Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duy Tuệ - bản sao của Thanh Hải

09/05/201103:30(Xem: 5482)
Duy Tuệ - bản sao của Thanh Hải
Duy Tuệ - bản sao của Thanh Hải
với nhiều cải biên nguy hiểm
Minh Thạnh

blankDuy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.

Với những ý kiến khác nhau trong dư luận đang lên cao trước hiện tượng Duy Tuệ phỉ báng, đả kích Đức Phật, Phật pháp và Tăng Ni, không chỉ bằng những bài nói từ hải ngoại trên trang web của ông ta, mà ngang nhiên bằng sách xuất bản hợp pháp trong nước, có bạn đọc phản hồi trên mạng nêu nghi vấn, phải chăng bản thân tác giả Duy Tuệ có thế lực rất lớn trong nước, hay tác giả này có được một sự bảo trợ mạnh mẽ nào đó, nên đã là một hiện tượng cá biệt? Bài viết này, từ vấn đề nêu trên, sẽ tìm câu trả lời, mà trước hết qua việc so sánh hiện tượng Duy Tuệ với hiện tượng Thanh Hải (chúng tôi sẽ so sánh chi tiết với hiện tượng Lý Hồng Chí – Pháp Luân công trong một bài khác).

Chúng tôi nghĩ rằng, hiện tượng Duy Tuệ không phải là do cá nhân ai đó bao che, “chống lưng”, mà thực ra, vì ông ta chỉ mới hiện nguyên hình trong thời gian gần đây, và cũng không phải nhiều người biết. Duy Tuệ là một bản photocopy từ Thanh Hải, nhưng bản photocopy đó chưa chạy hết quy trình sao chụp của nó. Cho nên, mới có sự lầm lẫn, như sách Duy Tuệ được bày bán trong chùa, một số người được đặt “Phật tâm danh” vẫn nghĩ ông ta là một tu sĩ Phật giáo, với cái đầu cạo tóc, mặc áo tràng nâu, áo tràng vàng… không khác gì một vị sư.

Vì thế, thực chất của vấn đề là tác giả Duy Tuệ đã đánh lừa được một số người. Người ủng hộ ông ta và số người theo ông ta nhận Phật Tâm danh, đăng ký tham gia vào tổ chức Đại Gia Minh Triết không ít, do ông ta chưa hiện hẳn nguyên hình.

Riêng tác giả bài viết này, lần đầu tiên thấy hình Duy Tuệ chỉ cách đây 5 tháng, vẫn hỏi với sự kính trọng, rằng “thầy tu ở chùa nào vậy?”. Mua được quyển ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, người viết bài này vẫn còn trân trọng đặt nó vào tủ kinh sách, như những quyển sách Phật giáo đáng quý khác. Cho đến khi đọc hết ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, người viết bài này mới vỡ lẽ ra, và sau đó, mới thấy hết được tầm mức quan trọng của vấn đề.

Chính ra, đưa đến sự kiện Duy Tuệ gây bức xúc dư luận như hiện nay là do đệ tử của Duy Tuệ đã giới thiệu cho chúng tôi quyển““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” và các trang web của tác giả này để chúng tôi nghe các bài nói của ông. Nếu chỉ biết tác giả Duy Tuệ qua hình ảnh không khác người tu sĩ Phật giáo, hay đọc những quyển sách khác của Duy Tuệ xuất bản vào thời gian trước, chắc hẳn, Duy Tuệ, đối với tôi vẫn là một tác giả khác, hoàn toàn khác, đạo đức và đáng kính.

Quyển ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, chẳng qua, là một vụ “lọt lưới” biên tập. Duy Tuệ còn thản nhiên nói những nội dung trong quyển ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” với Tăng Ni Phật tử (theo như quyển sách, là Tăng Ni Phật tử chùa Phù Châu), thì đối với biên tập viên một nhà xuất bản không phải chuyên về tôn giáo, mọi việc sẽ còn dễ lầm lẫn đến mức nào, nhất là ông ta dàn trải lời lẽ đả kích ra nhiều vị trí tách rời trong quyển sách.

