HẠNH PHÚC KHẮP QUANH TA
Nguyên Minh
Hối tiếc về những gì mình đã làm sai, hoặc những gì mà lẽ ra nên làm nhưng đã không làm, là những suy nghĩ tích cực có ý nghĩa giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, tránh được những sai lầm trước đây và ngày càng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta luôn ray rứt, tự trách về những sai lầm trong quá khứ của mình, cảm giác này sẽ không còn mang ý nghĩa tích cực nữa mà trở thành một hình phạt nặng nề cho tự thân, làm cho tâm hồn ta không lúc nào được thanh thản, và vì thế mà nó cướp đi mọi nguồn vui sống, nhấn chìm chúng ta vào những khổ đau triền miên. Chúng ta thường gọi trạng thái này là mặc cảm tội lỗi.
Khi chúng ta biết hối lỗi, ta thừa nhận những gì sai trái mình đã làm với một ý hướng tích cực là sẽ không làm như thế nữa trong tương lai. Tương tự, nếu ta hối tiếc vì đã không làm một điều tốt đẹp nào đó, ta cũng tự hứa với mình là nếu gặp một tình huống tương tự trong tương lai, ta nhất định sẽ làm.
Trong cả hai trường hợp, những ý hướng này làm nảy sinh động lực thúc đẩy cho hành vi của chúng ta. Vì thế, nó giúp ta năng động hơn, nỗ lực nhiều hơn để có thể thực hiện được những ý hướng của mình.
Ngược lại, khi chúng ta mang mặc cảm tội lỗi, chúng ta tự giày vò bản thân, rơi vào tâm trạng chán chường và cảm thấy bất lực vì không thể làm gì được để thay đổi một kết quả trong quá khứ. Trong trường hợp này, ta không muốn làm bất cứ điều gì khác ngoài việc tự trách mình. Vì thế, ta không có động lực nào thúc đẩy những hành vi sắp tới, và vì thế ta trở nên thụ động, yếu đuối hơn.
Sự khiếm khuyết hoặc sai lầm của mỗi chúng ta là điều khó tránh. Nhưng đó không phải là lý do để chúng ta từ chối vươn lên sự hoàn thiện. Trong thực tế, ý nghĩa cuộc sống chính là nằm ở chỗ vươn lên sự hoàn thiện. Khi chúng ta đánh mất ý hướng này, cuộc sống sẽ trở nên vô vị và không còn động lực để sống đúng nghĩa.
Vì thế, sự hối lỗi là một yếu tố tất yếu phải có nơi mỗi người. Không biết hối lỗi, chúng ta không có động lực để vươn lên sự hoàn thiện. Không biết hối lỗi, chúng ta không rút tỉa được những kinh nghiệm quý báu từ những sai lầm đã qua. Sự hối lỗi càng chân thành thì khả năng hoàn thiện trong tương lai cũng càng mạnh mẽ hơn.
Nhưng mặc cảm tội lỗi thì ngược lại. Nó làm chậm tiến trình vươn lên của ta, đẩy ta vào chỗ bế tắc và đánh mất sinh lực trong cuộc sống. Mặc cảm tội lỗi làm cho chúng ta không còn tự tin nơi mình, luôn nhìn mọi sự vật với một thái độ bi quan và thụ động. Mặc cảm tội lỗi càng lớn thì bạn càng có nhiều nguy cơ suy sụp cả tinh thần lẫn thể chất.
Vì thế, chúng ta cần có sự phân biệt và tránh đừng để những mặc cảm tội lỗi đeo đuổi lâu dài trong cuộc sống. Tuy nhiên, việc loại bỏ những mặc cảm tội lỗi nhiều khi cũng không phải là chuyện dễ dàng. Một nhận thức đúng như trên là tiền đề quyết định, nhưng đôi lúc chúng ta cũng còn cần đến những phương thức hỗ trợ nhất định, nhất là khi mặc cảm ấy sản sinh từ một sai lầm rất nghiêm trọng hoặc để lại những hậu quả lâu dài.
Khi chúng ta không thể tự mình dứt bỏ một mặc cảm tội lỗi, chúng ta cần thực hiện những biện pháp hỗ trợ tích cực để làm được việc này. Nếu chúng ta mang mặc cảm vì một sai lầm gây tác hại nặng nề đến ai đó, chúng ta cần trực tiếp nhận lỗi với người ấy để được tha thứ. Sự tha thứ của người bị hại sẽ là một động lực rất quan trọng có thể giúp ta dứt bỏ mặc cảm tội lỗi.
Nhưng không phải lúc nào ta cũng có thể làm được điều này. Trong những trường hợp mà người bị hại không may đã chết hoặc đi xa và ta không còn có dịp để tiếp xúc với người ấy, hoặc vì một lý do nào khác, ta có thể nhận lỗi với một người thứ ba, thường phải là một người có khả năng đưa ra sự tha thứ, chẳng hạn như một bậc trưởng thượng hoặc một người nâng đỡ tinh thần. Hình thức xưng tội của tín đồ Thiên chúa giáo chính là mang ý nghĩa này.
