Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Tịnh Tự Tri

22/10/201101:30(Xem: 3472)
Thiền Tịnh Tự Tri

 

Thiền Tịnh Tự Tri

(“Giữa vầng trăng một niệm vô ngôn”)

Tuệ Thiền Lê Bá Bôn

1)Giới thiệu:Đây là một phương cách cải thiện bộ não và sức khoẻ thân tâm, thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả, thuận hợp đạo lí của vũ trụ. Dù có theo tôn giáo hay không, dù thuộc tôn giáo nào, nếu thực hành là có lợi ích lớn. (Được rút ra từ kho báu văn hoá minh triết).

2)Cách ngồi:Ngồi trên một cái ghế; mặt ghế khoảng tầm thấp hơn đầu gối hoặc ngang đầu gối. Ngồi thẳng lưng, nhưng không ưỡn ngực. Hai bàn tay úp trên hai đầu gối. Ngồi sao cho thoải mái bình thường là được.

3)Cách thở và lắng nghe: Giữ hơi thở ra vào đều, nhẹ và hơi dài. Khi thở vào, bụng hơi lớn ra một chút. Tuy nhiên, nếu thấy không thoải mái thì cứ thở tự nhiên theo thói quen. Điều quan trọng là phải tĩnh tâm lắng nghe (cảm nhận) hơi thở ra và vào. Nghe hơi thở một cách bình thường, không được tập trung khí lực vào cơ thể. Điều thiện ích lớn xuất sinh từ năng lượng của sự lắng nghe này. Thời gian thực hành nhiều ít tuỳ ý, nhưng không nên bỏ thực hành ngày nào cả. Sự tĩnh tâm (chú tâm) lắng nghe hơi thở là ánh sáng của trí tuệ-tâm linh.

(Ở đây, để tham khảo, xin ghi lại bài vè thở bụng của Nguyễn Khắc Viện. Ông Viện là một bác sĩ Tây y và là một nhà văn hoá. Ông cho rằng công trình quan trọng của ông là bài vè này. Ông nói nó đáng được nhận bằng tiến sĩ. Nó chữa được nhiều bệnh tật. Một ông giáo sư áp dụng bài vè này đã chữa lành bệnh gai cột sống dạng nan y (các bệnh viện lớn đã bó tay). Bài vè được viết sau khi ông Viện nghiên cứu các tài liệu tôn giáo và Đông y cổ để tự chữa bệnh phổi nan y của ông. Nội dung bài vè – theo tạp chí Tài Hoa Trẻ số 93 năm 1999: Thót bụng thở ra/ Phình bụng thở vào/ Hai vai bất động/ Chân tay thả lỏng/ Êm, chậm, sâu, đều/ Bình thường qua mũi/ Khi gấp qua mồm/ Ở đâu cũng được/ Lúc nào cũng được).

4)Thiền định tự tri:Sau thời gian tập thở và lắng nghe hơi thở (lâu mau tuỳ ý), thì chuyển qua lắng nghe những nói năng trong tâm trí. Đây gọi là thiền định tự tri (tức là quán tâm). Lắng nghe tâm trí mang năng lượng thiện ích cực lớn, cho mình và cho toàn vũ trụ, cho toàn thể chúng sinh, vì đó là hạnh nguyện đại thừa. Sự thông minh tối thượng sẽ tự biết cách lắng nghe tâm trí; đó là trí vô sư.

Tâm trí luôn nhớ nghĩ (tức là nói năng bên trong) lắm chuyện không thật sự cần thiết; gọi là vọng tưởng vô minh, không thấu triệt lí duyên sinh-vô ngã của thế giới hiện tượng. Lắng nghe vọng tưởng (tức là lắng nghe những nói năng trong tâm trí) một cách thâm sâu và tự nhiên thì tâm trí có sự đột chuyển, vọng tưởng im lặng (dừng lại): tâm sáng tỏ, tỉnh thức với tuệ giác tối thượng, an vui cực lạc. Đó là những giây phút vô niệm, vô ngã, mở con mắt sự sống; là những giây phút của nhân cách tự-do-tinh-thần, siêu vượt khái niệm và tướng trạng, bất sinh bất diệt, diệu dụng từ bi hỉ xả.

