- 1. Madras, 16 tháng mười hai 1972
- 2. Brockwood Park, 11 tháng mười một 1971
- 3. Cùng học sinh tại trường Rajghat, 19 tháng mười hai 1952
- 4. Bombay, 12 tháng hai 1950
- 5. Ojai, 28 tháng tám 1949
- 6. Bombay, 12 tháng ba 1950
- 7. New York, 18 tháng sáu 1950
- 8. Seattle, 6 tháng tám 1950
- 9. Madras, 3 tháng hai 1952
- 10. Sự cô độc: Từ quyển Bình phẩm về sống Tập 1
- 11. Bàn luận cùng Giáo sư Maurice Wilkins, Brockwood Park, 12 tháng hai 1982
- 12. Từ quyển Sự thức dậy của Thông minh
- 13. Brockwood Park, 30 tháng tám 1977
- 14. Saanen, 18 tháng bảy 1978
- 15. Bombay, 31 tháng giêng 1982
- 16. Cùng những người trẻ ở Ấn độ: Từ quyển Cuộc sống trước mặt
- 17. Saanen, 18 tháng bảy 1968: Từ Nói chuyện và Đối thoại ở Saanen 1968
- 18. Saanen, 5 tháng tám 1962
- 19. Bombay, 21 tháng hai 1965
- 20. London, 7 tháng tư 1953
- 21. Saanen, 26 tháng bảy 1973
- 22. Saanen, 23 tháng bảy 1974
- 23. Madras, 5 tháng hai 1950
BÀN VỀ TÌNH YÊU VÀ SỰ CÔ ĐỘC
[ON LOVE AND LONELINESS]
Lời dịch: Ông Không 2009
Nếu bạn không có tình yêu – dù làm bất kỳ điều gì bạn muốn, theo sau tất cả những thần thánh trên quả đất, thực hiện tất cả những hoạt động xã hội, cố gắng cải thiện những người nghèo, tham gia chính trị, viết sách, làm thơ – bạn là một người chết rồi. Nếu không có tình yêu những vấn đề của bạn sẽ gia tăng, sinh sôi vô tận. Và với tình yêu, dù làm bất kỳ điều gì bạn muốn, không có nguy hiểm, không có xung đột. Lúc đó tình yêu là bản thể của đạo đức.Bombay, 21 tháng hai 1965
MỤC LỤC
Lời tựa
Madras, 16 tháng mười hai 1972
Brockwood Park, 11 tháng chín 1971
Cùng học sinh tại Rajghat School, 19 tháng mười hai 1952
Bombay, 12 tháng hai 1950
Ojai, 28 tháng tám 1949
Bombay, 12 tháng ba 1950
New York, 18 tháng sáu 1950
Seattle, 6 tháng tám 1950
Madras, 3 tháng hai 1952
Sự cô độc: Từ quyển Bình phẩm về sống Tập 1
Bàn luận cùng Giáo sư Maurice Wilkins, Brockwood
Park, 2 tháng hai 1982
New York, 24 tháng tư 1971:Từ quyển Sự thức dậy của Thông minh
Brockwood Park, 30 tháng tám 1977
Saanen, 18 tháng bảy 1978
Bombay, 31 tháng giêng 1982
Cùng những người trẻ tại Ấn độ: Từ quyển Cuộc đời trước mặt
Saanen, 18 tháng bảy 1968: Từ Nói chuyện và Đối thoại tại Saanen 1968
Saanen, 5 tháng tám 1962
Bombay, 21 tháng hai 1965
London, 7 tháng tư 1953
Saanen, 26 tháng bảy 1973
Saanen, 23 tháng bảy 1974
Madras, 5 tháng hai 1950Jiddu Krishnamurrti được sinh ra ở Ấn độ năm 1895 và, lúc 13 tuổi, được bảo trợ bởi Tổ Chức Thần học Theosophical Society, đã công nhận ông là phương tiện cho “Thầy Thế Giới” mà sự xuất hiện của ông đã được công bố từ trước. Chẳng mấy chốc K đã nổi lên như một người thầy, không thể phân hạng, không thỏa hiệp và đầy quyền năng; những buổi nói chuyện và những tác phẩm của ông không liên quan đến bất kỳ tôn giáo đặc biệt nào và cũng không thuộc phương Đông hay phương Tây nhưng dành cho toàn thế giới. Cương quyết phủ nhận hình ảnh đấng Cứu thế, vào năm 1929 ông tuyên bố giải tán tổ chức lớn và giàu có đã được xây dựng quanh ông và tuyên bố sự thật là “một mảnh đất không lối vào”, không thể tiếp cận được bởi bất kỳ tôn giáo, triết lý hay giáo phái chính thức nào.
Trong suốt cuộc đời còn lại K liên tục phủ nhận danh vị đạo sư mà những người khác cố gắng ép buộc ông phải nhận. Ông tiếp tục thu hút vô số người khắp thế giới nhưng khẳng định không là uy quyền, không muốn những môn đồ, và luôn luôn nói chuyện như một cá thể cùng một cá thể khác. Tâm điểm những lời giáo huấn của ông là nhận ra những thay đổi cơ bản trong xã hội chỉ có thể được tạo ra bởi sự thay đổi của ý thức cá thể. Sự cần thiết phải hiểu rõ về chính mình và hiểu rõ những ảnh hưởng gây tách rời, gây giới hạn của tình trạng bị quy định thuộc quốc gia và tôn giáo liên tục được nhấn mạnh. Krishnamurti luôn luôn vạch ra sự cần thiết cấp bách phải có được sự khoáng đạt, phải có được “không gian rộng lớn trong bộ não” mà trong đó có năng lượng vô hạn. Điều này dường như đã là nguồn suối của sự sáng tạo riêng của ông và cốt lõi cho những ảnh hưởng to tát của ông đối với vô số người khắp thế giới.
Source: thuvienhoasen