1. Đến đây, chúng ta có thể chỉ ra “định dạng” photocopy đầu tiên của ông Duy Tuệ từ Bà Thanh Hải. Cả hai cùng đả kích Phật giáo, nhưng họ chỉ làm việc đó sau khi thu phục được một số đệ tử nhất định, hầu hết là từ tín đồ Phật giáo hay những người chịu ảnh hưởng Phật giáo. Việc làm đó là để gây lòng tin trước cái đã (kẻ lừa đảo nào cũng thế!). Bà Thanh Hải cũng đả kích đức Phật, đạo Phật, nhưng cũng gài rải rác vào những bài giảng trong các tiết mục “Lời pháp cam lồ” hay “Giữa Vô thượng sư và đệ tử” trên Supreme Master Television, sau khi làm như là bà tán thán Đức Phật, Đạo Phật…

Chẳng hạn, sau khi ca ngợi Đức Phật là bậc toàn trí, đại giác, là vị minh sư, thì lại tiếp ngay rằng bà ấy nói đó là vị minh sư của thời cổ đại, phục vụ chúng sinh thời cổ đại, do đó, ngày nay phải thọ tâm ấn ở minh sư hiện đại (tức Supreme Master). Hay, sau khi bà ta giảng về ngày trước nên niệm Phật, thì dạy tiếp rằng ngày nay thì niệm “Nam mô Thanh Hải Vô thượng sư” đều được “cứu rỗi và giải thoát” (câu này in trang trọng giữa trang 9 quyển sách Bí quyết để được tức khắc khai ngộ hiện đời giải thoát, quyển 1, in ở “Taiwan R.O.C”).

Duy Tuệ cũng làm như thế, rải đều các lời đả kích Đức Phật, Phật giáo, Tăng Ni ra khắp quyển ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, cũng như đối với các bài thuyết giảng phổ biến qua mạng, xuất bản thành dĩa hay USB. Trong sách, thì mỗi đoạn khoảng vài ba câu. Trong bài giảng thì dài hơn, có thể thành một đoạn vài phút, nhưng sau đó lại nói ngay qua chuyện khác.

Các nhà xuất bản ở Việt Nam, khi có sự cố “thủng lưới” biên tập, thường đều cố gắng cho qua, tránh sự phiền phức. Theo chúng tôi, có thể chỉ có vậy, không hẳn Duy Tuệ được sự bảo trợ của ai đó mới xuất bản được sách như thế. Nếu dùng tiền chạy thuốc được, thì Bà Thanh Hải chắc chắn là có khả năng tài chính hơn ông Duy Tuệ rất nhiều. Thế mà có làm gì được đâu?

2. Bà Thanh Hải tự xưng là “Vô thượng sư”, hay thông dụng hơn, bằng tiếng Anh là “Supreme Master”, là vị giác ngộ thời hiện đại, tự chụp ảnh, quay phim mình làm hoạt động quan hệ công chúng ban đầu từ pháp tướng Ni, sau đó chuyển thành pháp tướng Bồ Tát Quan Thế Âm (song song với việc phô diễn đủ loại thời trang). Bản photocopy, ông Duy Tuệ thì dùng từ “Master”, dịch sang tiếng Việt có phần khiêm tốn hơn: “Đạo sư”. Cũng phải chịu thế, vì ông Duy Tuệ là hậu bối, xưng hiệu sau Bà Thanh Hải có gần 20 năm, việc dùng y khuôn danh xưng cũng kỳ, nên sửa đi chút đỉnh.

3. Như đã nói, cả ông Duy Tuệ và bà Thanh Hải đều khởi sự từ hình tướng tu sĩ Phật giáo. Bà Thanh Hải trong những năm 1980 là một ni cô, ông Duy Tuệ, còn không được biết đã thọ giới hay chưa nhưng vẫn có lúc vẫn đóng bộ hình tướng tăng.

4. Cả hai Supreme Master Ching Hai và Master Duy Tuệ, đều tự tuyên bố tự xưng tụng mình đã được chứng ngộ. Một điều đáng lưu ý, là điều này đều diễn ra sau khi cả hai đến Ấn Độ. Bà Thanh Hải tự quảng bá trên Supreme Master Television là tu ở tận Hy Mã Lạp Sơn. Còn ông Duy Tuệ thì cũng cho biết trong những quyển sách của mình là đã đến các Phật tích ở Ấn Độ tu học.

5. Ông Duy Tuệ cũng học ở bà Thanh Hải cách thu phục quần chúng bằng thiền. Ở Bà Thanh Hải là “Supreme Master Meditation” và thêm vào đó là “Quán âm pháp”. Còn ở ông Duy Tuệ là “Thiền Minh Triết” và “Duy Tuệ học” (sau này có chuyển đổi để khiêm tốn hơn thành “môn học Duy Tuệ”). Cả hai đều muốn tạo ra một thứ I – xùm (“-ism”, nghĩa là chủ nghĩa mới, phương pháp tu tập mới, đương nhiên là để tiến tới tôn giáo mới).

