Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Phật: đạo sự thật, đạo cứu khổ, đạo hòa bình

19/05/201106:40(Xem: 4957)
Đạo Phật: đạo sự thật, đạo cứu khổ, đạo hòa bình

white_lotus_10
ĐẠO PHẬT: đạo SỰ THẬT, đạo CỨU KHỔ, đạo HÒA BÌNH
GS001 viết bài này để kính tặng tất cả các vị lãnh đạo trên thế giới

Mặc dầu tất cả các tôn giáo đều ca ngợi tình thương, nhưng cho đến nay, ngoại trừ Phật giáo, tất cả các tôn giáo khác đã từng có những cuộc thánh chiến đẫm máu. Riêng về Phật giáo, khoảng thế kỷ 12, đạo Hồi cũng đã tàn sát Chư tăng và triệt phá các cơ sở giáo dục của Phật giáo trong các nước nam Á, trong đó có Ấn độ và Afganistan. Tuy nhiên người ta không hề thấy có sự trả thù của Phật giáo trong vụ này. Phải chăng giáo lý đạo Phật có một tình thương chân thật, giúp cho tín đồ của họ sống hòa bình dễ dàng hơn với các tôn giáo khác?

So với các tôn giáo khác đạo Phật, với tinh thần “giác ngộ” các sự thật, là tôn giáo gần gũi nhất với khoa học. Nhất là khi cả 2 bên đều đặt nền tảng trên LUẬT NHÂN QUẢ. Nếu trong các ngành khoa học, các tôn giáo có thể ngồi lại với nhau, bằng tinh thần sự thật, thì họ cũng có thể làm được như vậy đối với đạo Phật? Vì những sự thật mà đạo Phật tuyên bố, không đòi hỏi phải có đức tin mới có thể chấp nhận được, mà chỉ cần có Trí tuệ thì đều có thể thấy được như nhau. Mỗi khi Hòa bình được đặt nền tảng trên sự thật thì hòa bình sẽ có nhiều đồng thuận và sẽ được bền bỉ nhất.

Đạo Phật cho rằng, thế gian này khổ vì ba thứ Tham, Sân, và Si, trong đó Si mê (thiếu trí tuệ) là gốc cội của tất cả. Chính vì thiếu trí tuệ (vô minh) để thấy rõ những sự thật mà con người có những suy nghĩ và hành động lầm lẫn do Tham lam hoặc Thù hận thúc đẩy để gây ra đau khổ cho mình, cho người. Thế giới không sống được trong hòa bình cũng do ba thứ Tham, Sân, Si gây ra chiến tranh. Do đó những sự thật mà con người cần chứng ngộ để chấm dứt Tham, Sân, Si, gây đau khổ cho mình, cho người, thì các nhà lãnh tụ trên thế giới cũng có thể áp dụng để chấm dứt Tham, Sân, Si gây ra chiến tranh cho nhân loại, để nhân loại luôn luôn được sống trong hòa bình.

1. Sự thật đầu tiên, mà mọi người con Phật đều phải chứng ngộ là LUẬT NHÂN QUẢ, nói rộng ra là LÝ DUYÊN KHỞI. Đó là sự thật được dùng làm nền tảng để suy diễn ra các sự thật kế tiếp.Luật Nhân quả là một sự thật về mọi biến đổi ở trong vũ trụ. Mọi sự hình thành của vạn vật ở trong vũ trụ, vật chất cũng như tinh thần, được Đức Phật xác định qua Định đề sau đây và định đề này luôn luôn được nghiệm đúng trong mọi trường hợp:

Các Pháp do duyên sinh
Duyên diệt các Pháp diệt.

Luật nhân quả là một sự thật mà không một quyền năng thần thánh nào có thể vượt qua được. Cũng vì luật nhân quả này mà khi ta bị bệnh, ta phải đi bác sĩ hay nhà thương để họ tìm nguyên nhân chữa trị, chứ không thể ngồi cầu nguyện ai mà khỏi bệnh. (nếu có được chăng thì cũng không phải là một giải pháp có thể chấp nhận được vì kết quả chưa chắc đến 1%). Cũng vì luật nhân quả mà con người đã thiết lập nên những hệ thống công lý cho xã hội, chứ không thể căn cứ trên đức tin tôn giáo mà xét tội.

