Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Pháp Cú (bản dịch của HT Thích Minh Châu)

15/12/201006:07(Xem: 12044)
Kinh Pháp Cú (bản dịch của HT Thích Minh Châu)

Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TIỂU BỘ TẬP I

Khuddhaka Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2543 - 1999

kinhphapcu_htminhchau


Dhammapada Sutta
Khuddaka Nikaya - Sutta Pitaka

--- o0o ---

The Path of Truth 

English translation by Bhikkhu Khantipalo & Sister Susanna- Sydney, Australia, 1993

Kinh Pháp Cú 

Vietnamese translation by Bhikkhu Thích Minh Châu - Sài Gòn, Việt Nam, 1996

--- o0o ---


HT. Thich Minh Chau-3

Giới thiệu:

Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Pháp (Dhamma) có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời dạy của Đức Phật; Cú (Pada) là lời nói, câu kệ. Ngoài ra, trong ngữ văn Pali, "Pada" còn có nghĩa là con đường. Do đó, Dhammapada thường được dịch là Con đường Chân lý (Path of Truth), Con đường Phật Pháp (Path of the Buddha's Teaching).

Dhammapada là tập hợp 423 bài kệ do đức Phật nói ra trong nhiều dịp khác nhau, trong suốt 45 năm hoằng dương Chánh Pháp của Ngài. Các bài kệ nầy được sắp xếp trong 26 phẩm, do các vị đại đệ tử thu xếp và tụng đọc trong Đại hội Kết tập Kinh điển lần đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt. Mỗi bài kệ chứa đựng một nội dung tu học rất sâu sắc và phong phú, không thể nào chỉ đọc một lần mà hiểu hết được. Cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần, tra cứu các bản chú giải, và suy nghiệm từ các tu chứng tự thân thì mới mong thông ngộ và thấu đạt ý nghĩa của các lời dạy cao quý đó. Mỗi bài kệ là một nguồn cảm hứng cao đẹp, một lối đi mới lạ, một sức mạnh kỳ diệu giúp chúng ta có một niềm tin vững chắc hơn trên con đường tu học để tiến đến giác ngộ, giải thoát. (...)

Bình Anson,
tháng 6 - 1998,
Perth, Western Australia


1. Song yếu
2. Không phóng dật
3. Tâm
4. Bông hoa
5. Người ngu
6. Người trí
7. A-la-hán
8. Ngàn
9. Ác

10. Đao trượng
11. Già
12. Tự ngã
13. Thế gian
14. Phật-đà
15. An lạc
16. Hỷ ái
17. Phẫn nộ
18. Cấu uế

19.Pháp trụ
20. Đạo
21. Tạp
22. Địa ngục
23. Voi
24. Tham ái
25. Tỷ kheo
26.Bà-la-môn

 

I- Yamakavagga

Twin Verses

Phẩm Song Yếu

1. Mind precedes all knowables,
mind's their chief, mind-made are they.
If with a corrupted mind
one should either speak or act
dukkha follows caused by that,
as does the wheel the ox's hoof.

1. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.

2. Mind precedes all knowables,
mind's their chief, mind-made are they.
If with a clear, and confident mind
one should speak and act
happiness follows caused by that,
as one's shadow ne'er departing.

2. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.

3. Who bears within them enmity:
"He has abused and beaten me,
defeated me and plundered me",
hate is not allayed for them.

3. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.

4. Who bears within no enmity:
"He has abused and beaten me,
defeated me and plundered me",
hate is quite allayed for them.

4. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.

5. Never here by enmity
are those with enmity allayed,
they are allayed by amity,
this is the timeless Truth.

5. Với hận diệt hận thù,
Đời này không có được.
Không hận diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.

6. Still others do not understand
that we must perish in this world,
those who understand this,
their quarrels are allayed.

6. Và người khác không biết,
Chúng ta đây bị hại.
Chỗ ấy, ai hiểu được
Tranh luận được lắng êm.

7. One who beauty contemplates,
whose faculties are unrestrained,
in food no moderation knows,
is languid, who is indolent:
that one does Mara overthrow
as wind a tree of little strength.

7. Ai sống nhìn tịnh tướng,
Không hộ trì các căn,
ăn uống thiếu tiết độ,
biếng nhác, chẳng tinh cần.
Ma uy hiếp kẻ ấy,
như cây yếu trước gió.

8. One who foulness contemplates,
whose faculties are well-restrained,
in food does moderation know,
is full of faith, who's diligent:
that one no Mara overthrows,
as wind does not a rocky mount.

8. Ai sống quán bất tịnh,
Khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ,
Có lòng tin, tinh cần,
Ma không uy hiếp được,
Như núi đá, trước gió.

9. One who wears the stainless robe
who's yet not free from stain,
without restraint and truthfulness
for the stainless robe's unfit.

9. Ai mặc áo cà sa. [1]
tâm chưa rời uế trược,
không tự chế, không thực,
không xứng áo cà sa

10. But one who is self-cleansed of stain,
in moral conduct firmly set,
having restraint and truthfulness
is fit for the stainless robe.

10. Ai rời bỏ uế trược,
giới luật khéo nghiêm trì,
tự chế, sống chơn thực,
thật xứng áo cà sa.

11. Conceiving the real in unreality
while seeing unreal the truly real,
roaming fields of thoughts ill-formed:
never they at the real arrive.

11. Không chân, tướng chân thật,
chân thật, thấy không chân:
chúng không đạt chân thật,
do tà tư, tà hạnh.

12. That which is real they know as real,
that unreal, to be unreal;
roaming fields of thought well-formed
they at the real arrive.

12. Chân thật, biết chân thật,
Không chân, biết không chân:
chúng đạt được chân thật,
do chánh tư, chánh hạnh.

13. Even as the rain does penetrate
a house that's badly thatched,
likewise lust does penetrate
the mind uncultivated.

13. Như mái nhà vụng lợp,
Mưa liền xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm không tu,
Tham dục liền xâm nhập.

14. As rain does never penetrate
a house that is well-thatched,
so lust does never penetrate
the mind well cultivated.

14. Như ngôi nhà khéo lợp,
Mưa không xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm khéo tu,
Tham dục không xâm nhập.

15. Here one grieves, one grieves hereafter,
in both ways does the evil-doer grieve;
one grieves and is afflicted,
one's own base kammas seeing.

15. Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm.

16. Here one joys, one joys hereafter,
in both ways does the merit-maker joy;
one joys and one rejoices,
one's own pure kammas seeing.

16. Nay vui,đời sau vui,
Làm phước, hai đời vui,
Nó vui, nó an vui,
Thấy nghiệp tịnh mình làm.

17. Here one burns, one burns hereafter,
in both ways does the evil-doer burn;
evil I've done, remorsefully one burns,
and more one burns passed to realms of woe.

17. Nay than, đời sau than,
Kẻ ác, hai đời than,
Nó than: 'Ta làm ác'
Đọa cõi dữ, than hơn.

18. Here one's glad, one's glad hereafter,
in both ways is the merit-maker glad;
"Merit I've made", serenely one is glad,
and more one's glad passed to blissful states.

18. Nay sướng, đời sau sướng,
Làm phước, hai đời sướng.
Nó sướng: 'Ta làm thiện',
Sanh cõi lành, sướng hơn.

19. Though many sacred texts he chants
the heedless man's no practicer,
as cowherd counting other's kine
in samanaship he has no share.

19. Nếu người nói nhiều kinh,
Không hành trì, phóng dật;
Như kẻ chăn bò người,
Không phần Sa môn hạnh.

20. Though few of the sacred texts he chants
in Dhamma does his practice run,
clear of delusion, lust and hate,
wisdom perfected, with heart well-freed,
not clinging to this or other world,
in samanaship he has a share

20. Dầu nói ít kinh điển,
Nhưng hành pháp, tùy pháp,
Từ bỏ tham, sân, si,
Tĩnh giác, tâm giải thoát,
Không chấp thủ hai đời,
Dự phần Sa môn hạnh.

 

Chú thích:
[1] Áo màu vàng, chỉ bậc xuất gia.

 

II- Appamadavagga

Heedfulness

Phẩm Không Phóng Dật

21. Heedfulness is the Deathless path,
heedlessness, the path to death.
Those who are heedful do not die,
heedless are like the dead.

21. Không phóng dật, đường sống,
Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật, không chết,
Phóng dật như chết rồi.

22. The wise then, recognizing this
as the distinction of heedfulness,
pleased with the spheres of Nobles Ones,
in heedfulness rejoice.

22. Biết rõ sai biệt ấy,
Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ, không phóng dật,
An vui hạnh bậc Thánh.

23. They meditate persistently,
constantly they firmly strive,
the steadfast to Nibbana reach,
the Unexcelled Secure from bonds.

23. Người hằng tu thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn.
Bậc trí hưởng Niết Bàn,
Đạt an tịnh vô thượng.

24. Assiduous and mindful,
pure kamma making, considerate,
restrained, by Dhamma living,
and in heedfulness,
for one such spreads reknown.

24. Nỗ lực, giữ chánh niệm,
Tịnh hạnh, hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp,
Ai sống không phóng dật,
Tiếng lành ngày tăng trưởng.

25. By energy and heedfulness,
by taming and by self-control,
the one who's wise should make as isle
no flood can overwhelm.

25. Nỗ lực, không phóng dật,
Tự điều, khéo chế ngự.
Bậc trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn.

26. Foolish folk of little wit
in heedlessness indulge,
the one who's wise guards heedfulness
kin to the greatest wealth.