6. Bà Thanh Hải lập tổ chức “The Supreme Master Meditation Association”, từ đó đưa đến bản photocopy “Đại Gia đình Minh Triết” của ông Duy Tuệ, cùng một mô thức. Ở đây, lập tổ chức nhưng ông Duy Tuệ không dùng danh xưng “hiệp hội”, “hội”, hay “tổ chức” (association) vì ắt gặp phải những quy định trong hoạt động hội tại Việt Nam. Nên ông ta lách, thành “Đại gia đình”. Tuy nhiên, về bản chất, mục tiêu của 2 tổ chức đều là như nhau, đều để tập họp tín đồ.

7. Bà Thanh Hải, về cơ bản, không sáng tạo được giáo lý riêng. Cách làm để có nội dung thuyết giảng là lấy một số yếu tố cơ bản trong giáo lý Phật giáo, cố gắng trộn lẫn với một số tín điều tương đối có giá trị nhất định trong các tôn giáo khác, diễn đạt lại bằng các hình thức mới, cố ý “lạ hóa”, dùng các từ ngữ khác, “xào nấu” cho khác đi…, rồi làm như là phát hiện riêng (tất nhiên là không bao giờ cho biết xuất xứ gốc). Thực chất, đây là một dạng đạo văn, đánh cắp nội dung, đánh cắp ý tưởng. Ông Duy Tuệ cũng làm như thế.

8. Tìm mọi cách, khai thác mọi tình huống để khẳng định mình, để đánh bóng, đề cao tên tuổi mình. Có khi hết sức lộ liễu, trần trụi, thô lỗ, có khi kín đáo, khéo léo… Cả hai Thanh Hải và Duy Tuệ đều rất thường dùng ngôi thứ nhất số ít “tôi” trong các bài nói, với sự xác quyết, nhấn mạnh cao độ về mình. Việc đề cao, sùng bái cá nhân rất rõ, đến mức, nếu mất đi nhân vật chủ chốt, thì các tổ chức và các hoạt động có thể coi như không còn. Cả hai đều như thế ở tổ chức của họ, không thấy nhân vật số 2, người cấp phó, nhân vật truyền thừa hay một tập thể người cấp dưới phụ trách điều hành.

9. Trong cái cách đề cao cá nhân như thế, Bà Thanh Hải rất quan tâm đến việc sử dụng ảnh chụp và video clip để quảng bá hình ảnh của bà. Trong việc làm này, y phục, việc chăm chút trang điểm son phấn, tóc tai, cả đồ trang sức, hậu cảnh và nghệ thuật chụp ảnh, quay phim để làm nổi bật chân dung hết sức được chú ý. Đây cũng là cách làm thường thấy ở các ca sĩ, diễn viên muốn tự lăng xê, làm ngôi sao. Ông Duy Tuệ cũng bắt chước theo hướng như vậy.
Chúng ta cứ quan tâm quan sát ảnh chụp của ông ta đưa lên mạng internet hay bìa sách thì sẽ thấy rõ điều đó. Nó được xử lý rất cẩn thận, trau tria. Tuy nhiên, ông Duy Tuệ chỉ mới đầu tư nhiều cho hình ảnh, trong khi mảng video clip còn kém xa bà Thanh Hải.

10. Cả 2 đều cố gắng khai các phương tiện truyền thông hiện đại, đặc biệt là internet để triển khai hoạt động. Sách tuy cũng được chú ý, nhưng thường được dùng để thể hiện họ như một tác gia có “trí tuệ”, “uyên bác”. Sách được dùng nhiều trong giai đoạn đầu. Đối với bà Thanh Hải là vào cuối thập niên 1990, còn ông Duy Tuệ thì trong giai đoạn hiện nay. Nhưng cũng phải thấy rằng việc triển khai “giáo lý”, hoạt động và vận động, thu nhận tín đồ bằng các phương tiện gián tiếp như internet, sách vở, báo chí… là đặc điểm chung của những tôn giáo mới.

11. Nếu Bà Thanh Hải chú trọng quảng bá cho sự “gia trì” của bà đối với những người thu phục, thì ông Duy Tuệ cũng thế, mặc dù cái chất tâm linh ở ông có vẻ ít hơn về mức độ. Ông Duy Tuệ không bảo những người quy phục niệm ‘Nam mô Đạo sư Duy Tuệ” kiểu “Nam mô Thanh Hải Vô thượng sư” để được gia trì, nhưng ông khuyến khích trưng bày ảnh ông, đeo ảnh nhỏ của ông trên ngực để được may mắn (!?).

