Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Chu

15/09/201100:44(Xem: 3843)
Dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Chu

DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN PHÚC CHU,
Thiền phái Tào Động đã được truyền bá & phát triển tại Đàng Trong

HT. Thích Phước Sơn

Trên quả Đại hồng chung chùa Thiên Mụ đúc năm 1710, chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) đã cho khắc những dòng chữ như sau: “Quốc chúa Đại Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào Động chánh tông đời thứ 30, pháp danh Hưng Long đúc hồng chung này nặng 3.285 cân an trí ở chùa Thiên Mụ thiền tự để vĩnh viễn cung phụng Tam bảo. Cầu nguyện gió hòa mưa thuận quốc thái dân an, chúng sinh trong pháp giới đều hoàn thành Đại viên chủng trí. Năm Vĩnh Thịnh thứ 6, ngày Phật đản tháng Tư Canh Dần”(1).

Đại hồng chung này đúc xong trong năm 1710, tức là 15 năm sau ngày tổ chức Đại giới đàn tại chùa Thiền Lâm (Thuận Hóa) vào năm 1695, do Thiền sư Thạch Liêm (1633 - 1704) - một vị danh tăng của Phật giáo Trung Hoa hậu bán thế kỷ 17, thuộc tông Tào Động - làm Hòa thượng truyền giới. Đây là một Phật sự rất đáng kể của Chúa Nguyễn Phúc Chu trong nỗ lực hỗ trợ cho sự nghiệp truyền pháp. Đại giới đàn chùa Thiền Lâm diễn ra từ ngày mồng một đến ngày 12 tháng 4 năm 1695, quy tụ trên 3.000 giới tử, trong số đó giới xuất gia có tới 1.400 vị vừa Tỳ kheo vừa Sa di. Ngày sau cùng, tức ngày 12 tháng 4, Thiền sư Thạch Liêm và Quốc sư Hưng Liên đã thống suốt hai dãy tân giới tử, tất cả gần 1.500 vị Tăng đều mang y, bình bát, chống tích trượng, làm lễ “Cổ Phật khất thực” trong thành phố và cùng đến phủ chúa, tạ ơn chúa Nguyễn đã thành tựu công đức cho Đại giới đàn. Lễ cúng dường cơm chay được thiết lập tại phủ chúa”(2). Trong Đại giới đàn này có 2 sự kiện đáng chú ý:

* Về phía Tăng sĩ: Có Thiền sư Liễu Quán (1670 - 1742) bấy giờ đã từ quê hương Phú Yên ra thọ giới Sa di.

* Về phía Phật tử tại gia: Thì cả hoàng tộc cùng một số quan lại đã thọ giới Bồ tát. Riêng chúa Nguyễn Phúc Chu được thầy cho pháp danh là Hưng Long.

Ngoài ra, một đại giới đàn nữa đã được tổ chức tại chùa Di Đà, Hội An vào ngày mồng 7 tháng 7 năm ấy, quy tụ khoảng 300 giới tử - cũng do Thiền sư Thạch Liêm làm Hòa thượng truyền giới - và cũng giống với giới đàn trước là giới điệp cấp phát cho các giới tử đều có đóng kèm ấn của phủ chúa.

Những sự việc trên đây chứng tỏ vào thời bấy giờ - cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII - thiền phái Tào Động đã được truyền bá cùng phát triển tại Đàng Trong của nước ta.

Bài viết này xin bước đầu làm rõ thêm về vấn đề ấy.

Nói tóm tắt về thiền phái Tào Động

Thiền phái Tào Động là một trong 5 tông phái đã nối tiếp cùng phát huy từ Thiền Tào Khê của Lục tổ Tuệ Năng (638 - 713), Trung Hoa. Nơi 5 tông phái này (Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn), thì 3 tông Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn là theo hệ của Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư (? - 740), một trong hai vị cao đệ của Lục Tổ Tuệ Năng, đã đắc pháp từ Lục tổ (vị kia là Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng, 677 - 744).