26. Chúng ngu si, thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,
Như giữ tài sản quý.

27. Don't indulge in heedlessness!
Don't come near to sexual joys!
The heedful and contemplative
attains abundant bliss.

27. Chớ sống đời phóng dật,
Chớ mê say dục lạc.
Không phóng dật, thiền định,
Đạt được an lạc lớn.

28. When one who's wise does drive away
heedlessness by heedfulness,
having ascended wisdom's tower
steadfast, one surveys the fools,
griefless, views the grieving folk,
as mountaineer does those below.

28. Người trí dẹp phóng dật,
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Không sầu, nhìn khổ sầu,
Bậc trí đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu, đất bằng.

29. Among the heedless, heedful,
among the sleepy, wide awake.
As the swift horse outruns a hack
so one of good wisdom wins.

29. Tinh cần giữa phóng dật,
Tỉnh thức giữa quần mê.
Người trí như ngựa phi,
Bỏ sau con ngựa hèn.

30. Heedfulness is always praised,
heedlessness is ever blamed.
By heedfulness did Magha go
to lordship of the gods.

30. Đế Thích [1] không phóng dật,
Đạt ngôi vị Thiên chủ.
Không phóng dật, được khen ;
Phóng dật, thường bị trách.

31. The bhikkhu liking heedfulness,
seeing fear in heedlessness,
advances as a conflagration
burning fetters great and small.

31. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Bước tới như lửa hừng,
Thiêu kiết sử lớn nhỏ.

32. The bhikkhu liking heedfulness,
seeing fear in heedlessness,
never will he fall away,
near is he to Nibbana.

32. Vui thích không phóng dật,
Tỷ kheo sợ phóng dật,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết Bàn.

  Chú thích:
[1] Đế Thích: Magha (Manavaka), vị lãnh đạo chư thiên

 

 

III- Cittavagga

Mind

Phẩm Tâm

33. Mind agitated, wavering,
hard to guard and hard to check,
one of wisdom renders straight
as arrow-maker a shaft.

33. Tâm hoảng hốt giao động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên.

34. As fish from watery home
is drawn and cast upon the land,
even so flounders this mind
while Mara's Realm abandoning.

34. Như cá quăng lên bờ,
Vất ra ngoài thủy giới;
Tâm này vùng vẫy mạnh,
Hãy đoạn thế lực Ma.

35. The mind is very hard to check
and swift, it falls on what it wants.
The training of the mind is good,
a mind so tamed brings happiness.

35. Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm;
Tâm điều, an lạc đến.

36. The mind is very hard to see
and find, it falls on what it wants.
One who's wise should guard the mind,
a guarded mind brings happiness.

36. Tâm khó thấy, tế nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến.

37. Drifting far, straying all alone,
formless, recumbent in a cave.
They will be free from Mara's bonds
who do restrain this mind.

37. Chạy xa, sống một mình,
Không thân, ẩn hang sâu [1]
Ai điều phục được tâm,
Thoát khỏi Ma trói buộc. [2]

38. One of unsteady mind,
who doesn't know True Dhamma,
who is of wavering confidence
wisdom fails to win.

38. Ai tâm không an trú,
Không biết chân diệu pháp,
Tịnh tín bị rúng động,
Trí tuệ không viên thành.

39. One of unflooded mind,
a mind that is not battered,
abandoning evil, merit too,
no fear for One Awake.

39. Tâm không đầy tràn dục,
Tâm không (hận) công phá,
Đoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi.

40. Having known this urn-like body,
made firm this mind as fortress town,
with wisdom-weapon one fights Mara
while guarding booty, unattached.

40. Biết thân như đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống Ma với gươm trí ;
Giữ chiến thắng [3] không tham [4]

41. Not long alas, and it will lie
this body, here upon the earth.
Discarded, void of consciousness,
useless as a rotten log.

41. Không bao lâu thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng.

42. Whatever foe may do to foe,
or haters those they hate
the ill-directed mind indeed
can do one greater harm.

42. Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà, [5]
Gây ác cho tự thân.

43. What one's mother, what one's father,
whatever other kin may do,
the well directed mind indeed
can do greater good.

43. Điều mẹ cha bà con,
Không có thể làm được,
Tâm hướng chánh làm được
Làm được tốt đẹp hơn.

  Chú thích:
[1] Trú xứ của Thức
[2] Dục giới, sắc giới, vô sắc giới
[3] Tức là quán (vipassana) mới chứng được.
[4] Đối với các thiền mới chứng
[5] Hướng về 10 pháp bất thiện như sát sanh v.v.

 

IV- Pupphavagga

Flowers

Phẩm Hoa

44. Who will comprehend this earth,
the world of Yama, and the gods?
Who will discern the well-taught Dhamma
as one who's skilled selects a flower?

44. Ai chinh phục đất này
Dạ ma, Thiên giới này?
Ai khéo giảng Pháp cú,
Như người [1] khéo hái hoa?

45. One Trained will comprehend this earth,
the world of Yama, and the gods,
One Trained discerns the well-taught Dhamma
as one who's skilled selects a flower.

45. Hữu học chinh phục đất,
Dạ ma, Thiên giới này.
Hữu học giảng Pháp cú,
Như người khéo hái hoa.

46. Having known this froth-like body
and awakening to its mirage nature,
smashing Mara's flowered shafts
unseen beyond the Death-king go.

46. Biết thân như bọt nước,
Ngộ thân là như huyễn,
Bẻ tên hoa của Ma,
Vượt tầm mắt Thần chết

47. For one who has a clinging mind
and gathers only pleasure-flowers,
Death does seize and carry away
as great flood a sleeping village.

47. Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say, tham nhiễm,
Bị Thần chết mang đi,
Như lụt trôi làng ngủ.

48. For one of desires insatiate
who gathers only pleasure-flowers,
for one who has a clinging mind
Death the sovereign overpowers.

48. Người nhặt các loại hoa,
Ý đắm say, tham nhiễm,
Các dục chưa thỏa mãn,
Đã bị chết chinh phục.

49. Just as a bee in a flower
harming neither hue nor scent
gathers nectar, flies away,
so in towns a Wise One fares.

49. Như ong đến với hoa,
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy.
Bậc Thánh đi vào làng.

50. Not others' opposition
nor what they did or failed to do,
but in oneself should be sought
things done, things left undone.

50. Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm.
Nên nhìn tự chính mình,
Có làm hay không làm.

51. Just as a gorgeous blossom
brilliant but unscented,
so fruitless the well-spoken words
of one who does not act.

51. Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc nhưng không hương.
Cũng vậy, lời khéo nói,
Không làm, không kết quả.

52. Just as a gorgeous blossom,
brilliant and sweet-scented,
so fruitful the well-spoken words
of one who acts as well.

52. Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc lại thêm hương ;
Cũng vậy, lời khéo nói,
Có làm, có kết quả.

53. As from a mass of flowers
many a garland may be made,
so by one born mortal
should many good deeds be done.

53. Như từ một đống hoa,
Nhiều tràng hoa được kết.
Cũng vậy, thân sanh tử,
Làm được nhiều thiện sự.

54. The fragrance of flowers drifts with the wind
as sandalwood, jasmine of lavender.
The fragrance of the virtuous sweeps the wind,
all pervasive is virtue of the good.

54. Hương các loại hoa thơm [2]
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Tõa khắp mọi phương trời.

55. Sandalwood or lavender,
lotus or the jasmine great,
of these many fragrances
virtue's fragrance is supreme.

55. Hoa chiên đàn, già la,
Hoa sen, hoa vũ quý.
Giữa những hương hoa ấy,
Giới hương là vô thượng.

56. Faint is this fragrance
of lavender and sandalwood,
but fragrance of the virtuous
soars sublime amongst the gods.

56. Ít giá trị hương này,
Hương già la, chiên đàn ;
Chỉ hương người đức hạnh,
Tối thượng tỏa Thiên giới.

57. Of those with perfect virtue
who dwell in heedfulness,
freed by Final Knowledge:
Mara cannot know their path.

57. Giữa ai có giới hạnh,
An trú không phóng dật.
Chánh trí, chơn giải thoát,
Ác ma không thấy đường.

58. As beside the highroad
where rubbish in a pit is flung
there flourishes the lotus bloom
fragrant and the mind's delight.

58. Như giữa đống rác nhớp,
Quăng bỏ trên đường lớn,
Chỗ ấy hoa sen nở,
Thơm sạch, đẹp ý người.

59. So among rubbish-beings,
common humans blind-become,
the Perfect Buddha's pupil
outshines with wisdom bright.

59. Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế nhiễm, mù, phàm tục,
Đệ tử bậc Chánh Giác,
Sáng ngời với Tuệ Tri.

  Chú thích:
[1] Thợ làm vòng hoa
[2] Các loại hoa thơm: hương già la, chiên đàn, v.v.

 

 

V- Balavagga

Fools

Phẩm Ngu

60. Long is the night for the sleepless,
long is the league for the weary one,
samsara's way is long for fools
who know not the Dhamma True.

60. Đêm dài cho kẻ thức,
Đường dài cho kẻ mệt,
Luân hồi dài, kẻ ngu,
Không biết chơn diệu pháp.

61. If a wayfarer fails to find
one better or equal,
steadfast he should fare alone
for a fool's no fellowship.

61. Tìm không được bạn đường,
Hơn mình hay bằng mình,
Thà quyết sống một mình,
Không làm bạn kẻ ngu.

62. "Sons have I, wealth have I",
thus the fool is fretful.
He himself is not his own,
how then are sons, how wealth?

62. "Con tôi, tài sản tôi",
Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có,
Con đâu, tài sản đâu?.

