Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tôn Giả Lại-Tra Hòa-La

23/08/201220:03(Xem: 4597)
Tôn Giả Lại-Tra Hòa-La
buddha3
TÔN GIẢ
LẠI-TRA HÒA-LA
Toàn Không

Khi đức Phật du hoá tại phiá bắc thôn Thâu-lô-Tra, thuộc nước Câu-Lâu-Sấu, bấy giờ các người trong thôn nghe tin: “Sa-môn Cù-Đàm, con Vua dòng họ Thích, lià bỏ tông-tộc, xuất gia học đạo, đang trú ngụ trong vườn Nhiếp-hoà; vị Sa-môn ấy có tiếng tăm lớn đồn khắp mọi nơi là bậc đắc đạo, là thầy của Trời và Người, thuyết pháp vi diệu chưa từng có”, nên họ rủ nhau cùng đến gặp Ngài để lễ bái cúng dường.

1)- Lại-Tra Hòa-La học đạo:

Khi họ đến chào hỏi lễ bái, được Phật thuyết pháp cho nghe những điều lợi ích, sau đó mọi người đứng dậy chào lễ, rồi ra về; duy chỉ có một thanh niên vẫn còn ngồi tại đó không đứng dậy ra về cùng mọi người, và lúc mọi người đi khỏi rồi, thanh niên ấy đứng lên chắp tay hướng về đức Phật và nói:

- Thưa Thế-Tôn, con tên là Lại-Tra Hoà-La. Như con biết, đối với giáo pháp mà Ngài dạy, nếu con sống tại gia, bị tù hãm trong sự phiền toả, không thể trọn đời tu hành được. Vì vậy, thưa Thế-Tôn, con xin được phép theo Ngài xuất gia học đạo.

Đức Phật hỏi:

- Này Nam-tử con của Cư-sĩ, cha mẹ có cho phép lià bỏ gia-đình để theo chính pháp học đạo không?

- Thưa chưa.

- Nếu cha mẹ chưa cho phép, thì Ta không thể nhận được.

- Con sẽ về xin phép cha-mẹ cho phép con xuất gia học đạo.

- Khi nào cha mẹ cho phép, Hoà-La hãy trở lại đây, Ta sẽ thu nhận.

Lại-Tra Hòa-La bèn vái lễ đức Phật rồi ra về, tới nhà Hoà-La liền thưa với cha mẹ về ý nguyện của mình muốn được phép xuất gia học đạo với đức Phật, nhưng cha mẹ không đồng ý và nói:

- Cha-mẹ chỉ có một mình con, rất mực thương yêu con, lòng đầy quyến luyến không kể xiết. Giả sử con có chết đi, cha-mẹ còn không muốn rời bỏ, huống gì còn sống nỡ xa lià, không nhìn thấy mặt được sao?

Lại-Tra Hoà-La lại xin lần thứ hai, rồi lần thứ ba, nhưng vẫn bị cha mẹ từ chối và trả lời như thế; khi ấy Hòa-La liền vật mình xuống đất, vừa thổn thức vừa nói:

- Từ giờ phút này, con sẽ không ăn không uống, không đứng dậy, cho đến khi nào được cha-mẹ cho phép con.

Rồi một ngày Hòa-La không ăn uống, hai ngày không ăn uống, cho đến ba ngày cũng vậy. Thấy thế, mẹ Hòa-La đến bảo:

- Người con thường khoẻ mạnh đẹp đẽ, nay con tiều tụy quá, con không biết khổ sở sao? Con hãy ăn uống chút ít, sống đời sung sướng mà bố thí để tu phúc nghiệp. Vì sao? Vì tu theo cảnh giới của Phật thật là khó, rất là khó khăn.

Hòa-La vẫn im lặng không đáp, rồi cha Hòa-La đến các bà con quyến thuộc và các người có chức tước địa vị trong thôn, nhờ họ đến khuyên can giùm để Hòa-La bỏ ý định xuất gia học đạo, nhưng khi những người ấy đến khuyên can, Hòa-La chỉ nằm yên không trả lời.

Tiếp theo mẹ Hòa-La đến các bạn đồng lứa tuổi của Hòa-La để nhờ họ đến khuyên bảo Hòa-La giùm, nhưng cũng vô hiệu qủa.