Thiền phái Tào Động do 2 Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807 - 869) và Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch (840 - 901) tạo lập. Thiền sư Động Sơn Lương Giới họ Du, người đất Cối Kê, Việt Châu (Cối Kê, Chiết Giang), xuất gia học Phật từ nhỏ, 21 tuổi thọ giới Cụ túc, từng tham yết các Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện (748 - 834), Quy Sơn Linh Hựu (771 - 853) rồi đắc pháp nơi Thiền sư Vân Nham Đàm Thịnh (782 - 814). Sau, Sư khai pháp ở Động Sơn, Giang Tây, hoằng dương thiền pháp, đệ tử nối pháp có Tào Sơn Bản Tịch v.v… Thiền sư Bản Tịch họ Hoàng, người đất Bồ Điền, Tuyền Châu (Cổ Điền, Phúc Kiến), 19 tuổi xuất gia, 25 tuổi thọ giới Cụ túc, tham yết, cầu pháp và đắc pháp nơi Thiền sư Lương Giới. Sau, Sư khai pháp tại Cát Thủy, Phủ Châu, đổi tên là Tào Sơn. Rồi Sư dời trụ nơi núi Hà Ngọc, cực lực xiển dương thiền học.

Về sau, Động Sơn, Tào Sơn thiền phong càng thịnh, môn đồ bèn hợp nhất xưng là tông Tào Động. Sách Tăng Đính Phật Tổ Đạo Ảnhcủa Đại lão Hòa thượng Hư Vân (1840 - 1959) đã có lời tán về hai vị Thiền sư trên như sau:

* Lời tán: (Thiền sư Lương Giới):

Xa được chân sư

Bậc lớn là chính

Bóng nước bước theo

Như cọp sinh cánh.

Năm vị mở bày

Nhổ các kiến chấp

Huyền phong xướng lớn

Khắp trời vòng đất(3).

* Lời tán: (Thiền sư Bản Tịch):

Nước động chảy ngược

Sư nối tuệ kia

Từ biên nào đến

Mở năm vị này.

Gương báu nên đài

Chiếu tròn muôn loại

Hư huyền không vướng

Há thâu ý hội!(4)

Luận điểm căn bản của Thiền phái Tào Động là chủ trương về Ngũ vị (Năm vị) vốn do Thiền sư Lương Giới đề xuất và Thiền sư Bản Tịch đã bổ sung và hệ thống hóa. Có 2 loại 5 vị là Năm vị Chánh thiênNăm vị Công huân.

Năm vị Chánh thiên:Là Chánh trung thiên, Thiên trung chánh, Chánh trung lai, Thiên trung Chí và Kiêm trung đáo. Chánh là âm, ý tức chỉ cho bản thể của chân như. Thiên là dương, ý tức chỉ cho hiện tượng của sinh diệt. Chánh Trung Thiên là chỉ cho trong bình đẳng còn có sai biệt. Thiên Trung Chánh là chỉ cho sai biệt tức là bình đẳng. Trên cơ sở ấy, tạo công phu tu hành của động ở trong tĩnh, tức gọi là Chánh trung lai. Tĩnh ở trong động tức là Thiên trung chí. Gồm cả hai thứ trên, đạt được cảnh giới tự do tự tại, tức gọi là Kiêm trung đáo. Đối nơi 5 vị này, Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch từng dùng Vua - Bề tôi (Quân Thần) để so sánh mà thuyết minh (Vua. Bề tôi. Bề tôi hướng đến vua. Vua trông thấy bề tôi. Vua - Bề tôi cùng hợp).

Năm vị Công huân:Là Hướng, Phụng, Công, Cộng công và Công công. Tức nhận biết về chúng sinh vốn gồm đủ Phật tánh. Cầu đạt quả Phật (Hướng). Vì nhằm chứng Phật tánh nên tu hành (Phụng). Thấy Phật tánh (Công). Tuy đã đạt vị giác của tự do, nhưng hãy còn có tác dụng (Cộng công). Sau cùng, lại siêu việt các thứ trước, đạt đến cảnh giới tự do tự tại (Công công)(5).

Ngoài ra, Tông Tào Động còn có một số chủ trương đã hình thành dần về sau như: Chỉ quán đả tọa: Ngồi thiền, không cần chủ đề thiền. Tu chứng nhất như: Ngồi thiền và đạt đạo là một. Vô sở đắc: Không vướng chấp nơi đối tượng chứng đắc. Vô sở ngộ: không chấp vào đối tượng giác ngộ. Thân tâm nhất như: Thân tâm là một.