63. Conceiving so his foolishness
the fool is thereby wise,
while "fool" is called that fool
conceited that he's wise.

63. Người ngu nghĩ mình ngu,
Nhờ vậy thành có trí.
Người ngu tưởng có trí,
Thật xứng gọi chí ngu.

64. Though all through life the fool
might wait upon the wise,
no more Dhamma can he sense
than spoon the taste of soup.

64. Người ngu, dầu trọn đời,
Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp,
Như muỗng với vị canh.

65. Though briefly one intelligent
might wait upon the wise,
quickly Dhamma he can sense
as tongue the taste of soup.

65. Người trí, dù một khắc,
Thân cận người có trí,
Biết ngay chân diệu pháp,
Như lưỡi với vị canh.

66. Fools of feeble wisdom fare
enemies to themselves,
making evil kamma
which is of bitter fruit.

66. Người ngu si thiếu trí,
Tự ngã thành kẻ thù.
Làm các nghiệp không thiện,
Phải chịu quả đắng cay.

67. That kamma's not well-made
from which there is remorse,
of which one senses the result
with weeping and a tear-stained face.

67. Nghiệp làm không chánh thiện,
Làm rồi sanh ăn năn,
Mặt nhuốm lệ, khóc than,
Lãnh chịu quả dị thục.

68. But well-made is that kamma
which done brings no remorse,
of which one senses the result
with glad mind and with joy.

68. Và nghiệp làm chánh thiện,
Làm rồi không ăn năn,
Hoan hỷ, ý đẹp lòng,
Hưởng thọ quả dị thục.

69. When evil kamma's immature
the fool thinks it is honeyed,
but when the evil has matured
then to the fool comes dukkha.

69. Người ngu nghĩ là ngọt,
Khi ác chưa chín muồi;
Ác nghiệp chín muồi rồi,
Người ngu chịu khổ đau.

70. Month after month with blady-grass tip
the fool may take his food;
he's not worth the slightest bit
of one who Dhamma knows.

70. Tháng tháng với ngọn cỏ,
Người ngu có ăn uống [1]
Không bằng phần mười sáu,
Người hiểu pháp hữu vi.

71. As milk, is evil kamma done,
so slowly does it sour.
Smouldering does it follow the fool
like fire with ashes covered.

71. Nghiệp ác đã được làm,
Như sữa, không đông ngay,
Cháy ngầm theo kẻ ngu,
Như lửa tro che đậy.

72. Truly to his detriment
skill is born to the fool;
ruined is his better nature
and scattered are his wits.

72. Tự nó chịu bất hạnh,
Khi danh đến kẻ ngu.
Vận may bị tổn hại,
Đầu nó bị nát tan.

73. For position a fool may wish:
among the bhikkhus precedence,
in monasteries authority,
from other families honours.

73. Ưa danh không tương xứng,
Muốn ngồi trước tỷ kheo,
ưa quyền tại tịnh xá,
Muốn mọi người lễ kính.

74. Both monks and laymen, let them think
"This was done by me,
whatever the works, both great and small,
let them depend on me".
Such the intention of a fool, 
swollen his greed and conceit.

74. "Mong cả hai tăng, tục,
Nghĩ rằng (chính ta làm).
Trong mọi việc lớn nhỏ,
Phải theo mệnh lệnh ta"
Người ngu nghĩ như vậy
Dục và mạn tăng trưởng.

75. One is the way to worldly gain,
another to Nibbana goes.
Clearly comprehending this
the bhikkhu, Buddha's follower
should wallow not in proffered gifts,
surrendering instead to solitude.

75. Khác thay duyên thế lợi,
Khác thay đường Niết Bàn.
Tỷ kheo, đệ tử Phật,
Hãy như vậy thắng tri.
Chớ ưa thích cung kính,
Hãy tu hạnh viễn ly.

  Chú thích:
[1] Hành trì khổ hạnh của người ngoại đạo không bằng 1/16 người hiểu pháp hữu vi.

 

 

VI- Panditavagga

The Wise

Phẩm Hiền Trí

76. Should one a man of wisdom meet
who points out faults and gives reproof,
who lays a hidden treasure bare,
with such a sage should one consort.
Consorting so is one enriched
and never in decline.

76. Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng,
Hãy thân cận người trí !
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.

77. Let him exhort, let him instruct,
and check one from abasement.
Dear indeed is he to the true,
not dear is he to the false.

77. Những người hay khuyên dạy,
Ngăn người khác làm ác,
Được người hiền kính yêu,
Bị người ác không thích.

78. Don't go around with evil friends,
with rogues do not resort.
Spend your time with noble friends,
and worthy ones consort.

78. Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.

79. Happy is he who Dhamma drinks
with heart that's clear and cool.
One so wise e'er delights
in Dhamma declared by the Noble.

79. Pháp hỷ đem an lạc,
Với tâm tư thuần tịnh;
Người trí thường hoan hỷ,
Với pháp bậc Thánh thuyết.

80. Irrigators govern waters,
fletchers fashion shafts,
as joiners shape their timber
those who are wise tame themselves.

80. Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn gỗ,
Bậc trí nhiếp tự thân.

81. Just as a mighty boulder
stirs not with the wind,
so the wise are never moved
either by praise or blame.

81. Như đá tảng kiên cố,
Không gió nào lay động,
Cũng vậy, giữa khen chê,
Người trí không giao động.

82. Even as a fathomless lake,
a lake so calm and clear,
so dhammas having heard
serene the wise become.

82. Như hồ nước sâu thẳm,
Trong sáng, không khuấy đục,
Cũng vậy, nghe chánh pháp,
Người trí hưởng tịnh lạc.

83. Everything the good renounce,
the peaceful chatter not of fond delights,
and whether touched by pleasure or pain
nor joy or woe in the wise is seen.

83. Người hiền bỏ tất cả, [1]
Người lành không bàn dục,
Dầu cảm thọ lạc khổ,
Bậc trí không vui buồn.

84. Neither for one's own, nor for another's sake
one should wish for children, wealth and estate,
nor success desire by means unjust,
thus virtuous, and wise, righteous one would be.

84. Không vì mình, vì người.
Không cầu được con cái,
Không tài sản quốc độ,
Không cầu mình thành tựu,
Với việc làm phi pháp.
Vị ấy thật trì giới,
Có trí tuệ, đúng pháp.

85. Among folk they are few
who go to the Further Shore,
most among humanity
scurry on this hither shore.

85. Ít người giữa nhân loại,
Đến được bờ bên kia.
Còn số người còn lại,
Xuôi ngược chạy bờ này.

86. But they who practise Dhamma
according to Dhamma well-told,
from Death's Domain hard to leave
they'll cross to the Further Shore.

86. Những ai hành trì pháp,
Theo chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đến bờ bên kia,
Vượt ma lực khó thoát.

87. Abandoning the Dhammas dark
the wise should cultivate the bright,
having from home to homeless gone
in solitude unsettling.

87. Kẻ trí bỏ pháp đen,
Tu tập theo pháp trắng.
Bỏ nhà, sống không nhà,
Sống viễn ly khó lạc.

88. Let them desire that rare delight
renouncing pleasures, owing nought,
those wise ones should cleanse themselves
from all defilements of the mind.

88. Hãy cầu vui Niết Bàn,
Bỏ dục, không sở hữu,
Kẻ trí tự rửa sạch,
Cấu uế từ nội tâm.

89. Those who come to Wakening
with mind full-cultivated,
delight, no longer clinging,
in relinquishing attachment:
they, without pollution, radiant,
in this world have reached Nibbana.

89. Những ai với chánh tâm,
Khéo tu tập giác chi,
Từ bỏ mọi ái nhiễm,
Hoan hỷ không chấp thủ.
Không lậu hoặc, sáng chói,
Sống tịch tịnh ở đời.

  Chú thích:
[1] Bỏ các dục

 

 

VII- Arahantavagga

The saints

Phẩm A La Hán

90. With journey finished and sorrowless,
from everything completely free,
for one who has loosened all the ties
passion’s fever is not found.

90. Đích đã đến, không sầu,
Giải thoát ngoài tất cả,
Đoạn trừ mọi buộc ràng,
Vị ấy không nhiệt não.

91. Mindful Ones exert themselves,
in no abode do they delight,
as swans abandoning their lake
home after home they leave behind.

91. Tự sách tấn chánh niệm,
Không thích cư xá nào,
Như ngỗng trời rời ao,
Bỏ sau mọi trú ẩn.

92. For those who don’t accumulate,
who well reflect upon their food,
they have as range the nameless and
the void of perfect freedom too.
As birds that wing through space,
hard to trace their going.

92. Tài sản không chất chứa,
Ăn uống biết liễu trì,
Tự tại trong hành xứ,
Không vô tướng, giải thoát,
Như chim giữa hư không,
Hướng chúng đi khó tìm.

93. For whom pollutions are destroyed,
not attached to any food,
he has as range the nameless and
the void of perfect freedom too.
As birds that wing through space,
hard to trace his going.

93. Ai lậu hoặc đoạn sạch,
Ăn uống không tham đắm,
Tự tại trong hành xứ,
Không, vô tướng, giải thoát.
Như chim giữa hư không,
Dấu chân thật khó tìm.

94. Whose faculties are pacified
as steeds by charioteers well-tamed,
with pride abandoned, unpolluted,
to even devas this One’s dear.

94. Ai nhiếp phục các căn,
Như đánh xe điều ngự,
Mạn trừ, lậu hoặc dứt,
Người vậy, Chư Thiên mến.

95. Like earth is one who’s well-behaved,
secure and not resentful,
as city-post, as filth-free lake,
no wanderings-on for One Who’s Thus.

95. Như đất không hiềm hận,
Như cột trụ kiên trì,
Như hồ, không bùn nhơ,
Không luân hồi, vị ấy.

96. Peaceful his mind and peaceful
his speech and actions too,
perfect in knowledge of freedom,
One Thus is of utmost peace.

