- 1. Bombay, ngày 6 tháng 1 năm 1960
- 2. Eddington, Pennsylvania, ngày 12 tháng 6 năm 1936
- 3. Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu Âu năm 1967, London, ngày 30 tháng 9 năm 1967
- 4. Seatle, ngày 16 tháng 7 năm 1950
- 5. Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu âu năm 1967, Paris, ngày 30 tháng 4 năm 1967
- 6. Từ quyển: Tự do đầu tiên và cuối cùng, Chương 28
- 7. Từ quyển: Cuộc sống trước mặt, Chương 4
- 8. Từ quyển: Cuộc Sống Trước Mặt, Chương 7 với Những Người Trẻ
- 9. Từ quyển: Bình phẩm về cuộc sống Quyển một, Chương 18
- 10. Bombay, ngày 3 tháng 3 năm 1965
- 11. Bangalore, ngày 4 tháng 7 năm 1948
- 12. Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948
- 13. Bombay, ngày 27 tháng 2 năm 1955
- 14. Bombay, ngày 24 tháng 12 năm 1958
- 15. Bombay, ngày 8 tháng 3 năm 1961
- 16. London, ngày 23 tháng 10 năm 1949
- 17. Madras, ngày 29 tháng 1 năm 1964
- 18. Madras, ngày 15 tháng 12 năm 1974
- 19. Từ quyển: Ghi Chép của Krishnamurti
- 20. New Delhi, ngày 31 tháng 10 năm 1956
- 21. Ojai, ngày 5 tháng 7 năm 1953
- 22. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955 - Nói chuyện
- 23. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi
- 24. Saanen, ngày 2 tháng 8 năm 1964
- 25. Saanen, ngày 1 tháng 8 năm 1965
- 26. Từ quyển: Sự kết thúc của thời gian, ngày 2 tháng 4 năm 1980
- 27. Từ quyển: Sổ tay của Krishnamurti
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008
Bombay, ngày 6 tháng 1 năm 1960
Eddington, Pennsylvania, ngày 12 tháng 6 năm 1936
Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu âu năm 1967,
London, ngày 30 tháng 9 năm 1967
Seattle, ngày 16 tháng 7 năm 1950
Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu âu năm 1967,
Paris, ngày 30 tháng 4 năm 1967
Từ quyển: Tự do đầu tiên và cuối cùng, Chương 28
Từ quyển: Cuộc sống trước mặt, Chương 4
Từ quyển: Cuộc sống trước mặt, Chương 7, với Những người trẻ
Từ quyển: Bình phẩm về cuộc sống Quyển một, Chương 18
Bombay, ngày 3 tháng 3 năm 1965
Bangalore, ngày 4 tháng 7 năm 1948
Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948
Bombay, ngày 27 tháng 2 năm 1955
Bombay, ngày 24 tháng 12 năm 1958
Bombay, ngày 8 tháng 3 năm 1961
London, ngày 23 tháng 10 năm 1949
Madras, ngày 29 tháng 1 năm 1964
Madras, ngày 15 tháng 12 năm 1974
Từ quyển: Sổ tay của Krishnamurti
New Delhi, ngày 31 tháng 10 năm 1956
Ojai, ngày 5 tháng 7 năm 1953
Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Nói chuyện
Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi
Saanen, ngày 2 tháng 8 năm 1964
Saanen, ngày 1 tháng 8 năm 1965
Từ quyển: Sự kết thúc của thời gian, ngày 2 tháng 4 năm 1980
Từ quyển: Sổ tay của Krishnamurti
Jiddu Krishnamurrti được sinh ra ở Ấn độ năm 1895 và, lúc 13 tuổi, được bảo trợ bởi Tổ Chức Thần học Theosophical Society, đã công nhận ông là phương tiện cho “Thầy Thế Giới” mà sự xuất hiện của ông đã được công bố từ trước. Chẳng mấy chốc K đã nổi lên như một người thầy, không thể phân hạng, không thỏa hiệp và đầy quyền năng; những buổi nói chuyện và những tác phẩm của ông không liên quan đến bất kỳ tôn giáo đặc biệt nào và cũng không thuộc phương Đông hay phương Tây nhưng dành cho toàn thế giới. Cương quyết phủ nhận hình ảnh đấng Cứu thế, vào năm 1929 ông tuyên bố giải tán tổ chức lớn và giàu có đã được xây dựng quanh ông và tuyên bố sự thật là “một mảnh đất không lối vào”, không thể tiếp cận được bởi bất kỳ tôn giáo, triết lý hay giáo phái chính thức nào.
Trong suốt cuộc đời còn lại K liên tục phủ nhận danh vị đạo sư mà những người khác cố gắng ép buộc ông phải nhận. Ông tiếp tục thu hút vô số người khắp thế giới nhưng khẳng định không là uy quyền, không muốn những môn đồ, và luôn luôn nói chuyện như một cá thể cùng một cá thể khác. Tâm điểm những lời giáo huấn của ông là nhận ra những thay đổi cơ bản trong xã hội chỉ có thể được tạo ra bởi sự thay đổi của ý thức cá thể. Sự cần thiết phải hiểu rõ về chính mình và hiểu rõ những ảnh hưởng gây tách rời, gây giới hạn của tình trạng bị quy định thuộc quốc gia và tôn giáo liên tục được nhấn mạnh. Krishnamurti luôn luôn vạch ra sự cần thiết cấp bách phải có được sự khoáng đạt, phải có được “không gian rộng lớn trong bộ não” mà trong đó có năng lượng vô hạn. Điều này dường như đã là nguồn suối của sự sáng tạo riêng của ông và cốt lõi cho những ảnh hưởng to tát của ông đối với vô số người khắp thế giới.
Ông tiếp tục giảng thuyết khắp thế giới cho đến khi qua đời năm 1986 ở tuổi chín mươi. Những buổi nói chuyện, những cuộc đối thoại, những lá thư và những bài viết trên báo của ông đã được tổng hợp thành hơn sáu mươi quyển. Từ những lời giáo huấn nhiều như thế một loạt những quyển sách có đề mục này đã được biên soạn, mỗi quyển sách tập trung vào một đề tài có liên quan đặc biệt và khẩn cấp trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.