Thiền sử Trung Hoa đã cho thấy Lâm Tế và Tào Động là hai thiền phái đã phát triển sâu rộng nhất(6).

Thiền phái Tào Động

truyền vào Đại Việt

a. Ở Đàng Ngoài (Bắc Hà): Thiền phái Tào Động truyền vào và phát triển ở Đàng Ngoài của Đại Việt là vào hậu bán thế kỷ 17, công đầu do hai vị là Thiền sư Thủy Nguyệt (1636 - 1704) và Thiền sư Tông Diễn (? - 1709).

Thiền sư Thủy Nguyệt tên là Đăng Giáp, hiệu là Thông Giác, người huyện Hưng Nhân, Thái Bình, trụ trì một ngôi chùa trên núi Hùng Lĩnh. Năm 1664, ông cùng với hai người đệ tử sang Trung Hoa cầu học nơi Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo thuộc tông Tào Động, tại núi Phụng Hoàng. Năm 1667, ông cùng với hai đệ tử trở về nước, cư trú tại chùa Vọng Lão ở An Sơn, Đông Triều (Hải Dương), dốc sức mở mang thiền phái. Thiền sư Thủy Nguyệt cũng từng hành đạo ở chùa Tư Phúc, Côn Sơn, chùa nơi núi Nhẫm Dương ở Hạ Long.

Vị đệ tử được Thủy Nguyệt truyền pháp là Thiền sư Tông Diễn. Thiền sư Tông Diễn hiệu là Chân Dung, vốn người Đông Sơn, Hải Dương, có thể đã từng theo học Thiền sư Tuệ Nhãn tại đạo tràng Đông Sơn, trước khi tham yết cùng đắc pháp nơi Thiền sư Thủy Nguyệt, rồi ra sức hoằng dương Thiền pháp. Sau Tông Diễn, Thiền phái Tào Động đã được nối tiếp và phát triển tốt ở Đàng Ngoài, như văn bia nơi chùa Hồng Phúc đã ghi rõ về sự truyền thừa qua nhiều đời(7).

b. Ở Đàng Trong(Nam Hà): Thiền phái Tào Động có mặt ở Đàng Trong của Đại Việt cùng với Quốc sư Hưng Liên, tọa chủ đạo tràng chùa Tam Thai (Quảng Nam). Quốc sư Hưng Liên cũng có tham dự Đại giới đàn chùa Thiền Lâm năm 1695.

Người có công lớn nhất trong công việc truyền bá, tạo sự phát triển cho Thiền phái Tào Động ở Đàng Trong là Thiền sư Thạch Liêm (1633 - 1704). Ông người đất Giang Tây, Trung Hoa, hiệu là Đại Sán Hán Ông, xuất gia từ thời trẻ, cầu học nơi Thiền sư Giác Lãng, kế vị Thiền sư Thật Hành trụ trì chùa Trường Thọ ở Quảng Đông. Ông có tài về thi ca, hội họa, kiến trúc, nên chùa Trường Thọ, dưới thời ông trụ trì đã là một danh thắng nổi tiếng.

Thiền sư Thạch Liêm sang Đại Việt năm 1695, theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu, để làm Hòa thượng truyền giới cho Đại giới đàn tại chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa, rồi Đại giới đàn tại chùa Di Đà ở Hội An, như trước đã nêu. Tại Đại giới đàn chùa Thiền Lâm, Thạch Liêm đã viết một cuốn sách ngắn cho chúa Nguyễn Phúc Chu, chỉ dẫn cách tu tập tên là Hộ Pháp Kim Thang Thư.Ông còn viết một bài ngắn nhan đề: Tự tánh Di Đà thuyết(Nói về Phật A Di Đà của tự tánh) cho mẹ của chúa Nguyễn Phúc Chu, biện giải, hướng dẫn quốc mẫu về pháp tu niệm Phật. Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật giáo sử luận tập 2, đã dựa theo sách Hải ngoại kỷ sự để nêu dẫn tư tưởng thiền của Thiền sư Thạch Liêm, tóm gọn trong 3 điểm là Thiền tịnh song tu, Nho Phật nhất trí và Lâm - Tào (Lâm Tế - Tào Động) tổng hợp(8).