96. Người tâm ý an tịnh,
Lời an, nghiệp cũng an,
Chánh trí, chơn giải thoát,
Tịnh lạc là vị ấy.

97. With no beliefs, the Unmade known,
with fetters finally severed,
with kammas cut and craving shed,
attained to humanity’s heights.

97. Không tin [1], hiểu Vô vi.
Người cắt mọi hệ lụy,
Cơ hội tận, xả ly
Vị ấy thật tối thượng.

98. Whether in town or woods,
whether in vale, on hill,
wherever dwell the Arahants
so pleasing there the earth.

98. Làng mạc hay rừng núi
Thung lũng hay đồi cao,
La Hán trú chỗ nào,
Đất ấy thật khả ái.

99. Delightful are the forests
where folk do not delight,
there the Passionless delight,
they’re not pleasure-seekers.

99. Khả ái thay núi rừng,
Chỗ người phàm không ưa,
Vị ly tham ưa thích,
Vì không tìm dục lạc.

  Chú thích:
[1] Vị A La Hán tự chứng biết, không tin ai làm cho giác ngộ.

 

 

VIII- Sahassavagga

Thousands

Phẩm Ngàn

100. Though a thousand speeches be
composed of meaningless lines,
better the single meaningful line
one hears, then comes to calm.

100. Dầu nói ngàn ngàn lời,
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nghĩa,
Nghe xong, được tịnh lạc.

101. Though a thousand verses be
composed of meaningless lines,
better the single line of verse
one hears, then comes to calm.

101. Dầu nói ngàn câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong, được tịnh lạc.

102. Though a hundred verses chant
composed of meaningless lines,
better the single Dhamma line
one hears, then comes to calm.

102. Dầu nói trăm câu kệ
Nhưng không gì lợi ích
Tốt hơn một câu Pháp,
Nghe xong, được tịnh lạc.

103. Though thousand times a thousand men
in battle one may conquer,
yet should one conquer just oneself
one is the greatest conqueror.

103. Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng.

104. Greater the conquest of oneself
than subjugating others,
that one who's always well-restrained,
that one who's tamed of self .

104. Tự thắng , tốt đẹp hơn,
Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự.

105. Neither deva nor minstrel divine,
nor Mara together with Brahma,
can overthrow the victory
of such a one as this.

105. Dầu Thiên Thần, Thát Bà,
Dầu Ma Vương, Phạm Thiên
Không ai chiến thắng nổi,
Người tự thắng như vậy.

106. Month by month for a hundred years
a thousand one might sacrifice,
but if for only a moment one
might honour the self-developed,
such honour then were better by far
than a century of sacrifice.

106. Tháng tháng bỏ ngàn vàng,
Tế tự cả trăm năm,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cúng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.

107. One might tend for a hundred years
the forest's sacred fire,
but if for only a moment one
might honour the self-developed,
such honour then were better by far
than a century of sacrifice.

107. Dầu trải một trăm năm,
Thờ lửa tại rừng sâu,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cúng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.

108. Whatever one who merit seeks
should for a year make sacrifice,
all comes not to a quarter part
of honouring the Noble.

108. Suốt năm cúng tế vật,
Để cầu phước ở đời.
Không bằng một phần tư
Kính lễ bậc chánh trực.

109. For one of respectful nature
who ever the elders honours,
long life and beauty, joy and strength,
these qualities increase.

109. Thường tôn trọng, kính lễ
Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn pháp được tăng trưởng :
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh.

110. Though one should live a hundred years
foolish, uncontrolled,
yet better is life for a single day
moral and meditative.

110. Dầu sống một trăm năm,
Ác giới, không thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Trì giới, tu thiền định.

111. Though one should live a hundred years
foolish, uncontrolled,
yet better is life for a single day
wise and meditative.

111. Ai sống một trăm năm,
Ác tuệ, không thiền định.
Tốt hơn sống một ngày,
Có tuệ, tu thiền định.

112. Though one should live a hundred years
lazy, of little effort,
yet better is life for a single day
strongly making effort.

112. Ai sống một trăm năm,
Lười nhác không tin tấn,
Tốt hơn sống một ngày
Tinh tấn tận sức mình.

113. Though one should live a hundred years
not seeing rise and fall,
yet better is life for a single day
seeing rise and fall.

113. Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp sinh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sinh diệt.

114. Though one should live a hundred years
not seeing the Deathless State,
yet better is life for a single day
seeing Deathlessness.

114. Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.

115. Though one should live a hundred years
not seeing Dhamma Supreme,
yet better is life for a single day
seeing Dhamma Supreme.

115. Ai sống một trăm năm,
Không thấy Pháp Tối thượng,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được Pháp Tối thượng.

 

 

IX- Papavagga

Evil

Phẩm Ác

116. Make haste towards the good
and check the mind from evil.
The one who's is slow in making merit
delights in the mind in evil.

116. Hãy gấp làm điều lành,
Ngăn tâm làm điều ác.
Ai chậm làm việc lành,
Ý ưa thích việc ác.

117. If one should some evil do
then do it not again and again.
Do not wish for it anew
for evil grows to dukkha.

117. Nếu người làm điều ác,
Chớ tiếp tục làm thêm.
Chớ ước muốn điều ác,
Chứa ác, tất chịu khổ.

118. If one should some merit make
do it again and again.
One should wish for it anew
for merit grows to joy.

118. Nếu người làm điều thiện,
Nên tiếp tục làm thêm.
Hãy ước muốn điều thiện,
Chứa thiện, được an lạc.

119. As long as evil ripens not
even the evil one goodness knows,
but when the evil ripens
then that person evil knows.

119. Người ác thấy là hiền.
Khi ác chưa chín muồi,
Khi ác nghiệp chín muồi,
Người ác mới thấy ác.

120. As long as goodness ripens not
even the good one evil knows,
but when the goodness ripens
then that person knows the good.

120. Người hiền thấy là ác,
Khi thiện chưa chín muồi,
Khi thiện nghiệp chín muồi,
Người hiền thấy là thiện.

121. Think lightly not of evil,
"It will not come to me",
for by the falling of water drops
a water jar is filled.
The fool with evil fills himself,
he soaks up little by little.

121. Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng "chưa đến mình",
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác
Do chất chứa dần dần.

122. Think lightly not of goodness,
"It will not come to me",
for by the falling of water drops
a water jar is filled.
The sage with goodness fills himself,
he soaks up little by little.

122. Chớ chê khinh điều thiện
Cho rằng "chưa đến mình",
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần.

123. As merchant on a perilous path,
great wealth having little guard,
as life-loving man with poison
so with evil heedful be.

123. Ít bạn đường, nhiều tiền,
Người buôn tránh đường hiểm.
Muốn sống, tránh thuốc độc,
Hãy tránh ác như vậy.

124. If in the hand's no wound
poison one may bear.
A woundless one is poisoned not,
non-doers have no evil.

124. Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc.
Không thương tích, tránh độc,
Không làm, không có ác.

125. Who offends the inoffensive,
the innocent and blameless one,
upon that fool does evil fall
as fine dust flung against the wind.

125. Hại người không ác tâm,
Người thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.

126. Some find birth within a womb,
evil-doer quicken in hell,
good-farers to the heavens go,
the Unpolluted wholly cool.

126. Một số sinh bào thai,
Kẻ ác sinh địa ngục,
Người thiện lên cõi trời,
Vô lậu chứng Niết Bàn.

127. Neither in sky nor surrounding by sea,
nor by dwelling in a mountain cave,
nowhere is found that place in earth
where one's from evil kamma free.

127. Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp.

128. Neither in sky nor surrounding by sea,
nor by dwelling in a mountain cave,
nowhere is found that place in earth
where one's by Death not overcome.

128. Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn khỏi tay Thần Chết.

 

 

X- Dandavagga

Punishment

Phẩm Hình Phạt

129. All tremble at force,
of death are all afraid.
Likening others to oneself
kill not nor cause to kill.

129. Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người sợ tử vong.
Lấy mình làm ví dụ
Không giết, không bảo giết.

130. All tremble at force,
dear is life to all.
Likening others to oneself
kill not nor cause to kill.

130. Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người thương sống còn;
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết, không bảo giết.

131. Whoever harms with force
those desiring happiness,
as seeker after happiness
one gains no future joy.

131. Chúng sanh cầu an lạc,
Ai dùng trượng hại người,
Để tìm lạc cho mình,
Đời sau không được lạc.

132. Whoever doesn't harm with force
those desiring happiness,
as seeker after happiness
one then gains future joy.

132. Chúng sanh cầu an lạc,
Không dùng trượng hại người,
Để tìm lạc cho mình,
Đời sau hưởng được lạc.

133. Speak not harshly to other folk,
speaking so, they may retort.
Dukkha indeed is quarrelsome speech
and force for force may hurt you.

133. Chớ nói lời ác độc,
Nói ác, bị nói lại,
Khổ thay lời phẩn nộ,
Đao trượng phản chạm người.

134. If like a broken gong
never you reverberate,
quarreling's not part of you,
that Nibbana's reached.

134. Nếu tự mình yên lặng,
Như chiếc chuông bị bể.
Người đã chứng Niết Bàn
Người không còn phẩn nộ.

135. As with force the cowherds drive
their cattle out to graze,
like this decay and death drive out
the life from all beings.

135. Với gậy người chăn bò,
Lùa bò ra bãi cỏ;
Cũng vậy, già và chết,
Lùa người đến mạng chung.

136. When the fool does evil deeds
their end he does not know,
such kamma burns the one unwise
as one who's scorched by fire.