Tín đồ Phật giáo thường thực hiện nghi thức sám hối mỗi tháng hai lần, với ý nghĩa nhắc nhở ta phải biết hối lỗi và buông bỏ những mặc cảm tội lỗi. Tuy nhiên, một số Phật tử không được giảng giải đầy đủ về ý nghĩa này và khi đó việc sám hối sẽ giảm đi phần nào hiệu quả của nó. Khi tham dự một lễ sám hối, điều tất yếu là người sám hối phải biết tự soi rọi lòng mình, nhớ lại tất cả những điều sai trái đã làm và chân thành phát lộ sám hối. Sau khi sám hối, chỉ giữ lại trong lòng một ý hướng sửa chữa sai lầm, hoàn thiện bản thân, mà không còn mang nặng mặc cảm tội lỗi nữa. Đây là dựa vào đức tin và ý chí phục thiện để dứt bỏ mặc cảm tội lỗi, cũng là một phương pháp vô cùng hữu hiệu.
Chúng ta cũng có thể quán niệm ý nghĩa vô thường của mọi sự vật để dứt bỏ mặc cảm tội lỗi. Khi một sai lầm đã xảy ra, ta không thể làm gì khác ngoài việc chấp nhận những hậu quả của nó. Mặc cảm tội lỗi thường sinh ra trong ý nghĩa này, khi ta cảm thấy bất lực không thể thay đổi được gì, và những hậu quả của sai lầm sẽ mãi mãi còn đó. Tuy nhiên, cách nghĩ này không hoàn toàn đúng. Bởi vì bản chất của mọi sự vật là liên tục thay đổi và không thường tồn. Nói cách khác, mọi việc đều sẽ thay đổi theo thời gian. Vì thế, chúng ta sẽ hoàn toàn vô lý khi ôm ấp mãi trong lòng mặc cảm tội lỗi về một việc đã làm. Chúng ta không thể thay đổi được việc đã làm, nhưng chúng ta có thể làm rất nhiều việc khác trong ý nghĩa để khắc phục sai lầm đã mắc phải. Việc mang nặng trong lòng một mặc cảm và không làm gì cả là một thái độ hoàn toàn tiêu cực và không thể mang lại bất cứ ý nghĩa tích cực nào.
Nguyên Minh
HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU
SỰ HỐI LỖI VÀ MẶC CẢM
Không có ai trong chúng ta là hoàn thiện theo nghĩa tuyệt đối. Hầu hết chúng ta đều đã từng mắc phải những lỗi lầm nào đó. Có thể chỉ là những lỗi lầm vụn vặt không đáng kể, nhưng cũng có thể là những sai lầm nghiêm trọng gây tác hại nặng nề. Nói chung, bởi vì chúng ta đều là những con người, nên điều tất yếu là mỗi chúng ta đều đã từng sai trái.Hối tiếc về những gì mình đã làm sai, hoặc những gì mà lẽ ra nên làm nhưng đã không làm, là những suy nghĩ tích cực có ý nghĩa giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, tránh được những sai lầm trước đây và ngày càng vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta luôn ray rứt, tự trách về những sai lầm trong quá khứ của mình, cảm giác này sẽ không còn mang ý nghĩa tích cực nữa mà trở thành một hình phạt nặng nề cho tự thân, làm cho tâm hồn ta không lúc nào được thanh thản, và vì thế mà nó cướp đi mọi nguồn vui sống, nhấn chìm chúng ta vào những khổ đau triền miên. Chúng ta thường gọi trạng thái này là mặc cảm tội lỗi.
Khi chúng ta biết hối lỗi, ta thừa nhận những gì sai trái mình đã làm với một ý hướng tích cực là sẽ không làm như thế nữa trong tương lai. Tương tự, nếu ta hối tiếc vì đã không làm một điều tốt đẹp nào đó, ta cũng tự hứa với mình là nếu gặp một tình huống tương tự trong tương lai, ta nhất định sẽ làm.
Trong cả hai trường hợp, những ý hướng này làm nảy sinh động lực thúc đẩy cho hành vi của chúng ta. Vì thế, nó giúp ta năng động hơn, nỗ lực nhiều hơn để có thể thực hiện được những ý hướng của mình.
Ngược lại, khi chúng ta mang mặc cảm tội lỗi, chúng ta tự giày vò bản thân, rơi vào tâm trạng chán chường và cảm thấy bất lực vì không thể làm gì được để thay đổi một kết quả trong quá khứ. Trong trường hợp này, ta không muốn làm bất cứ điều gì khác ngoài việc tự trách mình. Vì thế, ta không có động lực nào thúc đẩy những hành vi sắp tới, và vì thế ta trở nên thụ động, yếu đuối hơn.
Sự khiếm khuyết hoặc sai lầm của mỗi chúng ta là điều khó tránh. Nhưng đó không phải là lý do để chúng ta từ chối vươn lên sự hoàn thiện. Trong thực tế, ý nghĩa cuộc sống chính là nằm ở chỗ vươn lên sự hoàn thiện. Khi chúng ta đánh mất ý hướng này, cuộc sống sẽ trở nên vô vị và không còn động lực để sống đúng nghĩa.