Đáng chú ý nhất là những hướng dẫn, những tác động của Thiền sư Thạch Liêm đối với chúa Nguyễn Phúc Chu, về nhận thức Phật học cũng như đường hướng trị nước. Như trong Hộ Pháp Kim Thang Thư,ông đã đề nghị chúa tham khảo thoại đầu: Ai là chủ nhân của ta (Như hà thị ngã chủ nhân công) như sau: “Lão Tăng không có phương pháp gì xảo diệu, chỉ mời quốc vương tham khảo thoại đầu: Ai là chủ nhân của ta? Tham khảo nhưng không mộng tưởng… Bất luận khi chủ tọa triều chính hay lúc đốt trầm lạy Phật, cho đến những lúc uống trà ăn cơm, khi mừng khi giận, khi quân thần cùng tiếp kiến, lúc hầu hạ mẫu thân, khi gặp mặt vợ con, lúc đi đứng ngồi nằm, khi gặp cảnh ưa ghét, lúc ngồi nhà một mình… không khoảnh khắc nào được buông lơi thoại đầu…”.

Chúa Nguyễn một lần muốn mời Thiền sư Thạch Liêm xem vũ nhạc dân tộc, nhưng còn ngần ngại không rõ là có hợp pháp không, bèn hỏi ông, ông nói: Âm nhạc cũng là một trong những thức cúng dường. Rồi ông vui vẻ tham dự. Lần khác, Thiền sư Thạch Liêm đã nói với chúa Nguyễn Phúc Chu về vấn đề trì chú: “Sự việc trì chú quan trọng là ở nơi người trì chú. Người trì chú có thanh tịnh và đức độ thì sự trì chú mới linh nghiệm”. Rồi thay vì truyền cho chúa Nguyễn lời chú, Thạch Liêm đã đưa cho chúa Nguyễn Phúc Chu một bản điều trần 18 điểm về việc trị nước theo tinh thần Phật giáo.

Lần khác nữa, Thiền sư Thạch Liêm đã biện giải với chúa Nguyễn về vấn đề trai giới của một ông vua: “Trai giới không phải chỉ là để cho sạch miệng sạch mình và sạch tư tưởng mà thôi đâu. Trai giới là làm cho quốc gia từ trên tới dưới được thanh lý chỉnh tề, không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một việc nào chẳng giải quyết thỏa đáng: Làm được như thế mới là sự Trai giới viên mãn của một ông vua”. Rồi Thạch Liêm đề nghị chúa Nguyễn Phúc Chu thực hành trai giới bằng cách: Trả tự do cho những người bị giam cầm oan ức. Phóng thích bớt những tù nhân trong ngục thất. Chẩn cấp cho kẻ nghèo đói. Tháo gỡ cho những người bị đè nén ép uổng. Bãi bỏ bớt những luật lệ quá nghiêm khắc. Dễ dãi cho hàng buôn thúng bán bưng và cho lớp thợ thuyền…

Về sự việc này, Nguyễn Lang nhận xét: “Có lẽ đây là công trình giáo hóa to lớn nhất của vị trụ trì chùa Trường Thọ, bởi vì chúa Nguyễn Phúc Chu đã nghe lời ông”(9).

Thiền sư Thạch Liêm cùng đoàn tùy tùng đã vào Hội An và đáng lẽ đã về Quảng Đông từ tháng 7 âm lịch năm ấy, nhưng vì gió bão cản trở. Từ Hội An, ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cho người vào đón ra ngụ tại chùa Thiên Mụ. Ông ở Thiên Mụ cho đến ngày 24 tháng 6 năm sau (1696) mới xuống thuyền về Quảng Đông. Tài nghệ về thi ca của ông cũng được thể hiện trong chuyến sang Đại Việt lần này. Sách Hải ngoại kỷ sự đã ghi lại hơn 100 bài thơ và trường ca của Thạch Liêm viết về chùa chiền cùng phong cảnh miền Nam Đại Việt thời ấy.