136. Người ngu làm điều ác,
Không ý thức việc làm.
Do tự nghiệp, người ngu
Bị nung nấu, như lửa.

137. Whoever forces the forceless
or offends the inoffensive,
speedily comes indeed
to one of these ten states:

137. Dùng trượng phạt không trượng
Làm ác người không ác.
Trong mười loại khổ đau,
Chịu gấp một loại khổ:

138. Sharp pain or deprivation,
or injury to the body,
or to a serious disease,
derangement of the mind;

138. Hoặc khổ thọ khốc liệt,
Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,
Hay loạn ý tán tâm.

139. Troubled by the government,
or else false accusation,
or by loss of relatives,
destruction of one's wealth;

139. Hoặc tai vạ từ vua,
Hay bị vu trọng tội;
Bà con phải ly tán,
Tài sản bị nát tan.

140. Or one's houses burn
on raging conflagration,
at the body's end, in hell
arises that unwise one.

140. Hoặc phòng ốc nhà cửa
Bị hỏa tai thiêu đốt;
Khi thân hoại mạng chung,
Ác tuệ sanh địa ngục.

141. Not going naked, nor matted hair, nor filth,
nor fasting, not sleeping on bare earth,
no penance on heels, nor sweat nor grime
can purify a mortal still overcome by doubt.

141. Không phải sống lõa thể
Bện tóc, tro trét mình,
Tuyệt thực, lăn trên đất,
Sống nhớp, siêng ngồi xổm,
Làm con người được sạch,
Nếu không trừ nghi hoặc.

142. Even though adorned, if living in peace
calm, tamed, established in the holy life,
for beings all laying force aside:
one pure, one peaceful, a bhikkhu is he.

142. Ai sống tự trang sức,
Nhưng an tịnh, nhiếp phục,
Sống kiên trì, phạm hạnh,
Không hại mọi sinh linh.
Vị ấy là phạm chí,
Hay sa môn, khất sĩ.

143. Where in the world is found
one restrained by shame,
awakened out of sleep
as splendid horse with whip?

143. Thật khó tìm ở đời,
Người biết thẹn, tự chế,
Biết tránh né chỉ trích
Như ngựa hiền tránh roi.

144. As splendid horse touched with whip,
be ardent, deeply moved,
by faith and virtue, effort too,
by meditation, Dhamma's search,
by knowledge, kindness, mindfulness;
abandon dukkha limitless!

144. Như ngựa hiền chạm roi,
Hãy nhiệt tâm, hăng hái,
Với tín, giới, tinh tấn,
Thiền định cùng trạch pháp.
Minh hạnh đủ, chánh niệm,
Đoạn khổ này vô lượng.

145. Irrigators govern water,
fletchers fashion shafts,
as joiners shape their timber
those of good conduct tame themselves.

145. Người trị thủy dẫn nước,
Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn ván,
Bậc tự điều, điều thân.

 

 

XI- Jaravagga

Old Age

Phẩm Già

146. Why this laughter, why this joy,
when it's ever blazing?
Shrouded all about by gloom
won't you look for the light?

146. Cười gì, hân hoan gì,
Khi đời mãi bị thiêu?
Bị tối tăm bao trùm,
Sao không tìm ngọn đèn?

147. See this body beautiful
a mass of sores, a congeries,
much considered but miserable
where nothing's stable, nothing persists.

147. Hãy xem bong bóng đẹp,
Chỗ chất chứa vết thương,
Bệnh hoạn nhiều suy tư,
Thật không gì trường cửu.

148. All decrepit is this body,
diseases' nest and frail;
this foul mass is broken up
for life does end in death.

148. Sắc này bị suy già,
Ổ tật bệnh, mỏng manh,
Nhóm bất tịnh đổ vỡ,
Chết chấm dứt mạng sống.

149. These dove-hued bones
scattered in Fall,
like long white gourds,
what joy in seeing them?

149. Như trái bầu mùa thu,
Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu,
Thấy chúng còn vui gì?

150. This city's made of bones
plastered with flesh and blood,
within are stored decay and death,
besmearing and conceit.

150. Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa.

151. Even rich royal chariots rot,
the body too does rot, decay,
but undecaying's Dhamma of the Good;
who to the good declare.

151. Xe vua đẹp cũng già,
Thân này rồi sẽ già.
Pháp bậc thiện, không già.
Như vậy bậc chí thiện
Nói lên cho bậc thiện.

152. Just as the ox grows old
so this man of little learning:
his fleshiness increases,
his wisdom doesn't grow.

152. Người ít nghe kém học,
Lớn già như trâu đực.
Thịt nó tuy lớn lên,
Nhưng tuệ không tăng trưởng.

153. Through many of samsara's births
I hasten seeking, finding not
the builder of this house:
pain is birth again, again.

153. Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.

154. O Builder of this house, you're seen!
you shall not build a house again;
all you beams have given away,
rafters of the ridge decayed,
mind to the Unconditioned gone,
exhaustion of craving has it reached.

154. Ôi! Người làm nhà kia [1]
Nay ta đã thấy ngươi!
Người không làm nhà nữa.
Đòn tay [2] ngươi bị gẫy,
Kèo cột [3] ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.

155. Who have not led the holy life
nor riches won while young,
they linger on as aged cranes
around a fished-out pond.

155. Lúc trẻ, không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền.
Như cò già bên ao,
Ủ rũ, không tôm cá.

156. Who have not led the holy life
nor riches won while young,
they languish on, worn-out bows,
sighing for the past.

156. Lúc trẻ, không phạm hạnh,
Không tìm kiếm bạc tiền.
Như cây cung bị gẫy,
Thở than những ngày qua

  Chú thích:
[1] Ái
[2] Thân
[3] Phiền não.

 

 

XII- Attavagga

Self

Phẩm Tự Ngã

157. If one holds oneself as dear,
protected, one protects oneself.
One who's wise should be aware
through all the watches three.

157. Nếu biết yêu tự ngã,
Phải khéo bảo vệ mình,
Người trí trong ba canh,
Phải luôn tỉnh thức.

158. One should first establish
oneself in what is proper.
One may then teach others,
and wise, one is not blamed.

158. Trước hết tự đặt mình,
Vào những gì thích đáng.
Sau mới giáo hóa người,
Người trí khỏi bị nhiễm.

159. As one teaches others
so should one do oneself.
Well-tamed, on may tame others,
oneself to tame is hard.

159. Hãy tự làm cho mình,
Như điều mình dạy người.
Khéo tự điều, điều người,
Khó thay tự điều phục !

160. Oneself is refuge of oneself,
who else indeed could refuge be?
By good training of oneself
one gains a refuge hard to gain.

160. Tự mình y chỉ mình,
Nào có y chỉ khác.
Nhờ khéo điều phục mình,
Được y chỉ khó được.

161. By oneself is evil done,
it's born of self and self-produced.
Evil grinds the unwise one
as diamond does the hardest gem.

161. Điều ác mình tự làm,
Tự mình sanh, mình tạo.
Nghiền nát kẻ ngu si,
như kim cương, ngọc báu.

162. He whose conduct's very bad
like oak-tree choked with ivy,
so he does towards himself
what enemies would wish.

162. Phá giới quá trầm trọng,
Như dây leo bám cây
Gieo hại cho tự thân,
Như kẻ thù mong ước.

163. Easy is what's bad to do,
what's harmful to oneself.
But what is good, of benefit,
is very hard to do.

163. Dễ làm các điều ác,
Dễ làm tự hại mình.
Còn việc lành, việc tốt,
Thật tối thượng khó làm.

164. Whatever man unwise relies
on evil views and so condemns
the Teaching of the Arahants,
or Noble Ones who Dhamma live,
he, as a bamboo fruiting,
fruits to self-destruction.

164. Kẻ ngu si miệt thị,
Giáo pháp bậc La Hán,
Bậc Thánh, bậc chánh mạng.
Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau [1]
Mang quả tự hoại diệt.

165. By oneself is evil done,
by oneself defiled,
by oneself it's left undone,
by self alone one purified.
Purity, impurity on oneself depend,
no one can purify another.

165. Tự mình, điều ác làm
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình, ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai!

166. Let none neglect their good
for others' good however great.
Know well oneself's own good
and to that good attend.

166. Dầu lợi người bao nhiêu,
Chớ quên phần tư lợi,
Nhờ thắng trí tư lợi.
Hãy chuyên tâm lợi mình.

  Chú thích:
[1] Katthaka

 

 

XIII- Lokavagga

World

Phẩm Thế Gian

167. Do not follow base desires,
nor live with heedlessness,
do not follow wrong beliefs
to grow in worldly ways.

167. Chớ theo pháp hạ liệt.
Chớ sống mặc, buông lung;
Chớ tin theo tà kiến,
Chớ tăng trưởng tục trần.

168. Rouse yourself, be diligent,
in Dhamma faring well.
Who dwells in Dhamma's happy
in this birth and the next.

168. Nỗ lực, chớ phóng dật!
Hãy sống theo chánh hạnh;
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau.

169. Fare in Dhamma coursing well,
in evil courses do not fare.
Who dwells in Dhamma's happy
in this birth and the next.

169. Hãy khéo sống chánh hạnh,
Chớ sống theo tà hạnh!
Người chánh hạnh hưởng lạc,
Cả đời này, đời sau.

170. Just as a bubble may be seen,
just as a faint mirage,
so should the world be viewed
that the Death-king sees one not.

170. Hãy nhìn như bọt nước,
Hãy nhìn như cảnh huyển!
Quán nhìn đời như vậy,
Thần chết không bắt gặp.

171. Come, look upon this world
like to a rich, royal chariot
wherein fools lounge at ease
but alert ones linger not.

171. Hãy đến nhìn đời này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say.

172. Whoso was heedless formerly
but later lives with heedfulness
illuminates all this world
as moon when free of clouds.