12. Bà Thanh Hải và ông Duy Tuệ ít công khai kêu gọi ủng hộ tài chính trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng hoạt động kinh tài rất mạnh với nhiều cơ sở, hình thức kinh doanh. Bà Thanh Hải mở hệ thống nhà hàng chay, chế tác để bán với giá cao những sản phẩm mỹ nghệ, đồ trang sức, y phục mang dấu ấn của bà, tổ chức bán sách, bán dĩa DVD, văn hóa phẩm… . Những tác phẩm được nói là của bà sáng tác gồm cả… tác phẩm hội họa, âm nhạc, điêu khắc!

Ông Duy Tuệ thì chỉ mới tổ chức bán sách, dĩa, có mở rộng sang kinh doanh sản phẩm điện tử như loa, ampli, USB… Giá thành sản phẩm bán ra hầu như là cao, vì kèm thương hiệu liên hệ với thương hiệu “Vô thượng sư”, “đạo sư”, được hiểu ngầm là người mua phải chịu giá cao để ủng hộ, thay vì đóng tiền ủng hộ trực tiếp.

13. Theo cách thiết lập quan hệ trực tiếp giữa người lãnh đạo tôn giáo mới với tín đồ, ở bà Thanh Hải có “truyền tâm ấn”, còn người theo ông Duy Tuệ thì có “Phật tâm danh”. Đây thực sự là hình thức kết nạp thành viên vào tổ chức, nhưng trực tiếp từ người lãnh đạo, không ở cấp cơ sở. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu những nét chính về những gì mà ông Duy Tuệ và photocopy lại từ bà Thanh Hải chắc chắn là sẽ chưa đầy đủ. Bạn đọc có thể góp ý kiến bổ sung.

Cái mà ông Duy Tuệ cải biên, là Bà Thanh Hải về cơ bản không nhắm đến mục tiêu hoạt động công khai về mặt tư tưởng ở Việt Nam (dù là có thể có cố gắng nhưng không thành công), còn ông Duy Tuệ thì vẫn cố đeo đuổi mục tiêu trên. Tại Việt Nam, bà Thanh Hải dùng một hệ thống nhà hàng chay, cơ sở sản xuất thực phẩm chay để ẩn lậu các hoạt động có tính chất tư tưởng, “tâm linh”, còn chính các hoạt động tư tưởng, tâm linh, hiệp hội thì lén lút. Trong khi đó, ông Duy Tuệ thì cố gắng triển khai các hoạt động tư tưởng, “tâm linh” một cách công khai, hợp pháp. Đây là điều mà ông Duy Tuệ thành công hơn so với bà Thanh Hải, dù cả hai đều ở nước ngoài chỉ đạo hoạt động từ xa.

Để làm được điều này ông Duy Tuệ thời kỳ đầu (khoảng 2006) thì viết sách “tâm linh”, trông có vẻ như là sách Phật giáo (chưa đả kích Phật giáo), còn giai đoạn gần đây gia tăng màu sắc sách “kỹ năng sống”, sách “học làm người” cho những tác phẩm phát hành trong nước, để lồng vào đó những đòn đả kích Phật giáo. So với việc Bà Thanh Hải phải đưa lậu sách in từ Đài Loan vào Việt Nam, thì rõ ràng ông Duy Tuệ với sách in trong nước đã vượt bà Thanh Hải ở mặt này.

Tuy nhiên, trong một vài năm, sự hiện diện về hoạt động tư tưởng và “tâm linh” của Bà Thanh Hải không cần đến việc phổ biến công khai sách vở, băng dĩa bài giảng, vì bà có kênh truyền hình Supreme master TV phủ sóng Việt Nam bằng sóng Ku (thu dễ dàng chỉ bằng một anten parabol nhỏ đường kính 0,6 m, thiết bị giá thành rất thấp). Nhưng hiện nay, đài truyền hình này đã ngưng hoạt động, có lẽ vì vấn đề kinh phí. Như thế, không loại trừ việc Bà Thanh Hải trở lại học tập cách làm của ông Duy Tuệ, tìm cách phổ biến sách vở, băng dĩa công khai tại Việt Nam.

Việc cải biên, mà theo chúng tôi là rất nguy hiểm, nằm ở chỗ ông Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.