Luật nhân quả khẳng định rằng chính tư tưởng và hành động của mình định liệu hạnh phúc hay đau khổ cho mình, chứ không phải do sự ban ơn giáng hoạ của một đấng thần linh nào cả. Nếu ta làm sai thì ta phải chịu hậu quả sai. Nếu ta làm đúng thì ta được phần thưởng đúng. Nhờ hiểu được những điều căn bản này nên người Phật tử không bao giờ dám nhân danh Phật hay một đấng thần linh nào để gây khổ đau cho kẻ khác.

Người Phật tử còn được giáo dục kỹ lưỡng hơn về luật nhân quả của Tình thương. Trong những trường hợp giản dị, nếu ta tạo được hạnh phúc cho người thì người cũng sẽ tạo lại hạnh phúc cho ta. Nếu ta gây đau khổ cho người thì người cũng sẽ gây lại đau khổ cho ta. Trong tương quan này Đức Phật còn dạy thêm:

Lấy oán báo oán, oán oán chồng chất
Lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu diệt.”

“Ân” có khả năng dập tắt “Oán” cũng như “nước” có khả năng dập tắt “lửa”, đó cũng là một luật nhân quả. Nhờ thấu hiểu những lời dạy này mà người Phật tử chân chính không nghĩ đến chuyện trả thù, vì nó chỉ gây thêm đau khổ triền miên, không phải là hành động của một người trí tuệ.

Giáo lý Đạo Phật còn đưa ra vô số gương hy sinh chịu đựng của các vị Bồ tát để nhắc nhở cho các Phật tử về sự quí giá của tình thương. Vì tình thương có khả năng tạo hạnh phúc, cho ta cho người, trong mọi hoàn cảnh, hơn bất cứ một thứ châu báu nào trên thế gian, cho nên các vị Bồ tát (những chúng sanh có trí tuệ, những người sẽ thành Phật trong tương lai) luôn luôn gìn giữ tâm từ của mình không khác gì người giàu bảo vệ tài sản của họ.

Dầu trong những trường hợp bị cắt da xẻ thịt, họ vẫn có thể cầu nguyện sự an vui cho kẻ thù, không để lòng thù hận dấy lên làm sứt mẻ tình thương của mình. Phát triển tình thương đến độ như thế thì không còn ai có thể gây đau khổ cho ta, và sẽ an vui trong mọi hoàn cảnh. Cho nên một vị lãnh đạo có trí tuệ phải hiểu rằng, thương yêu kẻ thù không những có thể cải đổi được kẻ thù mà còn tạo hạnh phúc tức khắc cho chính mình.

2. Cuộc sống bấp bênh, thế gian VÔ THƯỜNG. Đó là sự thật thứ hai mà đa số người Phật tử thấu hiểu. Nhờ ý thức sự vô thường là không thể tránh, nên người Phật tử dễ dàng chấp nhận những đổi thay, ít đau khổ và ít tức giận mỗi khi bị mất mát. Cũng chính vì sự thật vô thường này nên Đức Phật dạy không nên quá ràng buộc vào bất cứ thứ gì, kể cả những lời dạy gọi là “chân lý” của ngài: “giáo lý ta chỉ như thuyền qua sông, đến bờ rồi phải bỏ”.

Giáo lý của Phật là giáo lý để “giải thoát” chứ không phải là giáo điều để cột buộc tín đồ. Phật chưa bao giờ tuyên bố “các ngươi phải theo ta hay tôn thờ ta. Trái lại, ngài khuyên nhủ: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi, với chánh pháp”. Đó là lý do người Phật tử ít có sự cố chấp, ràng buộc; coi mọi giá trị, đúng, sai, tốt, xấu, chỉ có tính cách tương đối, tuỳ duyên, và tạm thời. Do đó người Phật tử dễ dàng thông cảm và “tuỳ thuận chúng sanh”. Dễ dàng sống hoà bình với các tư tưởng khác.

Chiến tranh và độc tài thường xảy ra do con người lạm dụng sức mạnh để bắt người khác phải theo những ham muốn của mình. Nếu sự ham muốn bị cản trở, người ta rất dễ tức giận và có khi trở thành độc ác, không ngần ngại trừ diệt kẻ yếu thế. Người Phật tử thấu triệt luật vô thường, biết không có một sức mạnh nào có thể tồn tại mãi mãi, lạm dụng sức mạnh để gây khổ đau cho kẻ khác cũng chính là tự sửa soạn cho mình một tương lai đau khổ. Đó không phải là hành động của kẻ có trí tuệ.