172. Ai sống trước buông lung,
Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này.
Như trăng thoát mây che.

173. Who by wholesome kamma
covers up the evil done
illumines all this world
as moon when free from clouds.

173. Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này,
Như trăng thoát mây che.

174. This world is blind-become
few are here who see within
as few the birds break free from net
so those who go to heavens.

174. Đời này thật mù quáng,
Ít kẻ thấy rõ ràng.
Như chim thoát khỏi lưới,
Rất ít đi thiên giới.

175. Swans upon the sun's path fly,
the powerful through space,
conquering Mara and his host
away from the world the wise are led.

175. Như chim thiên nga bay,
Thần thông liệng giữa trời;
Chiến thắng ma, ma quân,
Kẻ trí thoát đời này.

176. For one who falsely speaks,
who disregards the Dhamma,
who other lives denies:
no evil this one will not do.

176. Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm.

177. To heavenly realms the mean don't fare,
fools magnanimity ne'er acclaim,
but the one of wisdom rejoices at giving
and happy will be in future lives.

177. Keo kiết không sanh thiên,
Kẻ ngu ghét bố thí,
Người trí thích bố thí,
Đời sau, được hưởng lạc.

178. Than o'er the earth sole sovereignty,
than going unto heaven,
than lordship over all the worlds:
better the Steam-winner's Fruit.

178. Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trờì,
Hơn chủ trì vũ trụ,
Quả Dự Lưu tối thắng.

 

 

XIV- Buddhavagga

The Buddha

Phẩm Phật Đà

179. That Buddha traceless of infinite range
whose victory none may e'er undo,
whose vanquished follow to no world,
then by which track will you trace him?

179. Vị chiến thắng không bại,
Vị bước đi trên đời,
Không dấu tích chiến thắng,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi
Bậc không để dấu tích?

180. That Buddha traceless of infinite range
in whom's no entangling craving
and no ensnaring not anywhere leading,
then by which track will you trace him?

180. Ai giải tỏa lưới tham,
Ái phược hết dắt dẫn,
Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi
Bậc không để dấu tích?

181. E'er intent on concentration,
joyful in peace of letting go,
mindful, wise, the perfect Buddhas,
to even devas they are dear.

181. Người trí chuyên thiền định,
Thích an tịnh viễn ly,
Chư thiên đều ái kính,
Bậc chánh giác, chánh niệm.

182. Human birth is hard to gain,
hard for mortals is their life,
to come to Dhamma True is hard,
rare the Buddhas' arising.

182. Khó thay, được làm người,
Khó thay, được sống còn,
Khó thay, nghe Diệu Pháp,
Khó thay, Phật ra đời!

183. Every evil never doing
and in wholesomeness increasing
and one's heart well-purifying:
this is the Buddhas' Teaching.

183. Không làm mọi điều ác.
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.

184. Patience's the austerity supreme,
"Nibbana's supreme" the Buddhas say.
One who irks or others harms
is not ordained or monk become.

184. Chư Phật thường giảng dạy;
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng;
Niết bàn quả tối thượng;
Xuất gia không phá người;
Sa môn không hại người.

185. Not reviling, neither harming,
well-restrained in Patimokha,
knowing reason in one's food,
dwelling far in solitude,
and striving in the mind sublime:
this is the Buddhas' Teaching.

185. Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
Sàng tọa chỗ nhàn tịnh
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy.

186. Not by rain of golden coins
is found desires' satiety,
desires are dukkha, of little joy,
thus a wise one understands.

186. Dầu mưa bằng tiền vàng,
Các dục khó thỏa mãn.
Dục đắng nhiều ngọt ít,
Biết vậy là bậc trí.

187. Even with pleasures heavenly
that one finds no delight,
the perfect Buddha's pupil
delights in craving's end.

187. Đệ tử bậc chánh giác,
Không tìm cầu dục lạc,
Dầu là dục chư thiên,
Chỉ ưa thích ái diệt.

188. Many a refuge do they seek
on hills, in woods, to sacred trees,
to monasteries and shrines they go;
folk by fear tormented.

188. Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp.

189. Such refuge isn't secure,
such refuge isn't supreme.
From all dukkha one's not free
unto that refuge gone.

189. Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng.
Quy y các chỗ ấy,
Không thoát mọi khổ đau?

190. But going for refuge to Buddha,
to Dhamma and the Sangha too,
one sees with perfect wisdom
the tetrad of the Noble Truths:

190. Ai quy y Đức Phật,
Chánh Pháp và chư Tăng,
Ai dùng chánh tri kiến,
Thấy được bốn Thánh đế.

191. Dukkha, its causal arising,
the overcoming of dukkha,
and the Eight-fold Path that's Noble
leading to dukkha's allaying.

191. Thấy khổ và khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành,
Đưa đến khổ não tận.

192. Such refuge is secure,
such refuge is supreme.
From all dukkha one is free
unto that refuge gone.

192. Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy,
Mới thoát mọi khổ đau.

193. Hard to find the pure and noble
who isn't born just anywhere,
wherever one so wise is born
that family thrives happily.

193. Khó gặp bậc thánh nhơn,
Không phải đâu cũng có.
Chỗ nào bậc trí sanh,
Gia đình tất an lạc.

194. Blessed is the birth of Buddhas,
blest True Dhamma's Teaching,
blest the Sangha's harmony
and blessed is their striving.

194. Vui thay, Phật ra đời!
Vui thay, Pháp được giảng!
Vui thay, Tăng hòa hợp!
Hòa hợp tu, vui thay!

195. Who venerates the venerable
Buddhas or their disciples,
have overcome the manifold,
grief and lamentation left.

195. Cúng dường bậc đáng cúng,
Chư Phật hoặc đệ tử,
Các bậc vượt hý luận,
Đoạn diệt mọi sầu bi.

196. They who are "Thus", venerable,
cool and free from every fear -
no one is able to calculate
their merit as "just-so-much".

196. Cúng dường bậc như vậy,
Tịch tịnh, không sợ hãi,
Các công đức như vậy,
Không ai ước lường được.

 

 

XV- Sukhavagga

Happiness

Phẩm An Lạc

197. We the unhating live
happily midst the haters,
among the hating humans
from hatred dwell we free.

197. Vui thay, chúng ta sống,
Không hận, giữa hận thù!
Giữa những người thù hận,
Ta sống, không hận thù!

198. We who are healthy live
happily midst the unhealthy,
among unhealthy humans
from ill-health dwell we free.

198. Vui thay, chúng ta sống,
Không bệnh giữa ốm đau!
Giữa những người bệnh hoạn,
Ta sống, không ốm đau.

199. We the unfrenzied live
happily midst the frenzied,
among the frenzied humans
from frenzy dwell we free.

199. Vui thay, chúng ta sống,
Không rộn giữa rộn ràng;
Giữa những người rộn ràng,
Ta sống, không rộn ràng.

200. We for whom there's nought
live indeed so happily,
joy-sustained we'll be
like resplendent gods.

200. Vui thay chúng ta sống,
Không gì, gọi của ta.
Ta sẻ hưởng hỷ lạc,
Như chư thiên Quang Âm.

201. Victory gives rise to hate,
those defeated lie in pain,
happily rest the Peaceful
surrendering victory-defeat.

201. Chiến thắng sinh thù oán,
Thất bại chịu khổ đau,
Sống tịch tịnh an lạc.
Bỏ sau mọi thắng bại.

202. There's no fire like lust,
no evil like aversion,
no dukkha like the aggregates,
no higher bliss than Peace.

202. Lửa nào sánh lửa tham ?
Ác nào bằng sân hận ?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc.

203. Hunger is the greatest ill,
the greatest dukkha - conditionedness,
knowing this reality at it is:
Nibbana bliss supreme.

203. Đói ăn, bệnh tối thượng,
Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy,
Niết bàn, lạc tối thượng.

204. Health's the greatest gain,
contentment, best of wealth,
trusting's best of kin,
Nibbana bliss supreme.

204. Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết đủ, tiền tối thượng.
Thành tín đối với nhau,
Là bà con tối thượng,
Niết bàn, lạc tối thượng.

205. Having drunk of solitude
and tasted Peace Sublime,
free from sorrow, evil-free,
one drinks of Dhamma's joy.

205. Đã nếm vị độc cư,
Được hưởng vị nhàn tịnh,
Không sợ hãi, không ác,
Nếm được vị pháp hỷ.

206. So fair's the sight of Noble Ones,
ever good their company,
by relating not to fools
ever happy one may be.

206. Lành thay, thấy thánh nhân,
Sống chung thường hưởng lạc.
Không thấy những người ngu,
Thường thường được an lạc.

207. Who moves among fool's company
must truly grieve for long,
for ill the company of fools
as ever that of foes,
but weal's a wise one's company
as meeting of one's folk.

207. Sống chung với người ngu,
Lâu dài bị lo buồn.
Khổ thay gần người ngu,
Như thường sống kẻ thù.
Vui thay, gần người trí,
Như chung sống bà con.

208. Thus go with the steadfast, wise, well-versed,
firm of virtue, practice-pure,
Ennobled "Such", who's sound, sincere,
as moon in wake of the Milky Way.

208. Do vậy :
Bậc hiền sĩ, trí tuệ
Bậc nghe nhiều, trì giới,
Bậc tự chế, Thánh nhân;
Hãy gần gũi, thân cận
Thiện nhân, trí giả ấy,
Như trăng theo đường sao.