Sau đó có vài bạn của Hòa-La đến nói với cha-mẹ Hòa-La rằng:

- Hai bác nên cho anh Hòa-La được phép xuất gia tu học, nếu anh ấy thích sống như vậy thì sau này còn có cơ hội gặp nhau; nếu chán sống cảnh ấy, thì anh ấy tự nhiên sẽ trở về với hai Bác. Nay nếu hai bác không chấp thuận cho anh ấy xuất gia, anh ấy sẽ chết mất không nghi ngờ gì nữa, và không ích lợi chi cả!

Cha-mẹ Hòa-La nghe xong thấy có lý, liền đồng ý và nói:

- Chúng tôi đồng ý để Hòa-La xuất gia mà sau này vẫn trở về cho chúng tôi gặp mặt.

Các bạn ấy đến gặp Hòa-La để báo tin và nói:

- Này bạn, chúng tôi vì bạn nên đã thưa chuyện với hai bác, bây giờ hai bác đã chấp thuận cho bạn được xuất gia tu đạo, nhưng bạn phải hứa khi học đạo rồi phải về thăm cha mẹ.

Lại-Tra Hòa-La nghe các bạn nói như vậy, lòng rất đỗi vui mừng hân hoan, bèn ngồi dậy, cám ơn bạn bè đã khéo giúp đỡ; rồi Hòa-La cố gượng đi đến chỗ cha mẹ để ngỏ lời cảm tạ sự chấp thuận, và hứa khi học đạo rồi sẽ về thăm. Hòa-La ăn uống trở lại, dần dần bồi dưỡng thân thể, chỉ vài ngày sau, sức khoẻ bình phục mau chóng. Hòa-La từ biệt cha mẹ, và người thân, rời khỏi gia đình đến chỗ Phật trú, cúi đầu vái lễ và nói:

- Thưa đức Thế-Tôn, con là Lại-Tra Hòa-La đã được cha mẹ con cho phép xuất gia, ngưỡng mong đức Thế-Tôn cho phép con được theo Ngài tu đạo.

Khi ấy đức Phật độ cho Lại-Tra Hòa-La làm Tỳ-Kheo, và được truyền giới Cụ-túc.

Từ lúc đó Lại-Tra Hòa-La theo đức Phật du hành trong nhân gian. Khi du hành đến nước Xá-Vệ, Lại-Tra Hòa-La sống cuộc sống cô độc ở nơi xa vắng, tâm không phóng túng tu hành tinh tấn; Tôn-giả Lại-Tra Hòa-La đạt đến vô thượng phạm hạnh, tự tri, tự giác, tự chứng ngộ, thành tựu an trụ. Tôn-giả đã biết pháp như pháp, và chứng đắc quả A-La-Hán, lúc đó mười năm đã trôi qua; Tôn-giả nghĩ: “Ngày xưa ta đã hứa học đạo rồi sẽ trở về thăm cha mẹ, nay đã đúng lúc ta nên trở về để trọn lời hứa đó”, nghĩ rồi Tôn-giả liền đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ và nói:

- Thưa Thế-Tôn, ngày trước con đã hứa xuất gia học đạo rồi sẽ trở về thăm cha-mẹ, hôm nay con xin phép Thế-Tôn được từ giã để về thăm cha mẹ con cho trọn lời hứa trước kia.

Bấy giờ đức Phật nghĩ: “Lại-Tra Hòa-La chắc chắn không xả giới bỏ đạo, dù gặp khó khăn đến đâu cũng không lay chuyển nổi Tỳ-Kheo này”,đức Phật biết như vậy liền bảo:

- Thầy ra đi, nếu gặp người chưa được độ hãy độ, người chưa giải thoát hãy khiến cho giải thoát, người chưa tịch tịnh hãy khiến cho tịch tịnh; Lại-Tra Hòa-La, nay tùy ý thầy.

2)-Tôn-giả Hòa-La về thăm cha mẹ:

Tôn-giả Lại-Tra Hòa-La sau khi nghe đức Phật chấp thuận và dặn bảo, cúi đầu đảnh lễ, rồi từ biệt; Tôn-giả lần lượt du hành về đến thôn Thâu-lô-Tra, nghỉ tại vườn Thi-nhiếp-Hòa là chỗ ngày trước đức Phật đã ngụ trong khi du hoá. Khi đêm đã qua, rồi mặt trời lên cao; Tôn-giả ôm bình bát vào thôn Thâu-lô-Tra khất thực (xin cúng dàng thức ăn) và nghĩ: “Thế-Tôn khen ngợi việc có thứ lớp khất thực, ta nay nên theo như thế”;Tôn-giả đi khất thực từ đầu thôn lần lượt về đến nhà cha mẹ. Lúc đó cha của Tôn-giả đứng trong cửa đang chải tóc, cạo râu, ông thoáng thấy có Sa-môn khất thực, liền nói:

- Sa-môn trọc đầu này bị màu đen tối trói chặt, không con cái tuyệt chủng, phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con, hết sức thương yêu chiều chuộng, lòng đầy quyến luyến tiếc thương không kể xiết. Thế mà nó dẫn con ta đi mất không thấy tăm hơi cả mười năm nay, không cho Sa-môn trọc đầu này ăn.

Tôn-giả về nhà cha đã không được bố-thí, còn bị xua rủa như thế bèn bỏ đi; lúc đó người giúp việc của cha mẹ Tôn-giả xách một giỏ đồ ăn hư định đổ bỏ vào đống rác, Tôn-giả trông thấy thế, liền nói rằng:

- Nếu như món ăn đó bỏ đi thì nên bỏ vào bình bát của tôi, tôi sẽ ăn.

Đứa giúp việc ấy nói:

- Không ngon đâu, không nên ăn thức ăn hư này.

Tôn-giả nói:

- Không sao, không sao, tôi sẽ ăn, tôi sẽ ăn.

Đứa giúp việc đổ thức ăn hư ấy vào bình bát của Tôn-giả, và nó phát giác ra hai dấu hiệu mà nó nhận ra Lại-Tra Hòa-La, đó là tiếng nói và tay chân. Nhận ra được hai dấu hiệu này, nó trở vào nhà và nói với cha Tôn-giả:

- Thưa ông, cậu Hòa-La đã về đến thôn này rồi, ông nên đến gặp, cậu Hòa-La đang ngồi ăn thức ăn thiu thối ở ngoài kia kià.

Cha Tôn-giả nghe xong rất đỗi ngạc nhiên, rất đỗi vui mừng phấn khởi; ông bước đi vội vàng, tay trái vuốt tóc tay phải vén áo, đến chỗ Tôn-giả. Trong khi đó, Tôn-giả ngồi xoay mặt vào vách tường nhà hàng xóm và đang ăn thức ăn thiu thối ấy, cha Tôn-giả rảo bước tới nơi thấy thế liền nói:

- Hòa-La con, con thường ăn thức ăn thơm ngon, tại sao bây giờ con lại ăn thức ăn hư thối như thế? Vì lẽ gì con đã về đến thôn này mà không về nhà?

Tôn-giả nói:

- Tôi đã về nhà cha, nhưng đã không được bố thí mà còn bị xua đuổi, rủa mắng rằng: “Sa-môn trọc đầu này bị màu đen tối trói chặt, không con cái tuyệt chủng, phá hoại gia-đình ta. Ta có một đứa con, hết sức thương yêu chiều chuộng, lòng đầy quyến luyến tiếc thương không kể xiết, thế mà nó dẫn con ta đi mất không thấy tăm hơi cả mười năm nay”. Cha còn nói: “Không cho Sa-môn trọc đầu này ăn”;tôi nghe như vậy, làm sao mà không bỏ đi cho được?

Cha Tôn-giả nói lời nhận lỗi:

- Hòa-La, nên bỏ qua cho cha, rất tiếc, cha thật sự không biết con trở về. Cha thật tình đã không nhận ra con, và cha rất tiếc đã nói những lời bất nhã.

Cha Tôn-giả diù dẫn Tôn-giả về nhà và mời ngồi; khi thấy Tôn-giả ngồi rồi , người cha bèn bảo người giúp việc đi mời mẹ Tôn-giả, và sửa soạn cơm nước. Mẹ Tôn-giả được tin con về, vô cùng sung sướng vui mừng. Bà đến ôm Tôn-giả mà khóc sướt mướt, và nói những điều nhớ thương của một người mẹ đối với người con duy nhất xa cách cả mười năm trời, trong khi ấy Tôn-giả ngồi yên để cho người mẹ khóc lóc thổ lộ tâm tư.