Khi một nhà lãnh tụ thấu triệt được sự thật VÔ THƯỜNG, thì ông ta cũng sẽ bớt lạm dụng quyền lực để đạt tham vọng của mình. Nhất là khi ông ta đã biết trước rằng dầu tham vọng có đạt được đi nữa thì rồi một ngày kia ông ta cũng sẽ mất hết tất cả, rồi cũng chỉ còn lại thương tiếc và khổ đau. Do đó nếu thấy điều mình ham muốn sẽ gây chiến tranh khổ đau cho người khác thì ông ta cũng sẽ dễ dàng từ bỏ.

Điều khôn ngoan hơn là: khi ta đang có khả năng hay quyền lực, thì hãy dùng khả năng và quyền lực đó để giúp đỡ kẻ khác. Đó là sửa soạn cho mình một hạnh phúc lâu dài hơn, bảo vệ sức mạnh của mình lâu dài hơn, vì đã không gieo ra những “nhân” thù hận muốn phá hoại sức mạnh của mình. Đây cũng là lý do tại sao các tôn giáo (đặt nặng về tình thương) đã tồn tại lâu hơn bất cứ một “đế quốc” nào từ xưa tới nay.

3. KHỔlà một sự thật của cuộc đời. Đó là sự thật thứ ba mà đạo Phật luôn luôn khẳng định. Tuy nhiên đạo Phật không lìa bỏ sự khổ của thế gian để đi tìm thiên đàng ở một thế giới khác. Trái lại đạo Phật nhìn nhận “đời là khổ” để tìm “nguyên nhân của sự khổ” để tận diệt những nguyên nhân đó, để đạt được Niết bàn ngay trên thế gian khổ đau này. Đó là điểm rất tích cực của đạo Phật đối với sự khổ.

Cho nên đạo Phật không phải là đạo bi quan tiêu cực như nhiều kẻ “yêu đời” kết án. Sự khẳng định sự thật khổ của cuộc đời làm cho Đạo Phật càng thêm yêu đời chứ không phải để chán đời. Sự chán đời chỉ để dành cho những kẻ “yêu đời” bị thất vọng khi họ phải đối diện với sự thật khổ mà họ đã không tin từ trước. Chứ mỗi khi đã chấp nhận “đời là khổ” thì sẽ bớt đòi hỏi cuộc đời và sẽ yêu thương và lo lắng cho cuộc đời nhiều hơn. Đó cũng như những người biết quê hương mình nghèo khổ nên biết lo lắng và yêu thương quê hương mình hơn.

Khi công nhận “đời là khổ” chắc chắn người Phật tử có khả năng chịu đựng sự khổ hơn bất cứ ai. Đó cũng như một bác nông phu có khả năng chịu đựng khổ đau hơn bất cứ nhà triết lý hay các nhà tôn giáo nào. Tuy nhiên đạo Phật không phải là một bác nông phu hay một người dân quê nghèo nàn ít kiến thức, mà là một đạo có trí tuệ, hiểu biết LUẬT NHÂN QUẢ, biết rằng mọi vấn đề đều phải có nguyên nhân của nó và phải có cách để cắt đứt những nguyên nhân để không cho xảy ra sự kiện.

Do đó đạo Phật là tôn giáo độc nhất trên thế gian này có 4 CHÂN LÝ VI DIỆU (4 Noble Truths) phân tích rõ ràng về sự Khổ, phân tích rõ ràng về Nguyên nhân của Khổ, phân tích rõ ràng về Niết bàn, lúc khổ được tận diệt, và phân tích rõ ràng về Con đường đi đến Niết bàn. Cho nên sự cứu khổ thế gian của đạo Phật giống như sự chửa bênh của một ông bác sĩ thông thái, hiểu rõ về bệnh, hiểu rõ nguyên nhân của bệnh, hiểu rõ sự lành bệnh, và hiểu rõ về cách chửa bệnh. Chứ không phải như những ông lang băm, chữa bệnh mà không biết nguyên nhân của bệnh. Một nhà lãnh tụ nếu có sự hiểu biết về 4 CHÂN LÝ VI DIỆU chắc chắn sẽ không là một kẻ gây ra đau khổ cho thế gian.