Minh Thạnh
(Phật Tử Việt Nam)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/07/2024(Xem: 596)
Có lẽ một lúc nào đó khi tầng nhận thức của chúng ta được nâng cao theo quá trình tiến hoá của sự tu tập, khiến cho lời khai thị đã chấn động, và tự nhiên khiến chúng ta sẽ nhìn nhận vấn đề đang được đề cập một cách sâu sắc hơn nhiều trong khi tâm linh là một lĩnh vực sâu và cần thời gian rất dài để khai sáng. Và người viết cũng từng được dạy rằng: “Trong vấn đề tu tập hãy dùng trí tuệ mình để tìm Phật chứ đừng được dạy gì thì nghe nấy, vì thực tế tuy chúng ta cần nghe những lời giảng về Ngài từ những người khác, nhưng chúng ta sẽ tìm Ngài trong sự chiêm nghiệm cuộc sống, trong sự biến đổi không ngừng của tự nhiên, trong mọi thứ với vị trí trí của mình ở tầng nhận thức nào.”
03/07/2024(Xem: 803)
Như vậy là các bạn học sinh sinh viên đã chính thức nghỉ hè. Với các em, đây là quãng thời gian quý giá để nghỉ ngơi, thư giãn, phát triển bản thân, tìm hiểu và học hỏi những gì hợp nhất, cần nhất, tốt nhất cho chính mình. Nắm bắt được nguyện vọng và nhu cầu này, năm nay một chương trình rất thú vị được tổ chức ngay trong những ngày tới. Với chủ đề “Ươm Mầm Thiện Nhân”, trại hè Phật Giáo tổ chức tại chùa Đại Tùng Lâm Hoa Sen mong muốn tạo môi trường sinh hoạt hè bổ ích giúp các bạn trẻ, đặc biệt là gieo thiện duyên để các em biết đến Đạo Phật và được trải nghiệm tu học Phật Pháp, tiếp thu những giá trị tốt đời đẹp đạo mà Đức Phật đã tìm ra và để lại cho chúng ta để ứng dụng vào đời sống học tập, làm việc, sinh hoạt hàng ngày.
30/06/2024(Xem: 561)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp. Nhưng mấy lúc gần đây nhân lỗi lầm của một hai vị sư khi thuyết pháp đã dấy lên một làn sóng nói rằng Phật Giáo tiêu ma rồi, thời mạt là đây chứ còn đâu nữa khiến hàng Phật tử hết sức dao động và lo lắng. Thế nhưng tại sao giữa thời mạt pháp mà: -Chùa Hoằng Pháp, Chùa Giác Ngộ liên tục tổ chức các khóa tu hoặc thuyết pháp hoặc giao lưu, xuất gia gieo duyên cho vài ngàn người, có khi lên tới cả chục ngàn bao gồm quý vị cao niên, thanh viên sinh viên và trẻ em?
25/06/2024(Xem: 451)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Qua các triều đại Đinh, Lê, Lý Trần, Lê, Nguyễn và cận đại chúng ta có biết bao thánh tăng, danh tăng, thiền sư chứng đắc. tu hành cả đời, đã đóng góp vào sự hưng thịnh của đất nước đồng thời giữ gìn giềng mối đạo đức cho dân tộc. Thế nhưng chưa bao giờ có một khối người, có khi lên tới cả ngàn, tràn xuống đường, tung hô, bái lậy như bái lậy hành giả Thích Minh Tuệ. Họ coi đây như một vị thánh, một A La Hán, thậm chí một vị Phật Sống trong khi ông khẳng định mình chỉ là một công dân bình thường đang tụ tập theo lời dạy của Đức Phật.
22/06/2024(Xem: 913)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả. Khi một thế lực chính trị hay một nhóm nào đó muốn thay đổi cán cân quyền lực thì việc đầu tiên là tạo ra những dư luận xấu cho đối phương và có lợi cho mình để lèo lái tư tưởng quần chúng. Tạo ra dư luận giả chính là thuyết âm mưu vậy. Thuyết âm mưu tác động nhân tâm, điều này sử sách gọi là “tâm công” nghĩa là đánh vào lòng người!
12/06/2024(Xem: 997)