Sau những phút xúc cảm đầu tiên ấy xong, mẹ Tôn-giả trở vào trong phòng mang tiền, vàng bạc, châu báu ra giữa nhà một đống và nói với Tôn-giả:

- Đây là phần của cải tiền bạc của mẹ, còn của cha thì nhiều vô kể, nay mẹ giao hết cho con, tùy con sử dụng; vậy con nên xả giới bỏ đạo, ở nhà sống cuộc sống sung sướng mà bố thí tu phúc nghiệp, có hơn là học đạo khó khăn mà vất vả khổ sở không?

Tôn-giả thưa:

- Tôi có điều muốn nói, mẹ có cho phép không?

- Có điều gì cần nói con cứ nói, mẹ sẵn sàng nghe.

- Mẹ nên bỏ hết số tiền-của này vào một bao vải, dùng xe chở đến sông Hằng, đổ xuống chỗ thật sâu, vì sao? Vì do tiền của này làm cho con người đau khổ sầu thảm, không được an vui.

Mẹ Tôn-giả nói:

- Biết bao nhiêu khổ sở vất vả mệt nhọc mới tạo được số của cải này, làm sao mà bỏ đi được.

Dùng cách ấy không được, mẹ Tôn-giả bèn cất tiền bạc của cải rồi bỏ đi, tức tốc tìm đến chỗ mấy cô bạn gái cũ của Tôn-giả để nhờ họ lôi kéo Tôn-giả xả giới bỏ đạo. Chỉ trong thời gian ngắn, mấy người nữ này tới, mỗi người một bên, kẻ nắm tay, người ôm chân Tôn-giả mà nói:

- Này anh ơi, người yêu qúy của em ơi, tại sao anh lại bỏ em đi biền biệt cả mười năm trời như thế?

- Này người tình bạc bẽo ơi, có người Thiên-nữ nào đẹp hơn em mà khiến anh bỏ nhà đi tu vì nàng?

Tôn-giả co tay, rút chân ra khỏi những bàn tay của họ và nói:

- Này các cô em, các cô nên biết, tôi không vì Thiên-nữ mà đi tu phạm-hạnh, sở dĩ tôi tu là theo mục đích mà đức Phật đã dạy là giải thoát, và những điều cần làm, tôi đã làm xong.

Những người nữ ấy còn nhõng nhẽo nói:

- Em không phải là em gái của anh, em là người yêu của anh, tại sao anh lại gọi em bằng cô em, anh đã quên em thật rồi sao? v.v...

Bấy giờ Tôn-giả nhìn về phiá cha-mẹ mà nói:

- Nếu cha mẹ có thí cơm, đúng giờ thì thí, tại sao lại bày ra nhiều phiền phức thế này?

Cha Tôn-giả biết ý con, liền bảo các cô gái tạm đi về và sẽ gặp lại sau. Rồi ông sai người lấy nước cho Tôn-giả rửa tay, và đích thân tự tay đưa các món ăn cho Tôn-giả ăn. Khi ăn no đủ rồi, người làm bưng nước cho Tôn-giả rửa tay, và cất dọn chén bát xong. Tôn-giả thuyết pháp cho cha mẹ nghe, và nói bài tụng với ý nghĩa tất cả ở đời là không thật, giả dối, nó trói buộc kẻ u mê, nhưng nó không thể lừa được người đã sang bờ giải thoát; nói bài tụng xong, Tôn-giả từ giã cha mẹ, rồi dùng như-ý-túc (thần-túc) nương hư không mà đi đến ngồi kiết già dưới gốc cây Bệ-hê-Lặc trong rừng Thâu-lô-Tra.

3)- Tôn-giả Hòa-La hành đạo:

Từ đó, tiếng đồn từ thôn Thâu-lô-Tra rằng: “Tôn-giả Lại-Tra Hòa-La đã đắc đạo, có thần-thông” được lan truyền, khắp nơi dân chúng đến lễ bái, cúng dàng; Tôn-giả thường thuyết pháp cho họ nghe, và làm cho họ được lợi ích bằng đủ phương tiện.

Bấy giờ Vua Cao-Lao-Bà nước Câu-Lâu-Sấu, với quân-thần vây quanh, bàn tán khen ngợi Tôn-giả, Vua nói:

- Nếu quả thật thiện nam-tử Lại-Tra Hòa-La về thôn Thâu-lô-Tra thuộc nước ta, thì chúng ta quyết đến thăm hỏi.

Vua sai tùy tùng đến rừng thuộc thôn Thâu-lô-Tra xem xét hư thực, Vua được người ấy về báo:

- Trình Đại-Vương, thuộc hạ đã đến rừng Thâu-lô-Tra, chính mắt thuộc hạ thấy Tôn-giả Lại-Tra Hòa-La ngồi kiết già dưới cây Bệ-hê-Lặc to lớn.