5)Ý nghĩa tôn giáo: Trạng thái tâm trí tĩnh lặng, sáng tỏ tỉnh thức, ngộ nhập với tính chất nhất thể của vũ trụ, đầy an vui cực lạc và thiện ích này có nhiều cách đề cập khác nhau. Ở đây xin nêu một liên hệ với Phật giáo.

Cách lắng nghe tâm trí này khế hợp với pháp môn thiền “Phản văn văn tự tánh”. Đây là pháp môn thiền phổ biến của Ngài Bồ tát Quán Thế Âm. “Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánh là thực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy… Tự tánh là Phật tánh (tánh giác), là tâm vô niệm (tức là tâm trí tĩnh lặng, sáng tỏ, tịch tri); là vô ngã, là chân ngã, là tâm linh vĩnh hằng. Nhận ra tự tánh là giác ngộ, là tự tri tự ngộ đích thực, Viên Giác hiện tiền; đó là giá trị tối thượng.

Bồ tát Quán Thế Âm là một vị cổ Phật hành Bồ tát đạo của Đại thừa. Những người tin tưởng Ngài, dù không theo đạo Phật, thường chú tâm niệm câu “Nam mô đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát”, hoặc niệm câu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” khi gặp sự khổ đau phiền não. Đã có nhiều nghiên cứu khoa học nói về sự linh ứng này (dĩ nhiên là tuỳ thuộc vào tính chất tâm nghiệp)… John Spencer, một tiến sĩ y khoa danh tiếng, đã có những công trình nghiên cứu nghiêm túc về lợi ích lớn của sự tự cầu nguyện chân chính và sự cầu nguyện cho người khác, dù thực hành theo tôn giáo hay tín ngưỡng thánh thiện nào. (Các dạng cầu nguyện đúng đắn đều có tác dụng giảm bớt vọng niệm).

Nên biết rằng, dưới cái nhìn của vật lí lượng tử thì ảnh hưởng của trạng thái tâm linh (tâm trí) đến sức khoẻ, đến hoàn cảnh, đến tha nhân, đến xã hội và vũ trụ là một sự thật hiển nhiên... Tâm linh vừa mang tính chất cá thể (cá nhân), vừa mang tính chất tổng thể (vũ trụ). Fritjof Capra, một nhà vật lí danh tiếng, một giáo sư ở nhiều đại học Anh và Mĩ, nói trong Đạo Của Vật Lí: “Nền vật lí này bây giờ đã thấy rằng vũ trụ là một mạng lưới chằng chịt vật chất và tâm linh liên quan mật thiết với nhau, mà mỗi phần tử chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với toàn thể”. Vì vậy, theo nhiều nhà khoa học hiện đại thì phẩm chất đáng quý nhất của trí tuệ, của đạo đức, của giáo dục-đào tạo, của tương tác xã hội là năng lực cộng thông với “trí tuệ vũ trụ”, tức là dạng năng lực ở trạng thái vô niệm (im lặng tư tưởng-tỉnh giác). Đó cũng chính là hành động tối thượng, là phẩm chất tối thượng của tâm linh tôn giáo.

6)Tham khảo thêm:

*-Lắng nghe những nói năng, những nhớ nghĩ trong tâm trí (tức tự tri) mang năng lượng có công năng cải thiện nghiệp báo đau khổ, phiền não. (Nghiệp báo là vấn đề nhân quả, do tâm ý tạo trong vòng sinh tử luân hồi)… Nguyễn Chung Tú (nguyên hiệu phó trường đại học Hùng Vương, giáo sư tiến sĩ vật lí) nói: “Có thể nói rằng gien nghiệp là cái do mỗi người tự tạo cho mình. Khi một người chết đi, thân thể vật lí của người ấy tan hoại, nhưng cái nghiệp ấy vẫn tiếp tục di truyền qua nhiều đời sống của người ấy”. Ông nhắc lại lời một học giả khác rằng: “Tâm tính là định mệnh” - một câu nói rất quan trọng. (Nguyệt san Giác Ngộ số 17 năm 1997).

