ vực, lo âu. Vậy là, cái trí tạo ra khuôn mẫu mà chúng ta gọi là thói quen, lề thói. Và trong đó nó vận hành. Và người hỏi muốn biết làm thế nào để phá vỡ thói quen đó, để cho trải nghiệm có thể hiệp thông. Bạn thấy điều gì đã xảy ra?

Khoảnh khắc chúng ta nói Làm thế nào? chúng ta đã giới thiệu ý tưởng của thời gian. Nhưng nếu chúng ta có thể thấy rằng cái trí tạo ra những thói quen, và vận hành trong thói quen, và rằng một cái trí bị khép kín bởi những kỷ niệm, những ham muốn, và những sợ hãi tự-tạo tác riêng của nó không thể thấy hay trải nghiệm bất kỳ sự kiện gì một cách hiệp thông – khi chúng ta có thể thấy sự thật của điều đó, vậy thì có thể có trải nghiệm hiệp thông. Chắc chắn, sự nhận biết sự thật không là một vấn đề của thời gian. Đó là một trong những tiện lợi của cái trí – mà cuối cùng, cuộc sống đời sau; tôi sẽ đạt được sự hoàn hảo, hay bất kỳ điều gì tôi muốn. Thế là bởi vì bị trói buộc, sau đó cái trí tiếp tục nói: Làm thế nào tôi sẽ được tự do? Nó không bao giờ đượctự do. Nó có thể tự do chỉ khi nào nó thấy sự thật của làm thế nào nó tạo ra thói quen bởi truyền thống, bởi vun đắp những đạo đức với mục đích để là cái gì đó, bởi tìm kiếm để có sự vĩnh cửu, để có sự an toàn. Tất cả những sự việc này là những cản trở. Trong tình trạng đó, làm thế nào cái trí có thể thấy hay trải nghiệm bất kỳ sự kiện nào một cách hiệp thông? Nếu chúng ta thấy rằng nó không thể, vậy là có sự tự do tức khắc. Nhưng dĩ nhiên, sự khó khăn là hầu hết chúng ta đều thích tiếp tục trong những thói quen của sự suy nghĩ và cảm thấy, những truyền thống, những niềm tin, và những hy vọng của chúng ta. Chắc chắn, cái trí được tạo thành bởi tất cả những điều đó. Làm thế nào một cái trí như thế có thể trải nghiệm bất kỳ thứ gì mà không là sự chiếu rọi riêng của nó? Chắc chắn, nó không thể. Vì vậy, nó chỉ có thể hiểu rõ hệ thống máy móc riêng của nó và thấy sự thật của những hoạt động riêng của nó. Và vậy là, có sự tự do khỏi điều đó, vậy là có trải nghiệm hiệp thông.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2024(Xem: 114)
Đức Phật là Đại Y Vương, bậc tuệ tri mọi pháp, Thầy của trời người. Sau khi giác ngộ, trở thành bậc Chánh Đẳng Giác. Ngài đi khắp nơi thuyết pháp độ sinh, kết quả là độ thoát vô số chúng hữu tình, đặc biệt để lại cho đời một kho tàng Chánh Pháp mà theo đó tùy theo căn cơ, sở trường của hành giả ứng dụng để chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Những gì Ngài thuyết là từ tự thân thực chứng của Ngài (chứ không nghe từ ai cả), có nghĩa có văn từ sơ thiện, trung thiện cho đến hậu thiện, thiết thực trong hiện tại, có khả năng hướng thượng, nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, đến để mà thấy, được người trí tự mình giác hiểu.
15/10/2024(Xem: 300)
Đây là câu hỏi hay, cũng là vấn đề khó biện giải bằng thức tri và tưởng tri của một người học Phật, ngoài trừ Bậc Tuệ Tri Mọi Pháp, Bậc Toàn Thiện, Toàn Giác, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điệu Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn mới có thể làm cho vấn đề sáng tỏ, làm cho khai thị, làm cho khai ngộ, làm cho minh hiển "như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc... "
06/10/2024(Xem: 405)
Tịnh Độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa. Pháp sư Huệ Viễn được coi là Tổ đầu tiên của Tịnh tông Trung Hoa; thành lập Bạch Liên Xã quy tụ được hơn ba ngàn cả tăng lẫn tục toàn các bậc hào kiệt trong đời, trong đó có 18 vị là bậc thượng thủ, để lại cho hậu thế đời sau vô số câu chuyện vãng sinh ly kỳ. Đây là tông phái siêu việt, với nhiều đặc thù thuộc Đại thừa viên đốn. Gọi Đại thừa bởi tông này lấy tâm Bồ đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả. Viên, bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm thâu cả Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Đại thừa chung giáo và Đại thừa đốn giáo. Đốn, vì tông này không luận bàn về pháp tướng mà chỉ chuyên về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ lớp, tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thối chuyển. Đây chính là những điểm siêu xuất, đặc thù của tông Tịnh Độ.
20/09/2024(Xem: 894)
Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.
30/08/2024(Xem: 355)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
30/08/2024(Xem: 542)
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
28/08/2024(Xem: 1186)
Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ Độ chúng-sanh không bỏ một ai Lòng thương yêu khắp nhân-loài Không hề muốn thấy một ai khổ trần Đường chơn-chánh trên hơn tất cả Nẻo nhiệm-mầu chẳng có chi bì Muốn người rõ tánh từ-bi Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời
28/06/2024(Xem: 1606)
Bố thí và cúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát. Suốt cuộc đời Đức Phật, ngài đã sống bằng phẩm vật cúng dường. Tương tự, sự phát triển của Phật giáo lan rộng khắp thế giới và được hộ trì cho tới giờ cũng là nhờ phẩm vật cúng dường của đàn na thí chủ. Do vậy, bài này được viết để mời nhau giữ hạnh bố thí và cúng dường.
06/05/2024(Xem: 736)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ. So với hai kinh kia thì kinh A Di Đà ngắn, ngôn ngữ dễ hiểu, nội dung không quá thâm sâu hay mật nghĩa như những kinh Đại Thừa khác. Phật tử bắc tông phần nhiều ai cũng đọc tụng và khá nhiều người thuộc nằm lòng.
16/04/2024(Xem: 905)
Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com