Vua lập tức ra lệnh cho người đánh xe sửa soạn xa-giá. Khi xa-giá sẵn sàng rồi, Vua lên xe ngồi rồi đi đến rừng Thâu-lô-Tra. Từ xa trông thấy Tôn-giả, nhà Vua xuống xe đi bộ. Tôn-giả trông thấy Vua Câu-Lao-Bà và đoàn tùy tùng đến bèn nói:

- Đại-Vương, nay đến đây muốn nói chuyện với tôi chăng, nếu muốn nói chuyện thì xin mời Đại-Vương ngồi.

Lúc ấy Vua Câu-Lao-Bà và Tôn-giả cùng chào hỏi nhau, quân hầu trải chỗ cho Vua ngồi, Vua ngồi xong đâu đấy rồi nói với Tôn-giả:

- Lại-Tra Hòa-La, có phải vì gia đình suy sụp mà xuất gia học đạo? Hay vì không có tiền của nên sống đời hưu quạnh chăng? Câu-Lao-Bà này tại Vương-gia có nhiều của cải, tôi sẽ xuất tài vật cho, ông tha hồ sống đời sống dục lạc sung sướng mà bố-thí, tùy ý mà tu phúc nghiệp; vậy ông hãy xả giới bỏ đạo và đến cung-điện của tôi mà ở, vì giáo-pháp của Tôn-sư ông rất khó, xuất gia tu đạo lại càng khó hơn.

Tôn-giả nghe xong nói:

- Đại-Vương dùng lời bất tịnh mà mời tôi, đó không phải lời thanh-tịnh mà mời, Đại-Vương nên nói: “Nước tôi nhân dân an ổn, sung sướng, và có lúa gạo đầy đủ. Trong nước không có việc binh đao và đấu tranh, cũng không có việc kinh sợ do nạn hà khắc hoặc khổ nô dịch; nếu Lại-Tra Hòa-La ở trong nước tôi, tôi sẽ ủng hộ như pháp”,Đại-Vương nói như vậy gọi là dùng lời thanh-tịnh mời tôi.

Vua nghe xong, liền nói:

- Nay tôi dùng lời thanh-tịnh mà mời như thế, chứ không dùng lời bất tịnh mà mời. Tiện đây, tôi có ý nghĩ như thế này: “Thường thì nguyên nhân xuất gia đi tu của một người là do một trong bốn thứ suy vi, đó là:

1- Bệnh suy:

Hoặc có người luôn luôn bị bệnh tật nặng quá đau đớn, không thể làm ăn gây dựng gia đình được, nên cạo đầu đi tu.

2- Lão suy:

Hoặc có người già, ngũ quan yếu kém, tuổi thọ gần hết, gân cốt suy đồi không thể thực hiện dục vọng được nữa, nên rời nhà đi học đạo.

3- Tài suy:

Hoặc có người nghèo khổ, không có tiền của để sống, nên nương nhờ nơi tu học cho qua ngày tháng.

4- Thân thế suy:

Hoặc có người không còn cha-mẹ anh-em, vợ chồng con cái không có, bà con chết hết không còn một ai là người thân thuộc; người ấy sống cuộc đời quạnh quẽ cô đơn, tứ cố vô thân, không còn cảm thấy thích thú gì nữa, nên xuất gia học đạo”.

Đối với Lại-Tra Hòa-La khi xưa không bệnh hoạn, an ổn trọn vẹn; lúc đó vào tuổi thanh xuân, tóc đen óng mượt, thân thể cường tráng, cha-mẹ bà con quyến luyến, không ai muốn rời xa. Gia đình khá giả bậc nhất, tiền của chẳng thiếu chi. Tôi thấy không có một suy vi nào có thể khiến cho Lại-Tra Hòa-La lià bỏ gia-đình đi tu. Vậy thì Lại-Tra Hòa-La lúc ấy hiểu biết như thế nào, được nghe những gì mà nhất quyết rời bỏ gia-đình để xuất gia học đạo?.

Tôn-giả đáp:

- Đại-Vương, đức Phật là bậc Tri-Kiến, Vô-Sở-Trước Chính-Đẳng, Chính-Giác; Ngài dạy bốn điều mà tôi nhận biết như thật, đó là:

Thứ nhất:Trong thế-gian này không có ai hộ trì, không nơi nương tựa.