*-Deepak Chopra, giáo sư tiến sĩ y khoa, viết trong Sự Sống Sau Cái Chết (một tác phẩm rất nổi tiếng): “Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số nào đó. Đâu đó trong thời không, có những bình diện khác nhau đồng thời tồn tại”. Ở một chỗ khác ông nói rằng, cái mà Einstein gọi là “trường tiềm năng” làm tăng các sự kiện không gian-thời gian, cái đó nhiều tôn giáo gọi là linh hồn.

*-Vọng tưởng là biểu hiện của chấp ngã (cái “tôi”), của vô minh. Thiền Luận (D.T.Suzuki) viết: “Nếu giác ngộ đã làm cho toàn thể vũ trụ rung chuyển sáu cách khác nhau như kinh chép thì vô minh, khi chưa bị hàng phục, ắt vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng vì bản chất và hiệu lực, thần lực ấy diễn ngược lại hẳn với giác ngộ”. (D.T.Suzuki là một cư sĩ thiền sư).

*-Trịnh Xuân Thuận (nhà vật lí thiên văn) nói rằng các hạt quarks - từng được coi là những viên gạch cơ bản của vật chất - chỉ là cấu trúc tâm thức. Vì thế, theo nhiều nhà khoa học tự nhiên, năng lượng tâm thức là dạng năng lượng cơ bản, có ảnh hưởng tốt hay xấu cho toàn vũ trụ tuỳ tính chất tâm thức.

*-Masuru Emoto và các cộng sự đã phát hiện ảnh hưởng của năng lượng tâm ý đối với cấu trúc và chất lượng nước. (Giáo Dục Và Thời Đại Chủ Nhật số 47 năm 2006}.

*-Hiến chương Liên Hiệp Quốc mở đầu với câu: “Vì chiến tranh bắt đầu từ trong tâm trí con người, nên cũng từ trong tâm trí con người mà sự bảo vệ hoà bình được thiết lập”.

*-A. Ciechanover (Nobel hoá học năm 2004) cảnh báo: “Khoa học phát triển với tốc độ chóng mặt, đến mức cần phải cân nhắc đến nhiều vấn đề vốn là kết quả của sự phát triển đó”. (Các vấn đề càng ngày càng đáng sợ do con người gây ra là: siêu thiên tai, lan tràn bạo lực và chiến tranh, bành trướng vũ khí hạt nhân và vũ khí sinh học, môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng, thực phẩm chứa đầy độc hại, gia tăng nhiều bệnh tật hiểm nghèo, tai nạn giao thông tràn lan, dân đen bị trí-công-cụ bóc lột đa dạng, đói khát, tranh giành quyền lợi khốc liệt, sa đọa lương tri, sa đọa tinh thần, tâm bệnh…).

*-Karen Shanor, một nhà sinh học nữ, nói: “Nhiều nghiên cứu khoa học đã khiến cho melatonin ngày càng được biết đến với giá trị như một phân tử chống ung thư.(…).Thú vị là việc luyện thiền được coi là một hành động kích thích tuyến tùng và giúp tạo ra đủ lượng melatonin cần thiết”. (Trí Tuệ Nổi Trội).

*-Tạp chí Tài Hoa Trẻ số 404 (năm 2006) viết: “Hai nghiên cứu khoa học mới đây đã cho thấy rằng ngồi thiền có một sự tác động quan trọng cả về tinh thần lẫn về mặt sinh học”. (Ngồi thiền rất có lợi cho sức khoẻ).

*-Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỉ 20 (Thích Thanh Từ) nói: “Bao nhiêu kinh điển, bao nhiêu pháp tu, đức Phật đều dạy xoay quanh cái trục: chận đứng tâm suy nghĩ lăng xăng”. Vì thế, theo sách, có một vị thiền sư có ai hỏi về yếu chỉ Phật pháp, ngài trả lời ngắn gọn: Đừng vọng tưởng. Đây cũng chính là huyền nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh.

*-“Vô niệm là tối thượng thừa”. (Thiền sư Thần Hội).