4. Sự thật thứ tư là sự thật VÔ NGÃ. Đây là sự thật rốt ráo nhất mà người Phật tử cần giác ngộ để chấm dứt hoàn toàn khổ đau. Nếu các lãnh tụ trên thế giới cũng giác ngộ được sự thật này thì có lẻ chiến tranh sẽ không còn tồn tại trên quả đất này. Vì không còn sự xung đột giữa các phe nhóm quốc gia, hay tôn giáo.

Sự thật VÔ NGÃ nói rằng cái gọi là “TA” chỉ là một ảo tưởng (illusion) không thực có. Đây là một sự thật rất khó tin, khó lãnh hội, vì nó trái ngược lại với những hiện tượng “Ngã” mà ai cũng thấy hằng ngày. Sự thật VÔ NGÃ càng khó tin hơn chuyện ngày xưa khi ông Galileo tuyên bố với đức Giáo Hoàng về sự thật “quả đất đi quanh mặt trời” chứ không phải “mặt trời đi quanh quả đất”.

Tuy nhiên, một người trí tuệ có thể giác ngộ sự thật vô ngã qua sự khảo sát chính mình từ ngoài vào trong, bằng tinh thần khách quan của một nhà khoa học. Phương cách khảo sát này đạo Phật gọi là TỨ NIỆM XỨ. Khi thực hành TỨ NIỆM XỨ trước hết ta sẽ khám phá ra rằng “Ta” hoàn toàn được tạo thành bởi những thứ “không ta”. Những thứ “không ta” tạo nên ta và tạo nên sự sống của ta. Ví dụ NƯỚC, ví dụ MẶT TRỜI. Không thực sự có một biên giới giữa “ta” và “không ta”.

Ta thật sự không là chủ nhân của bất cứ thứ gì, ngay cả cái thân xác của mình. Bởi thế dầu ta không muốn bị già thân vẫn cứ già, dầu ta không muốn bị bệnh thân vẫn bệnh, dầu ta không muốn chết, thân vẫn cứ chết. Tất cả những gì gọi là của ta đều là của bên ngoài và luôn luôn biến đổi theo nhân duyên với những thứ bên ngoài khác. Cho nên khi khảo sát cho thật kỹ những gì gọi là của ta thì sẽ giác ngộ ra rằng “Ta không có gì cả”, “Ta không là bất cứ thứ gì cả”. Mà khi ta không là gì cả thì không còn ai chịu sinh, lão, bệnh, khổ.

Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối.Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả. Như vậy chính xác thì phải nói rằng “Ta thấy mọi cảm thọ, chứ không phải ta cảm thọ”. Điều đó có nghĩa là “ta thấy sự khổ đau” chứ không phải “ta khổ đau”. Đó là lý do Niết bàn (chấm dứt sự khổ) của đạo Phật có thể hiện diện ngay trong sự Khổ.

Trên quan điểm hòa bình cho thế giới thì một nhà lãnh tụ ít lắm cũng cảm nhận được sự thật VÔ NGÃ qua sự thật: Quả đất chưa hề có lằn ranh ngăn cách giữa các quốc gia. Như vậy thì tại sao loài người lại tự ngăn cách nhau để rồi trở thành ích kỷ và tranh giành, để sinh ra chiến tranh?

Đúng ra, mọi con người đều phải là “công dân chung của cả thế giới” (world citizen). Tất cả quả đất đều phải là quê hương rộng lớn của ta. Nếu ta không phải là kẻ tội phạm, ta phải có quyền đi lại bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu thân yêu này. “Quyền công dân thế giới” phải được công nhận ít lắm là cho các nhà khoa học, các thương gia, các kỷ nghệ gia, các nhà lãnh tụ, không có tinh thần kỳ thị chủng tộc, vì họ đã làm lợi ích cho toàn thể nhân loại.

Nếu lãnh tụ các quốc gia có trí tuệ “Vô Ngã” thì tinh thần ích kỷ quốc gia sẽ giảm bớt, sẽ không lạm dụng sức mạnh của mình để lấn áp các quốc gia khác. Với tinh thần Vô Ngã họ sẽ thương yêu và xây đắp hoà bình, an vui, phồn thịnh, cho các dân tộc láng giềng như cho chính dân tộc của mình. Họ có thể dễ dàng đồng thuận với Liên Hiệp Quốc thành lập một chính phủ chung cho toàn thể nhân loại.