Thứ nhì:Trong thế-gian này, vạn vật đều phải đi đến chỗ già nua.

Thứ ba:Thế-gian này là vô thường, cần phải bỏ đi.

Thứ tư:Thế-gian này không có sự thoả mãn, không có sự biết đủ, bị ái dục lôi kéo đi không ngừng.

Vua Câu-Lao-Bà hỏi:

- Lại-Tra Hòa-La, như ông vừa nói: “Thế-gian này không ai hộ trì, không nơi nương tựa”, nhưng tôi có con cháu anh em, tướng quân các binh chủng nghiêm nghị dũng mãnh; tôi lại có các lực sĩ hộ vệ, có người xem tướng, và có kẻ bày mưu tính toán, tôi cũng lại có người thông hiểu điển sách, và có kẻ giỏi đàm luận giúp tôi.

Tóm lại, tôi có đủ loại người, khi tôi cần đến họ đều sẵn sàng, bất cứ phương nào có khủng bố hoặc biến động đều được chế phục ngay tức khắc; như vậy nói rằng thế gian này không người hộ trì, không nơi nương tựa có nghĩa thế nào?

- Đại-Vương, bây giờ tôi hỏi nhà Vua, xin tùy theo sự hiểu biết mà trả lời; Đại-Vương, thân Ngài có bệnh chăng?

- Hiện nay thân tôi thường có bệnh Phong, uống thuốc cũng chẳng hết.

- Nếu bệnh Phong bộc phát trầm trọng, rất đau đớn, thì lúc đó Đại-Vương có thể bảo con cháu họ hàng, và tất cả những người mà Ngài vừa kể, họ tạm thời thay thế sự đau đớn cho Ngài được an ổn không?

- Không được, không ai có thể tạm thời thay thế sự đau đớn của tôi được, tôi phải tự chịu lấy mà thôi.

- Như vậy thì lời dạy: “Thế-gian này không ai hộ trì, không nơi nương tựa”là đúng sự thật.

Vua Câu-Lao-Bà nói:

- Bây giờ tôi đã hiểu và biết trong thế-gian này không có ai hộ trì, và không có nơi nương tựa là đúng sự thật. Tôi cũng hiểu và biết trong thế-gian này tất cả vạn vật đều già nua đi là sự thật, vì tôi thấy như thân tôi đây, khi mới có hai ba mươi tuổi thì thân thể cường tráng mạnh khoẻ đẹp đẽ, bây giờ bẩy tám mươi tuổi, gân cốt yếu mềm thấy rõ ràng, như vậy là già nua đi. Nhưng câu: “Thế-gian này là vô thường cần phải bỏ đi, như vậy có ý nghĩa gì?”

- Tôi xin hỏi Đại-Vương, bây giờ Ngài có nước Câu-Lâu-Sấu kho tàng đầy đủ, quân lực hùng cường, lương thực dồi dào v.v... Nếu thời gian đã đến, chịu sự phá hoại, không thể nương tựa được nữa, tất cả các thứ này đi đến chỗ diệt vong; lúc đó các thứ đầy đủ, hùng cường, dồi dào có thể mang từ đời này qua đời khác được không?

- Không thể được.

- Thế cho nên lời dạy: “Thế gian này là vô thường, cần phải bỏ đi”là đúng sự thật.

- Nay tôi nghe và hiểu điều đó là đúng sự thật, nhưng câu: “Thế gian này không có sự toàn mãn, không có sự biết đủ, bị ái dục lôi cuốn đi không ngừng, nói như vậy có nghiã gì?”,xin Ngài giải thích giùm.

- Đại-Vương có nước Câu-Lâu Sấu dồi dào, có cung-điện nguy nga lộng lẫy, có kho tàng đầy đủ, có đủ thứ; nhưng nếu có người từ phương Đông, hoặc từ phương Tây, phương Nam, phương Bắc tới đây. Người ấy không nói dối, và đáng tín nhiệm, người ấy nói với Ngài rằng: “Tôi từ phương ấy, nước ấy tới đây, tận mắt tôi thấy nước ấy vô cùng giàu có, mà quân mã chẳng có bao nhiêu, binh khí rất thô sơ, lại chẳng đề phòng chi cả; Đại-Vương nên chiếm nước ấy mà lấy tài vật của cải và bành trướng thế lực”.Vậy Ngài có muốn chiếm một nước rất dễ dàng để cai trị không? Và khi: đã chiếm được một nước rồi, các nước khác cũng giống như vậy, thì Ngài có muốn chiếm luôn không?