 

 

XVI- Piyavagga

Affection

Phẩm Hỷ ái

209. One makes an effort where none's due
with nothing done where effort's due,
one grasps the dear, gives up the Quest
envying those who exert themselves.

209. Tự chuyên, không đáng chuyên
Không chuyên, việc đáng chuyên
Bỏ đích, theo hỷ ái,
Ganh tị bậc tự chuyên.

210. Don't consort with dear ones
at any time, nor those not dear,
'tis dukkha not to see the dear,
'tis dukkha seeing those not dear.

210. Chớ gần gũi người yêu,
Trọn đời xa kẻ ghét.
Yêu không gặp là khổ,
Oán phải gặp cũng đau.

211. Others then do not make dear
for hard's the parting from them.
For whom there is no dear, undear
in them no bonds are found.

211. Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là ác;
Những ai không yêu ghét,
Không thể có buộc ràng.

212. From endearment grief is born,
from endearment fear,
one who is endearment-free
has no grief -- how fear?

212. Do ái sinh sầu ưu,
Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?

213. From affection grief is born,
from affection fear,
one who is affection-free
has no grief -- how fear?

213. Ái luyến sinh sầu ưu,
Ái luyến sinh sợ hãi.
Ai giải thoát ái luyến
Không sầu, đâu sợ hãi?

214. From lustfulness arises grief,
from lustfulness springs fear,
one wholly free of lustfulness
has no grief -- how fear?

214. Hỷ ái sinh sầu ưu,
Hỷ ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát hỷ ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?

215. From attachment grief is born,
from attachment fear,
one who is attachment-free
has no grief -- how fear?

215. Dục ái sinh sầu ưu,
Dục ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi dục ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?

216. Out of craving grief is born,
out of craving fear,
one fully freed of craving
has no grief -- how fear?

216. Tham ái sinh sầu ưu,
Tham ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?

217. Perfect in virtue and insight,
firm in Dhamma, knower of Truth,
dear to the people's such a one
who does what should be done.

217. Đủ giới đức, chánh kiến ;
Trú pháp, chứng chân lý,
Tự làm công việc mình,
Được quần chúng ái kính.

218. One with a wish for the Undeclared,
with mind so well-pervaded,
a mind not bound in pleasures of sense,
an "upstream-goer's" called.

218. Ước vọng pháp ly ngôn [1]
Ý cảm xúc thượng quả [2]
Tâm thoát ly các dục,
Xứng gọi bậc Thượng Lưu.

219. One who's long away from home
returns in safety from afar,
then friends, well-wishers, kinsmen too
are overjoyed at his return.

219. Khách lâu ngày ly hương,
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu,
Hân hoan đón chào mừng.

220. In the same way, with merit done
when from this world to another gone
those merits then receive one there
as relatives a dear one come.

220. Cũng vậy các phước nghiệp,
Đón chào người làm lành,
Đời này đến đời kia.
Như thân nhân, đón chào.

  Chú thích:
[1] Niết Bàn
[2]Ba Thánh quả

 

XVII- Kodhavagga

Anger

Phẩm Phẫn Nộ

221. Anger and pride should one forsake,
all fetters cast aside,
dukkha's none where no desire,
no binding to body or mind.

221. Bỏ phẫn nộ, ly mạn,
Vượt qua mọi kiết sử,
Không chấp trước danh sắc.
Khổ không theo vô sản.

222. Who checks arising anger
as with chariot away,
that one I call a charioteer,
others merely grip the reins.

222. Ai chận được phẫn nộ,
Như dừng xe đang lăn,
Ta gọi người đánh xe,
Kẻ khác, cầm cương hờ.

223. Anger conquer by amity,
evil conquer with good,
by giving conquer miserly,
with truth the speaker of falsity.

223. Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy.

224. Speak truth and be not angry,
from little give to one who asks,
by these conditions three to go
unto the presence of the gods.

224. Nói thật, không phẫn nộ,
Của ít, thí người xin,
Nhờ ba việc lành này,
Người đến gần thiên giới.

225. Those sages inoffensive
in body e'er restrained
go unto the Deathless State
where gone they grieve no more.

225. Bậc hiền không hại ai,
Thân thường được chế ngự
Đạt được cảnh bất tử,
Đến đây, không ưu sầu.

226. For the ever-vigilant
who train by day and night
upon Nibbana e'er intent
pollutions fade away.

226. Những người thường giác tỉnh,
Ngày đêm siêng tu học,
Chuyên tâm hướng Niết bàn,
Mọi lậu hoặc được tiêu.

227. An ancient saying, Atula,
not only said today --
"They are blamed who silent sit,
who often speak they too are blamed,
and blamed are they of measured speech" --
there's none in the world unblamed.

227.A-tu-la, nên biết,
Xưa vậy, nay cũng vậy,
Ngồi im, bị người chê,
Nói nhiều, bị người chê,
Nói vừa phải, bị chê.
Làm người không bị chê,
Thật khó tìm ở đời.

228. There never was, there'll never be
nor now is ever found
a person blamed perpetually
or one who's wholly praised.

228. Xưa, vị lai,và nay,
Đâu có sự kiện này,
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen.

229. But those who are intelligent
praise one of flawless conduct, sage,
in wisdom and virtue well-composed,
having observed him day by day.

229. Sáng sáng, thẩm xét kỹ.
Bậc có trí tán thán.
Bậc trí không tỳ vết,
Đầy đủ giới định tuệ.

230. Who's to blame that one so fine
as gem from Jambu stream?
Even the devas that one praise,
by Brahma too is praised.

230. Hạnh sáng như vàng ròng,
Ai dám chê vị ấy?
Chư thiên phải khen thưởng,
Phạm Thiên cũng tán dương.

231. Rough action one should guard against,
be with body well-restrained,
bad bodily conduct having shed
train oneself in good.

231. Giữ thân đừng phẩn nộ,
Phòng thân khéo bảo vệ,
Từ bỏ thân làm ác,
Với thân làm hạnh lành.

232. Rough speaking one should guard against,
be in speaking well-restrained,
bad verbal conduct having shed
train oneself in good.

232. Giữ lời đừng phẩn nộ,
Phòng lời khéo bảo vệ,
Từ bỏ lời thô ác,
Với lời, nói điều lành.

233. Rough thinking one should guard against,
be in thinking well-restrained,
bad mental conduct having shed
train oneself in good.

233. Giữ ý đừng phẩn nộ,
Phòng ý, khéo bảo vệ,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Với ý, nghĩ hạnh lành.

234. Restrained in body are the wise,
in speech as well they are restrained,
likewise are they restrained in mind,
they're perfectly restrained.

234. Bậc trí bảo vệ thân,
Bảo vệ luôn lời nói
Bảo vệ cả tâm tư,
Ba nghiệp khéo bảo vệ.

 

 

XVIII- Malavagga

Impurities

Phẩm Cấu Uế

235. Now a withered leaf you are
and now Death's men draw near,
now you stand at the parting gates
but waybread you have none.

235. Ngươi nay giống lá héo,
Diêm sứ đang chờ ngươi,
Ngươi đứng trước cửa chết,
Đường trường thiếu tư lương.

236. Make an island of yourself,
quickly strive and wise become,
freed from stain and passionless
to go to the pure Abodes.

236. Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp, sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Đến Thánh địa chư Thiên.

237. Even now the end draws near,
to the presence of death you've fared.
Along the path's no place for rest
and waybread you have none.

237. Đời ngươi nay sắp tàn,
Tiến gần đến Diêm Vương.
Giữa đường không nơi nghỉ,
Đường trường thiếu tư lương.

238. Make an island of yourself,
quickly strive and wise become,
freed from stain and passionless
you'll not return, take flesh, decay.

238. Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp, sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh,
Chẳng trở lại sanh già.

239. Little by little, time after time,
successively then let the sage
blow away all blemishes
just as a smith with silver.

239. Bậc trí theo tuần tự.
Từng sát na trừ dần
Như thợ vàng lọc bụi
Trừ cấu uế nơi mình.

240. As rust arisen out of iron
itself that iron eats away,
so kammas done beyond what's wise
lead to a state of woe.

240. Như sét từ sắt sinh,
Sắt sanh lại ăn sắt,
Cũng vậy, quá lợi dưỡng
Tự nghiệp dẫn cõi ác.

241. For oral tradition, non-recitation,
in household life, non-exertion,
the fair of form when slovenly,
a sentry's sloth: all blemishes.

241. Không tụng làm nhớp kinh,
Không đứng dậy, bẩn nhà,
Biếng nhác làm nhơ sắc,
Phóng dật uế người canh.

242. In woman, conduct culpable,
with givers, avariciousness,
all blemishes these evil things
in this world or the next.

242. Tà hạnh nhơ đàn bà,
Xan tham nhớp kẻ thí,
Ác pháp là vết nhơ,
Đời này và đời sau.

243. More basic than these blemishes
is ignorance, the worst of all.
Abandoning this blemish then,
be free of blemish, monks!

243. Trong hàng cầu uế ấy,
Vô minh, nhơ tối thượng,
Đoạn nhơ ấy, tỷ kheo,
Thành bậc không uế nhiễm.

244. Easy the life for a shameless one
who bold and forward as a crow,
is slanderer and braggart too:
this one's completely stained.

244. Dễ thay, sống không hổ
Sống lỗ mãng như quạ,
Sống công kích huyênh hoang,
Sống liều lĩnh, nhiễm ô.

245. But hard the life of a modest one
who always seeks for purity,
who's cheerful though no braggart,
clean-living and discerning.

245. Khó thay, sống xấu hổ,
Thường thường cầu thanh tịnh.
Sống vô tư, khiêm tốn,
Trong sạch và sáng suốt.

246. In the world who life destroys,
who words of falsity speaks,
who takes what is not freely given
or to another's partner goes.