Khi cả thế giới đều đã sống chung trong một đại gia đình để không còn biên giới giữa các quốc gia, thì thế giới sẽ hết cảnh các nước lớn tham lam ăn nuốt các nước nhỏ. Các nước nhỏ do đó cũng sẽ hết sân hận thù hằn các nước lớn. Những phí tổn lớn lao cho chiến tranh, cho quân đội, sẽ đem dùng cho các mục tiêu Hòa bình. Toàn nhân loại sẽ cùng cộng tác Trí tuệ tài lực để chấm dứt sự đói nghèo và bệnh hoạn ở trên quả đất này.

Quả đất do đó sẽ thành chốn “địa đàng” cho tất cả mọi dân tộc. Đó là nguồn hạnh phúc lâu bền mà các vị lãnh đạo có thể tạo dựng cho các con cháu sau này. Đó là một nguồn hạnh phúc lớn lao và có ý nghĩa hơn bất cứ một “đế quốc” nào có thể ban cho. Đó là nguồn hạnh phúc thuần khiết không gây ra đau thương và hận thù với các quốc gia khác.

USA, Ngày Phật đản 2011.
GS001


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2024(Xem: 262)
Tịnh Độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa. Pháp sư Huệ Viễn được coi là Tổ đầu tiên của Tịnh tông Trung Hoa; thành lập Bạch Liên Xã quy tụ được hơn ba ngàn cả tăng lẫn tục toàn các bậc hào kiệt trong đời, trong đó có 18 vị là bậc thượng thủ, để lại cho hậu thế đời sau vô số câu chuyện vãng sinh ly kỳ. Đây là tông phái siêu việt, với nhiều đặc thù thuộc Đại thừa viên đốn. Gọi Đại thừa bởi tông này lấy tâm Bồ đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả. Viên, bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm thâu cả Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Đại thừa chung giáo và Đại thừa đốn giáo. Đốn, vì tông này không luận bàn về pháp tướng mà chỉ chuyên về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ lớp, tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thối chuyển. Đây chính là những điểm siêu xuất, đặc thù của tông Tịnh Độ.
20/09/2024(Xem: 564)
Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.
30/08/2024(Xem: 276)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
30/08/2024(Xem: 425)
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
28/08/2024(Xem: 1009)
Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ Độ chúng-sanh không bỏ một ai Lòng thương yêu khắp nhân-loài Không hề muốn thấy một ai khổ trần Đường chơn-chánh trên hơn tất cả Nẻo nhiệm-mầu chẳng có chi bì Muốn người rõ tánh từ-bi Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời
28/06/2024(Xem: 1441)
Bố thí và cúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát. Suốt cuộc đời Đức Phật, ngài đã sống bằng phẩm vật cúng dường. Tương tự, sự phát triển của Phật giáo lan rộng khắp thế giới và được hộ trì cho tới giờ cũng là nhờ phẩm vật cúng dường của đàn na thí chủ. Do vậy, bài này được viết để mời nhau giữ hạnh bố thí và cúng dường.
06/05/2024(Xem: 626)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ. So với hai kinh kia thì kinh A Di Đà ngắn, ngôn ngữ dễ hiểu, nội dung không quá thâm sâu hay mật nghĩa như những kinh Đại Thừa khác. Phật tử bắc tông phần nhiều ai cũng đọc tụng và khá nhiều người thuộc nằm lòng.
16/04/2024(Xem: 828)
Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.
16/03/2024(Xem: 2591)
Nam Mô có nghĩa là Trở về A, nghĩa là: vô Di Đà, nghĩa là: Lượng Phật, nghĩa là Giác, tánh biết Niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, có nghĩa là “ trở về với tánh giác vô lượng của bản thân mình, đó là A Di Đà tánh, là ông Phật của chính mình” Cứu cánh của Pháp môn Tịnh Độ là đạt tới điểm chung của Thiền cũng là khám phá ra ông chủ của mình . Tịnh Độ là ông Phật của chính mình chứ không phải ở ông Phật Tây Phương Cực Lạc. 🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
20/01/2024(Xem: 1366)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com