*-Kinh Viên Giác nói: “Tri huyễn tức li, li huyễn tức giác”. (Tri huyễn là nghe và thấy rõ mọi động niệm của tâm ý. Nghe và thấy rõ vọng tưởng thì vọng tưởng tự tịnh,Tánh Viên Giác hiện tiền).

*-Trong quyển Krishnamurti Ở Carmel có nói rằng: “Gọi là Thượng Đế hay chân lí đều như nhau. Chân lí là giải thoát tâm trí khỏi mọi gánh nặng của trí nhớ”. (Đây là trí nhớ tâm lí - thứ trí nhớ lấy sự chấp ngã làm trọng tâm).

*-Đường Về Minh Triết (Tuệ Thiền; NXB Văn Nghệ, 2007) viết: “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả”.

“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình”.

“Thiền định tự tri thì không thuộc riêng tôn giáo nào hay nền văn hoá-giáo dục nào, đó là tài sản cực kì quý giá của nhân loại muôn đời, của vũ trụ”.

“Giáo dục “toạ thiền-quán hơi thở-tự tri” là biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả giáo dục, thăng hoa tâm trí, cải thiện thế giới”.

*-Nhớ quê hương tâm linh (tức tự tánh), Trần Thái Tôn, một ông vua giàu thiền tâm, viết câu thơ rất hay: “Lênh đênh làm khách phong trần mãi / Ngày hết, quê xa vạn dặm đường!”

*-Kinh Phật nói, sống nương theo mười điều thiện (thập thiện đạo) là điều kiện tốt để cải thiện nghiệp và vãng sinh thế giới chư thiên, có duyên tu tập tự giác-giác tha. Thập thiện đạo chứa đựng nhiều điểm chung của các tôn giáo.

*-Ngày nay có rất nhiều người muốn có sự tỉnh thức tâm linh, muốn đến với Đạo (chân lí tuyệt đối). Fritjof Capra viết trong Đạo Của Vật Lí: “Thiền không còn bị nhìn với sự nghi ngờ, đạo học đã được coi trọng, ngay cả trong cộng đồng khoa học”.

*-Lục tổ Huệ Năng đã chứng ngộ khi còn là một cư sĩ quê mùa lo việc giã gạo ở chùa.Trong khi đó, hiện nay hậu duệ của Ngài có tu sĩ đã từng là tài năng lớn lúc chưa xuất gia, như M. Ricard (nhà sinh học người Pháp), B. Glassman (tiến sĩ toán học ở NASA), L. Kaye (phó giám đốc hãng IBM ở Mĩ)…

*-K. Shanor nói trong lời nói đầu quyển Trí Tuệ Nổi Trội (NXB Tri Thức, 2007): “Những phát hiện khoa học mới đây và những kinh nghiệm tâm linh đã từng có lúc hoà hợp nhau. Đây là điểm tốt cho kỉ nguyên mới. Khoa học có sự liên kết với bản chất tâm linh của nhân loại sẽ có thể bỏ xa khoa học công nghệ của quá khứ trong việc đóng góp vào sự phồn vinh của nhân loại”.

(Bạn đọc có cảm hứng trao đổi, xin liên hệ với tác giả theo các địa chỉ cóở www.google.com.vn).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/06/2024(Xem: 1133)
Soi sáng thực tại thực ra là tên chúng tôi đặt cho những bài ghi chép tóm tắt các buổi đàm đạo hay tham vấn thiền với Hòa thượng Viên Minh trong giờ uống trà buổi sáng tại khách đường Chùa Bửu Long. Những buổi đàm đạo này đã có từ lâu nhưng chỉ giới hạn trong nội bộ chùa. Về sau một Phật tử đến tham dự buổi trà đàm thấy hay nên muốn được nghe thường xuyên đã sắm cho chùa thiết bị để có thể nghe từ xa qua Skype. Từ đó số người đến trực tiếp nghe thầy nói chuyện hoặc nghe từ xa ngày càng đông nên đã mở thêm qua YouTube theo nhu cầu của Phật tử muốn tham dự.
31/10/2023(Xem: 2665)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 4402)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 7316)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 11421)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 9653)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 19110)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 5981)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 7884)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 4469)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com