Từ hậu bán thế kỷ 18 trở đi, Thiền phái Lâm Tế phát triển mạnh ở Đàng Trong, nhất là môn phái Liễu Quán (1670 - 1742) - cũng thuộc Thiền phái Lâm Tế - đã có ảnh hưởng nhiều tại các tỉnh miền Nam Trung Bộ(10), đó có thể là lý do khiến Thiền phái Tào Động không phát triển rộng ở Nam Hà.

Kết luận

Tuy không phát triển rộng khắp đất Nam Hà như Thiền phái Lâm Tế, nhưng Thiền phái Tào Động đã có mặt ở Đàng Trong cùng với thời gian trị vì của chúa Nguyễn Phúc Chu, một vị chúa thông tuệ, tài ba, giỏi văn học và mộ Phật từ nhỏ, thế nên Thiền phái Tào Động đã trở thành một động lực thúc đẩy chúa Nguyễn cố gắng thực hiện đường lối trị nước theo ảnh hưởng của Phật giáo, cũng như thúc đẩy chúa Nguyễn hoàn thành một số Phật sự thuộc loại vĩ đại tiếp theo việc tổ chức Đại giới đàn tại chùa Thiền Lâm năm 1695, như:

Năm 1710: Đúc Đại hồng chung chùa Thiên Mụ nặng 3.285 cân. Năm 1714: Đại trùng tu chùa Thiên Mụ - Trước đấy, khi mới lên ngôi, chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho trùng tu chùa Mỹ Am ở núi Thúy Vân, dựng chùa Thánh Duyên gần cửa bể Tư Hiền. Thỉnh Đại tạng kinh. Mở trai đàn chẩn tế, bố thí cho dân nghèo. Năm 1715: Dựng bia đá ghi lại công việc đại trùng tu chùa Thiên Mụ…(11). Ban biển ngạch cho một số Tổ đình nơi các tỉnh, thành…, tất cả đã làm sáng giá cho một giai đoạn lịch sử hưng thịnh của đất nước, trên nền tảng là sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo và dân tộc, như những câu thơ của Đào Duy Từ (1572 - 1634) đã ca tụng cảnh chùa ven cửa biển Tư Dung trong tác phẩm Tư Dung vãn:

Nghiêm thay tướng pháp Như Lai

Cao giơ tuệ kiếm sáng ngời thủy tinh

Thời lành cả mở hội lành

Reo đưa gió Phật quét thanh bụi tà

Vầy đoàn yến múa oanh ca

Vượn xanh dâng trái, hạc già nghe kinh(12). n

(1)Nguyễn Lang dịch. Việt Nam Phật giáo sử luậntập 2, 1992, tr.240 - 241.

(2)Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận tập 2, Sđd, tr.222. Xem thêm Hải ngoại kỷ sự, bd của Nguyễn Duy Bột, Nguyễn Phương. Viện Đại Học Huế xb, 1963.

(3), (4)Hòa thượng Hư Vân. Tái Tăng Phật Tổ Đạo Ảnh, tập 3. Nguyên Huệ dịch. NXB.Phương Đông 2011, tr.347, 353).

(5)Đại Từ Điển Phật Quang,tr.1088 Hạ, tr.4615 Hạ. Xem thêm: Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luậntập 2, Sđd, tr.211 - 214.

(6)Xem: Tăng Đính Phật Tổ Đạo Ảnh, Tlđd, 4 tập. (Có chi tiết đáng chú ý: Thiền sư Liễu Đường Đỉnh Triệt (Tk XVIII) họ Hàn, cháu đời thứ 53 của Hàn Dũ (768 - 824) đời Đường, là một Tăng sĩ nổi tiếng đời Thanh thuộc tông Tào Động.

(7)Xem: Việt Nam Phật giáo sử luậntập 3 của Nguyễn Lang, NXB.Lá Bối Paris, 1985, tr.173 - 177.

(8)Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận tập 2, Sđd, tr.229 - 236.