- Nếu tôi biết có nước giàu có, không nhiều quân mã, khí giới thô sơ, lại không đề phòng, và chiếm dễ dàng, thì tôi quyết tiến chiếm nước ấy mà cai trị; nếu các phương khác, nước khác cũng giống như thế, thì chắc chắn tôi sẽ đánh chiếm hết để làm bá chủ các nước.

- Thế cho nên lời dạy: “Thế gian này không có sự toàn mãn, không có sự biết đủ, bị ái dục lôi cuốn đi không ngừng”là đúng sự thật.

Vua Cao-Lâu-Bà nói:

- Qủa thật, thế gian này không có sự toàn mãn, không có sự biết đủ, bị ái dục lôi đi không ngừng; nay tôi đã nghe, và hiểu biết như thật.

Vua nói tiếp:

- Tôi còn nhiều điều cần học hỏi, nhưng thời giờ ngắn ngủi, thỉnh Ngài cùng tôi về Kinh-đô để được dịp cúng dường cùng học đạo; vả lại, tại kinh-đô còn có rất nhiều người muốn học đạo, mong Ngài nhận cho.

Tôn-giả im lặng nhận lời, rồi cùng ngồi xe với Vua đến Kinh-đô. Tôn-giả Hòa-La đã độ cho rất nhiều người tại kinh thành, cũng như trong nước Câu-Lâu-Sấu..,.

Toàn Không
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2024(Xem: 531)
Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.
30/08/2024(Xem: 273)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.
30/08/2024(Xem: 418)
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
28/08/2024(Xem: 993)
Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ Độ chúng-sanh không bỏ một ai Lòng thương yêu khắp nhân-loài Không hề muốn thấy một ai khổ trần Đường chơn-chánh trên hơn tất cả Nẻo nhiệm-mầu chẳng có chi bì Muốn người rõ tánh từ-bi Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời
06/05/2024(Xem: 625)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ. So với hai kinh kia thì kinh A Di Đà ngắn, ngôn ngữ dễ hiểu, nội dung không quá thâm sâu hay mật nghĩa như những kinh Đại Thừa khác. Phật tử bắc tông phần nhiều ai cũng đọc tụng và khá nhiều người thuộc nằm lòng.
16/03/2024(Xem: 2571)
Nam Mô có nghĩa là Trở về A, nghĩa là: vô Di Đà, nghĩa là: Lượng Phật, nghĩa là Giác, tánh biết Niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, có nghĩa là “ trở về với tánh giác vô lượng của bản thân mình, đó là A Di Đà tánh, là ông Phật của chính mình” Cứu cánh của Pháp môn Tịnh Độ là đạt tới điểm chung của Thiền cũng là khám phá ra ông chủ của mình . Tịnh Độ là ông Phật của chính mình chứ không phải ở ông Phật Tây Phương Cực Lạc. 🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
20/01/2024(Xem: 1344)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
18/11/2023(Xem: 4794)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
18/04/2023(Xem: 4736)
Lời Giới Thiệu Sách “Nhân Hạnh Vãng Sanh” của Trí Khiêm
09/04/2023(Xem: 2992)
Trong quá trình chiến tranh Hoa Nhựt, một mặt Vương triều Nhật Bản muốn thiết lập một nền cai trị Đại Đông Á thống trị vùng Bắc Á và Đông Nam Á để khống chế về thu nhập tài nguyên kinh tế cho bản địa: Một mặt không phải người Nhật nào cũng muốn gây chiến tranh với các nước láng giềng, mà cần có sự giao lưu về văn hóa, văn học, tôn giáo, nên một số đông người Nhật đến Trung Hoa nghiên cứu học hỏi văn hóa lâu đời vào hàng thứ nhứt trên thế giới, văn hóa Khổng, văn hóa Lão Trang, văn hóa Phật Giáo, trong đó có giao lưu văn hóa Phật Giáo. do đó trong lĩnh vực hiệp hội Phật Giáo Trung Hoa do Đại sư Thái Hư sáng lập có những thành viên là người Nhựt, nên vấn đề ảnh hưởng các tông, phái Thiền Tịnh dành cho những người tu Phật của Phật
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com