Gần đây trong việc học tập mới, người viết đã sử dụng Excel để làm một tờ lịch cho năm 2025 với những danh ngôn của các học giả uyên bác nhờ vậy mới chiêm nghiệm ra sự khác nhau quá xa giữa Tri Thức và Trí Tuệ trong đạo Phật. Quả thật vậy, AI chỉ giúp ta lượm lặt những hiểu biết của người khác rồi từ đó nghiên cứu nghiền ngẫm suy tư một cách rộng rãi hơn qua nhiều lĩnh vực khác nhau ( triết học, nhân văn, khoa học) để phát minh nhiều sáng tạo mới rồi trở lại sử dụng với kiến thức mới, mà chưa thể giúp con người có khả năng phát khởi những thành tựu tiến bộ tâm linh trên con đường giải thoát thông qua tinh tấn nỗ lực.
12/06/2024(Xem: 787)
Một buổi sáng thức dậy, bạn mở điện thoại lên, sẽ có nhiều những thông tin hiện ra trên một màn hình phẳng, đập vào mắt chúng ta sẽ là những dòng tin tức nóng hổi ở nhiều lĩnh vực, thể loại khác nhau, thông tin như một sa bàn, chằng chịt, đa dạng và dường như tiếp nối bất tận, có những thông tin thuộc về chính thống, có những thông tin trái chiều như cách người ta thường gọi và chia ra. Dường như chúng ta đang bị trôi trong dòng thông tin đa chiều phức tạp ấy, đôi lúc hỗn loạn và mù mịt, mù mịt không phải vì thiếu thông tin mà mù mịt vì quá nhiều thông tin đổ dồn về một lúc, khiến người ta khó có thể phân biệt được cái gì là thật, cái gì là giả. Con người cũng chia ra làm nhiều thái cực để tranh luận, phản biện, nhìn nhận vấn đề theo nhiều hướng khác nhau, mỗi nhóm tư duy sẽ bảo vệ lý lẽ, luận điểm cho mình và dường như khó tìm được một điểm chung đồng thuận. Như một quy luật tự nhiên, khi mặt đất bên dưới lớp nước bị dịch chuyển lên xuống đột ngột sẽ gây ra những đợt sóng
02/06/2024(Xem: 639)
Hiện nay hiện tượng hành giả Minh Tuệ đã đi vào thời điểm bùng nổ quá độ không sao kiểm soát được nữa. Đã có một người đàn ông 47 tuổi, từ Mỹ về hối hả tham gia cuộc đi bộ với hành giả Minh Tuệ, say nắng, mệt lả và chết tại bệnh viện Quảng Trị. Rồi lại có những người quá ái mộ nói rằng hành giả Minh Tuệ đã thành Phật hay là một vị Phật sống. Có thật hành giả Minh Tuệ đã thành Phật rồi chăng?
02/06/2024(Xem: 1819)
Trong một thời gian, cộng đồng Khoa học đã đưa ra những cảnh báo nghiêm trọng, về tình trạng khẩn cấp bởi môi trường toàn cầu, dự đoán một cuộc khủng hoảng với bằng chứng không thể chối cãi, đã chồng chất trong nhiều thập kỷ. Đại dịch là một trường hợp bệnh lây truyền từ động vật sang người, hệ sinh thái toàn cầu sẽ sớm rối loạn và sụp đổ và hậu quả là nguy cơ an ninh lương thực toàn cầu, sự cạn kiệt tài nguyên vật chất và biến đổi khí hậu đã đặt chúng ta vào một kỷ nguyên chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Mô hình kinh tế xã hội mà chúng ta đã đạt được, cá nhân và tập thể, buộc chúng ta phải lựa chọn giữa việc duy trì đặc quyền của mình hoặc tạo ra một hành tinh xanh, vì một không gian sinh tồn bền vững và hạnh phúc cho tất cả các thế hệ mai sau.
02/06/2024(Xem: 820)
Năm 2023 có đến 22.000.000 bài văn của sinh viên do AI viết, tỷ lệ giáo viên, giáo sư dùng AI để chấm bài cũng tăng thêm 23%. Hiện nay AI đã và đang xâm nhập vào mọi mặt của đời sống con người, làm thay con người, trợ giúp và cả làm hại con người. AI có thể viết sách, vẽ tranh, chụp hình soạn nhạc, lái máy bay, tàu chiến để bỏ bom một cách chính xác và theo như số liệu tin tức vừa nói ở trên thì tương lai sắp đến học sinh – sinh viên sẽ không làm bài, không viết bài, không làm luận văn nữa, giáo sư cũng không cần phải đọc bài, chấm bài… tất cả dùng AI khỏi tốn công tốn sức. Nếu cứ cái đà này thì con người không cần suy nghĩ, tư duy, động não. Con người chẳng cần cảm xúc, rung động từ tâm hồn hay trái tim nữa. AI làm thay tất cả cho người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com