(9) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận tập 2, Sđd, tr.239. Các đoạn vừa dẫn trên đều theo Nguyễn Lang, Sđd, các trang 235 - 236, 238 - 239. Xem thêm: Hải ngoại kỷ sự, Sđd.

(10) Thiền sư Liễu Quán (1670 - 1742) tuy thọ Sa di tại Giới đàn chùa Thiền Lâm năm 1695, hai năm sau thì thọ giới Cụ túc, nhưng sau đấy cầu pháp và đắc pháp với Thiền sư Tử Dung chùa Ấn Tôn thuộc phái Lâm Tế.

(11)Văn bia chùa Thiên Mụ có những câu viết tuyệt vời của chúa Nguyễn Phúc Chu như sau: “… coi đời sống vương giả nơi cung điện không thoải mái bằng đời sống ở chốn Thiền quan. Ngựa thắng yên cương nạm vàng dát ngọc không quý bằng một chiếc gậy kim cang. Cẩm y hoàng bào rực rỡ thường làm chóa mắt thế nhân không giá trị bằng chiếc áo cà sa. Và những kho ngọc vàng châu báu, xét cho cùng chỉ toàn là những trò hư ảo mà thôi!”. (Dẫn theo Mộng Kinh Sưcủa Phan Du, NXB.Cảo Thơm, S, 1971, tr.102).

(12)Tư Dung vãn, câu 171 - 176. Dẫn theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, thế kỷ X-XVII, NXB.Văn Học, 1976, tr.811.

(NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ SỐ 186)
(Thư Viện Hoa Sen)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/10/2023(Xem: 5090)
Được thành lập vào thế kỷ thứ 8, việc xây dựng bắt đầu vào năm 742, Thạch Quật Am (석굴암, nghĩa là Am hang đá) là một Cổ Am và một phần của phức hợp Phật Quốc Tự. Nó nằm cách bốn km về phía đông của ngôi đại già lam cổ tự trên núi Tohamsan, ở Gyeongju, Hàn Quốc, gian chính hình tròn thờ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cao 3,5m với tư thế Xúc địa thủ ấn (Bhumistarsa Mudra),
01/10/2023(Xem: 4988)
Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học trong đó có Ngài Khánh Hòa có liên đoàn Học Xã ra đời tức là hội Lưỡng Xuyên Phật học được thành lập năm 1934 ở tại Bến Tre. Hội này quý Thầy giảng dạy cho chư Tăng, chư Ni cũng có những học đường, bắt đầu thỉnh Đại Tạng Kinh ở bên Trung Quốc về bây giờ chúng ta căn cứ theo Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Tại sao gọi là Đại Chánh? Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh có tất cả 100 tập. Từ tập 1 tới 65 có Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và những bộ kinh thuộc về Mật Tạng, Hòa Thượng Tịnh Hạnh cũng đã cho dịch ra thành 187 tập. Từ tập 188 cho đến tập thứ 202 nay mai sẽ được xuất bản. Riêng Thanh Văn Tạng nó có tính cách Hàn Lâm. Trong thời gian qua HT Tuệ Sỹ đã cho dịch thành Thanh Văn Tạng rồi trong tương lai sẽ có Bồ Tát Tạng, tiếp theo nữa sẽ là Mật Tạng.
04/09/2023(Xem: 5725)
Lời nói đầu Bồ tát Quảng Đức, người con linh thiêng của “Non Nước Khánh Hòa” đã đi vào lịch sử như một huyền thoại với trái tim bất diệt. Hơn hai ngàn năm lịch sử Phật giáo Việt Nam, có lẽ Ngài Quảng Đức là trường hợp hy hữu được tôn xưng lên hàng Bồ tát, điều đó nói lên vị trí độc sáng của Ngài trong thiền sử.
04/07/2023(Xem: 6698)
Hôm nay ngày 22.6.2023. Trước đây thầy Hạnh Tấn làm Thư ký ở trong ban Hoằng Pháp của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu. Chỗ này tôi xin xác định một chút cho Quý Vị rõ về hai cơ cấu, hai vai trò không phải là một. Ôn Tâm Huệ là trưởng ban truyền bá giáo lý Âu Châu; Thầy Hạnh Tấn làm thư ký cho ban truyền bá giáo lý Âu châu thuộc về Hội Đồng Hoằng Pháp của giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu. Khi mà ôn Tuệ Sỹ thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào năm 2021
03/05/2023(Xem: 137535)
Chết và tái sinh. Thích Nguyên Tạng (sách, tái bản 2007) Phật giáo khắp thế giới . Thích Nguyên Tạng (sách) Pháp Sư Tịnh Không, người truyền bá giáo lý Tịnh Độ (sách) Từ bi và nhân cách . Dalai Lama. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không . T. Ng. Tạng dịch (sách) Hỏi hay đáp đúng . Ven. Dhammika. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Các Bộ Phái Phật Giáo ở Ấn Độ. Dr.Nalinaksha Dutt.T Ng. Tạng dịch (sách)
03/04/2023(Xem: 9875)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan được thành lập năm 1999 tại Sydney với nhiệm kỳ 4 năm sinh hoạt Phật Sự. Đến nay đã trải qua hơn 20 năm thăng trầm hành hoạt với 6 kỳ Đại Hội trước đây, lần lượt được tổ chức tại: Chùa Pháp Bảo (1999), Chùa Pháp Quang (2003), Chùa Phổ Quang (2007), Chùa Pháp Hoa (2011), Tu Viện Quảng Đức (2015 và 2019). Và mới đây, Đại Hội Khoáng Đại Kỳ 7 được tổ chức tại Chùa Thiên Ấn, vùng Canley Vale, tiểu bang New South Wales, từ ngày 4 đến ngày 5 tháng 6 năm 2022.
18/02/2023(Xem: 5517)
Tôi nghĩ là người Phật tử, ai cũng muốn một lần được đến Ấn Độ để chiêm bái Phật tích, những Phật tích quan trong là nơi đức Phật Đản sinh, đức Phật Thành đạo, đức Phật chuyển Pháp luân và đức Phật nhập Niết Bàn. Bốn nơi đó thường được gọi là Tứ động tâm, nghĩa là 4 nơi thường làm cho người Phật tử xúc động, khi chiêm bái khi tưởng nhớ đến đức Thế Tôn. Chừng 10 năm trước, Đại đức Thích Minh Hiển từng du học ở Ấn Độ, tổ chức đi chiêm bái Phật tích, chúng tôi ghi danh đóng tiền tham gia, nhưng giờ chót, chúng tôi quyết định không đi, lần khác Đại đức Thích Hạnh Lý, trụ trì chùa Từ Ân, thành phố Louisville, Kentucky tổ chức đi chiêm bái Phật tích có thông báo cho chúng tôi, nhưng chúng tôi cũng không tham gia được.
06/01/2023(Xem: 5553)
Tôi quyết định đi theo đoàn hành hương do chùa Vạn Hạnh ở Nantes tổ chức từ cuối tháng 9, 2010. Làm các thủ tục vé máy bay, passport và visas xong xuôi từ cuối tháng mười. (Các bạn nên nhớ rằng passport của bạn phải còn có giá trị tối thiểu 3 tháng sau ngày rời Ấn Độ trở về. Nếu bạn rời Ấn Độ ngày 01/01/2011, thì passport của bạn phải còn giá trị tối thiểu là đến 01/04/2011. Visas vào ra Ấn Độ, phải là “Double entries”). Xong xuôi tất cả, tôi phủi tay tự nhủ, bây giờ thì chỉ còn chờ ngày đi mà thôi, và tôi vui thú thở ra nhẹ nhỏm trong người.
07/11/2022(Xem: 6550)
Tình tự quê hương như là chất liệu để nuôi sống đời mình, nên Hòa Thượng Tuệ Sỹ chỉ ở đó mà không đi đâu hết. Sinh ra giữa lòng đất Mẹ, chắc một ngày mai kia có chết, thì chết trong giữa lòng đất mẹ ấy, mà đã không ra đi như bao người đã ra đi. Có lẽ sinh ra nơi nào thì chết ở nơi đó. Đây là cái khí khái của bậc Đại Sỹ. Dù quê hương có đọa đầy mưa nắng, thì cũng nguyện là người làm mưa nắng để vun xới cho quê hương được tươi mát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com