Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Tác Giả

11/12/201016:13(Xem: 8903)
Lời Tác Giả

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

LỜI TÁC GIẢ

Chư Phật theo căn cơ của chúng sanh mà thuyết pháp. Căn cơ của chúng sanh có sai khác. Đối với những người chỉ mong muốn hưởng phúc thế gian, trong cõi người hoặc trên các cõi trời, thì Phật dạy về Nhân thừa và Thiên thừa. Đối với những người mong cầu chóng được giải thoát khỏi sự sống chết, thì Phật dạy về Thanh Văn thừa hoặc Duyên giác thừa. Riêng đối với những người có lòng từ bi rộng lớn, mong muốn độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo, thành Phật dạy về Bồ-tát thừa, tức Đại thừa.

Nhưng mặc dầu theo căn cơ, Phật dạy những pháp môn thích hợp, Phật vẫn không rời bản nguyện, muốn cho tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo, nên cả những phép Nhân thừa, Thiên thừa của đạo Phật, cũng rất khác với lối tu của ngoại đạo và đều là một bước trên con đường tu hành, đi đến quả Phật.

Sự khác nhau giữa năm thừa lả ở các thừa dưới, Phật phát triển nhiều những đạo lý thông thường và chỉ nói lược về những đạo lý cao sâu. Ngược lại, ở các thừa trên, Phật phát triển nhiều những đạo lý cao sâu và chỉ nói lược về những đạo lý thông thường.

Vì thế, những người có căn cơ Đại thừa, cũng có thể tu hành theo Nhân thừa, Thiên thừa, đi sâu vào những đạo lý vi diệu của các thừa ấy và chứng được những quả vị Tam hiền Thập thánh của Bồ-tát thừa, ví dụ như thọ phép Tam quy và nhất tâm quy y tự tính Tam bảo, hoặc tu phép thập thiện mà đoạn trừ si mê đến cỗi gốc, thì vẫn có thể minh tâm kiến tánh.

Ngược lại, cũng có người tu học Bồ-tát thừa, nhưng căn cơ quá thấp kém thì cuối cùng cũng chỉ được những quả Nhân thừa mà thôi. Lại có những vị tu học Bồ-tát thừa, nhưng cứ hiểu chữ nào nghĩa nấy, không đi sâu vào Đệ nhất nghĩa đế, thì cũng chỉ chứng được những quả vị Thanh Văn, vì chính hai chữ Thanh Văn cũng có nghĩa là: “Nghe tiếng nói chứ không nghe đạo lý”. Lại cũng có vị tu tập theo đạo lý “Pháp giới trùng trùng duyên khởi” mà chỉ chứng được những quả vị của Duyên Giác thừa, vì quá thiên về tự giác, mà không giác được đại nguyện giác tha rộng lớn.

Xét như vậy thì rõ việc chia ra năm thừa chỉ là phương tiện, chứ không phải có những ranh giới nhất định, giữa thừa này và thừa khác. Huống nữa, việc học hỏi chu đáo Nhân thừa và Thiên thừa, cũng là cơ sở để hiểu rõ đạo lý các thừa trên, thì càng nhận biết Nhân, Thiên thừa cũng là một bước, trên con đường viên thành Phật đạo.

Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi. Các bạn sẽ thấy Phật pháp là một giáo lý hoàn chỉnh, đi từ chỗ thấp đến chỗ cao và nếu chưa hiểu rõ về Nhân thừa, Thiên thừa thì cũng khó lòng hiểu được những đạo lý cao xa của các thừa trên. Chúng tôi đặc biệt chú ý các bài Nhân quả và nghiệp báo, vì các bạn khó tìm những đoạn tổng hợp đầy đủ những đạo lý nào trong các kinh điển.

Chúng tôi trông mong sự giới thiệu sơ lược đạo lý của Phật trong các bài Phật học thường thức sẽ giúp đỡ các bạn sơ cơ học hiểu dễ dàng hơn Tam tạng kinh điển của Phật giáo, làm cho chúng tôi được dịp báo ơn Tam bảo trong muôn một.

Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.

Viết xong tại chùa Quảng Bá, Hà Nội

Ngày 18 tháng 10 năm 1965

Tâm minh Lê Đình Thám

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 164)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 162)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 157)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 132)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 123)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 150)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 153)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 140)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 843)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]