Vì thế, sự hối lỗi là một yếu tố tất yếu phải có nơi mỗi người. Không biết hối lỗi, chúng ta không có động lực để vươn lên sự hoàn thiện. Không biết hối lỗi, chúng ta không rút tỉa được những kinh nghiệm quý báu từ những sai lầm đã qua. Sự hối lỗi càng chân thành thì khả năng hoàn thiện trong tương lai cũng càng mạnh mẽ hơn.
Nhưng mặc cảm tội lỗi thì ngược lại. Nó làm chậm tiến trình vươn lên của ta, đẩy ta vào chỗ bế tắc và đánh mất sinh lực trong cuộc sống. Mặc cảm tội lỗi làm cho chúng ta không còn tự tin nơi mình, luôn nhìn mọi sự vật với một thái độ bi quan và thụ động. Mặc cảm tội lỗi càng lớn thì bạn càng có nhiều nguy cơ suy sụp cả tinh thần lẫn thể chất.
Vì thế, chúng ta cần có sự phân biệt và tránh đừng để những mặc cảm tội lỗi đeo đuổi lâu dài trong cuộc sống. Tuy nhiên, việc loại bỏ những mặc cảm tội lỗi nhiều khi cũng không phải là chuyện dễ dàng. Một nhận thức đúng như trên là tiền đề quyết định, nhưng đôi lúc chúng ta cũng còn cần đến những phương thức hỗ trợ nhất định, nhất là khi mặc cảm ấy sản sinh từ một sai lầm rất nghiêm trọng hoặc để lại những hậu quả lâu dài.
Khi chúng ta không thể tự mình dứt bỏ một mặc cảm tội lỗi, chúng ta cần thực hiện những biện pháp hỗ trợ tích cực để làm được việc này. Nếu chúng ta mang mặc cảm vì một sai lầm gây tác hại nặng nề đến ai đó, chúng ta cần trực tiếp nhận lỗi với người ấy để được tha thứ. Sự tha thứ của người bị hại sẽ là một động lực rất quan trọng có thể giúp ta dứt bỏ mặc cảm tội lỗi.
Nhưng không phải lúc nào ta cũng có thể làm được điều này. Trong những trường hợp mà người bị hại không may đã chết hoặc đi xa và ta không còn có dịp để tiếp xúc với người ấy, hoặc vì một lý do nào khác, ta có thể nhận lỗi với một người thứ ba, thường phải là một người có khả năng đưa ra sự tha thứ, chẳng hạn như một bậc trưởng thượng hoặc một người nâng đỡ tinh thần. Hình thức xưng tội của tín đồ Thiên chúa giáo chính là mang ý nghĩa này.
Tín đồ Phật giáo thường thực hiện nghi thức sám hối mỗi tháng hai lần, với ý nghĩa nhắc nhở ta phải biết hối lỗi và buông bỏ những mặc cảm tội lỗi. Tuy nhiên, một số Phật tử không được giảng giải đầy đủ về ý nghĩa này và khi đó việc sám hối sẽ giảm đi phần nào hiệu quả của nó. Khi tham dự một lễ sám hối, điều tất yếu là người sám hối phải biết tự soi rọi lòng mình, nhớ lại tất cả những điều sai trái đã làm và chân thành phát lộ sám hối. Sau khi sám hối, chỉ giữ lại trong lòng một ý hướng sửa chữa sai lầm, hoàn thiện bản thân, mà không còn mang nặng mặc cảm tội lỗi nữa. Đây là dựa vào đức tin và ý chí phục thiện để dứt bỏ mặc cảm tội lỗi, cũng là một phương pháp vô cùng hữu hiệu.
Chúng ta cũng có thể quán niệm ý nghĩa vô thường của mọi sự vật để dứt bỏ mặc cảm tội lỗi. Khi một sai lầm đã xảy ra, ta không thể làm gì khác ngoài việc chấp nhận những hậu quả của nó. Mặc cảm tội lỗi thường sinh ra trong ý nghĩa này, khi ta cảm thấy bất lực không thể thay đổi được gì, và những hậu quả của sai lầm sẽ mãi mãi còn đó. Tuy nhiên, cách nghĩ này không hoàn toàn đúng. Bởi vì bản chất của mọi sự vật là liên tục thay đổi và không thường tồn. Nói cách khác, mọi việc đều sẽ thay đổi theo thời gian. Vì thế, chúng ta sẽ hoàn toàn vô lý khi ôm ấp mãi trong lòng mặc cảm tội lỗi về một việc đã làm. Chúng ta không thể thay đổi được việc đã làm, nhưng chúng ta có thể làm rất nhiều việc khác trong ý nghĩa để khắc phục sai lầm đã mắc phải. Việc mang nặng trong lòng một mặc cảm và không làm gì cả là một thái độ hoàn toàn tiêu cực và không thể mang lại bất cứ ý nghĩa tích cực nào.
Gửi ý kiến của bạn