246. Ai ở đời sát sinh,
Nói láo không chân thật,
Ở đời lấy không cho,
Qua lại với vợ người.

247. Or has distilled, fermented drinks:
Who with abandon follows these
extirpates the root of self
even here in this very world.

247. Uống rượu men, rượu nấu,
Người sống đam mê vậy,
Chính ngay tại đời này,
Tự đào bới gốc mình.

248. Therefore friend remember this;
Hard to restrain are evil acts,
don't let greed and wickedness
down drag you long in dukkha.

248. Vậy người, hãy nên biết,
Không chế ngự là ác,
Chớ để tham phi pháp,
Làm người đau khổ dài.

249. People give as they have faith,
as they are bright with joyfulness.
Who's troubled over gifts received,
the food and drink that others get,
neither in daytime nor by night
will come to a collected mind.

249. Do tín tâm, hỷ tâm
Loài người mới bố thí.
Ở đây ai bất mãn
Người khác được ăn uống,
Người ấy ngày hoặc đêm,
Không đạt được tâm tịnh?

250. But who has severed envy's mind,
uprooted it, destroyed entire,
indeed in daytime and by night
will come to a collected mind.

250. Ai cắt được, phá được,
Tận gốc nhổ tâm ấy.
Người ấy ngày hoặc đêm,
Tất đến được tâm định.

251. There is no fire like lust,
nought seizes like aversion,
unequalled is delusion's net,
no river's like to craving.

251. Lửa nào bằng lửa tham!
Chấp nào bằng sân hận!
Lưới nào bằng lưới si!
Sông nào bằng sông ái!

252. Other's faults are easy to see
yet hard it is to see one's own,
and so one winnows just like chaff
the faults of other people, while
hiding away those of one's own
as crafty cheat the losing throw.

252. Dễ thay thấy lỗi người,
Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm,
Như sàng trấu trong gạo.
Còn lỗi mình, che đậy,
Như kẻ gian dấu bài.

253. Who's always seeing other's faults,
taking offence, censorious,
pollutions spread for such a one
who's far from their exhaustion.

253. Ai thấy lỗi của người,
Thường sanh lòng chỉ trích,
Người ấy lậu hoặc tăng,
Rất xa lậu hoặc diệt.

254. In skies above there is no path,
no peaceful one's without,
in manifoldness do folk delight,
Tathagatas are manifold-free.

254. Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn,
Chúng sanh thích hý luận,
Như Lai, hý luận trừ.

255. In skies above there is no path,
no peaceful one's without,
nothing conditioned ever lasts,
no Buddha's ever shaken.

255. Hư không, không dấu chân,
Ngoài đây, không sa môn.
Các hành không thường trú,
Chư Phật không dao động.

 

 

XIX- Dhammatthavagga

Established in Dhamma

Phẩm Pháp Trụ

256. Whoever judges hastily
does Dhamma not uphold,
a wise one should investigate
truth and untruth both.

256. Ngươi đâu phải pháp trụ,
Xử sự quá chuyên chế,
Bậc trí cần phân biệt
Cả hai chánh và tà!

257. Who others guides impartially
with carefulness, with Dhamma,
that wise one Dhamma guards,
a "Dhamma-holder's" called.

257. Không chuyên chế, đúng pháp,
Công bằng, dắt dẫn người,
Bậc trí sống đúng pháp,
Thật xứng danh Pháp trụ.

258. Just because articulate
one's not thereby wise,
hateless, fearless and secure,
a "wise one" thus is called.

258. Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ.
Thật đáng gọi bậc Trí.

259. Just because articulate
one's not skilled in Dhamma;
but one who's heard even little
and Dhamma in the body sees,
that one is skilled indeed,
not heedless of the Dhamma.

259. Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh trì pháp,
Những ai tuy nghe ít,
Nhưng thân hành đúng pháp,
Không phóng túng chánh pháp,
Mới xứng danh trì pháp.

260. A man is not an Elder
though his head be grey,
he's just fully ripe in years,
"aged-in-vain" he's called.

260. Không phải là trưởng lão,
Nếu cho có bạc đầu.
Người chỉ tuổi tác cao,
Được gọi là "Lão ngu".

261. In whom is truth and Dhamma too,
harmlessness, restraint, control,
he's steadfast, rid of blemishes,
an "Elder" he is called.

261. Ai chân thật, đúng pháp,
Không hại, biết chế phục,
Bậc trí không cấu uế,
Mới xứng danh "Trưởng Lão".

262. Not by eloquence alone
or by lovely countenance
is a person beautiful
if jealous, boastful, mean.

262. Không phải nói lưu loát,
Không phải sắc mặt đẹp,
Thành được người lương thiện,
Nếu ganh, tham, dối trá.

263. But "beautiful" is called that one
in whom these are completely shed,
uprooted, utterly destroyed,
a wise one purged of hate.

263. Ai cắt được, phá được
Tận gốc nhổ tâm ấy
Người trí ấy diệt sân,
Được gọi người hiền thiện.

264. By shaven head no Samana
if with deceit, no discipline.
Engrossed in greed and selfishness
how shall he be a Samana?

264. Đầu trọc, không Sa môn
Nếu phóng túng, nói láo.
Ai còn đầy dục tham,
Sao được gọi Sa môn ?

265. All evils altogether he
subdues both fine and gross.
Having subdued al evil he
indeed is called a "Samana".

265. Ai lắng dịu hoàn toàn,
Các điều ác lớn nhỏ,
Vì lắng dịu ác pháp,
Được gọi là Sa môn.

266. Though one begs from others
by this alone's no bhikkhu.
Not just by this a bhikkhu
but from all Dhamma doing.

266. Chỉ khất thực nhờ người,
Đâu phải là tỷ kheo!
Phải theo pháp toàn diện,
Khất sĩ không, không đủ.

267. Who both good and evil deeds
has gone beyond with holy life,
having discerned the world he fares
and "Bhikkhu" he is called.

267. Ai vượt qua thiện ác,
Chuyên sống đời Phạm Hạnh,
Sống thẩm sát ở đời,
Mới xứng danh tỷ kheo.

268. By silence one is not a sage
if confused and foolish,
but one who's wise, as if with scales
weighs, adopts what's good.

268. Im lặng nhưng ngu si,
Đâu được gọi ẩn sĩ?
Như người cầm cán cân,
Bậc trí chọn điều lành.

269. Shunning evil utterly
one is a sage, by that a sage.
Whoever both worlds knows
for that one's called a "Sage".

269. Từ bỏ các ác pháp,
Mới thật là ẩn sĩ.
Ai thật hiểu hai đời
Mới được gọi ẩn sĩ.

270. By harming living beings
one is not a "Noble" man,
by lack of harm to all that live
one is called a "Nobel One".

270. Còn sát hại sinh linh,
Đâu được gọi Hiền thánh.
Không hại mọi hữu tình,
Mới được gọi Hiền thánh.

271. Not by vows and rituals
or again by learning much
or by meditative calm
or by life in solitude.

271. Chẳng phải chỉ giới cấm
Cũng không phải học nhiều,
Chẳng phải chứng thiền định,
Sống thanh vắng một mình.

272. Should you, O bhikkhu, be content,
"I've touched the bliss of letting go
not enjoyed by common folk",
though you've not gained pollution's end.

272. "Ta hưởng an ổn lạc,
Phàm phu chưa hưởng được":
Tỷ kheo, chớ tự tin
Khi lậu hoặc chưa diệt.

 

 

XX- Maggavagga

The Path

Phẩm Đạo

273. Of paths the Eight-fold is the best,
of truths the statement Four,
the passionless of teachings best,
of humankind the Seer.

273. Tám chánh, đường thù thắng,
Bốn câu, lý thù thắng,
Ly tham, pháp thù thắng,
Giữa các loài hai chân,
Pháp nhãn, người thù thắng.

274. This is the Path, no other's there
for purity of insight,
enter then upon this path
bemusing Mara utterly.

274. Đường này, không đường khác
Đưa đến kiến thanh tịnh.
Nếu ngươi theo đường này,
Ma quân sẽ mê loạn.

275. Entered then upon this Path
you'll make an end of dukkha.
Freed in knowledge from suffering's stings
the Path's proclaimed by me.

275. Nếu ngươi theo đường này,
Đau khổ được đoạn tận.
Ta dạy ngươi con đường.
Với trí, gai chướng diệt.

276. Buddhas just proclaim the Path
but you're the ones to strive.
Contemplatives who tread the Path
are freed from Mara's bonds

276. Ngươi hãy nhiệt tình làm,
Như Lai chỉ thuyết dạy.
Người hành trì thiền định
Thoát trói buộc ác Ma.

276. When with wisdom one discerns
transience of conditioned things
one wearily from dukkha turns
treading the Path to purity.

277. Tất cả hành vô thường
Với Tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán:
Chính con đường thanh tịnh.

277. When with wisdom one discerns
the dukkha of conditioned things
one wearily from dukkha turns
treading the Path to purity.

278. Tất cả hành khổ đau
Với Tuệ, quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán:
Chính con đường thanh tịnh.

278. When with wisdom one discerns
all knowables are not a self
one wearily from dukkha turns
treading the Path to purity.

279. Tất cả pháp vô ngã,
Với Tuệ, quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán:
Chính con đường thanh tịnh.

279. Though time to strive, not striving,
while young and strong yet indeed,
weak-minded and irresolute:
one finds not wisdom's way.

280. Khi cần, không nỗ lực,
Tuy trẻ mạnh, nhưng lười
Chí nhu nhược, biếng nhác.
Với trí tuệ thụ động,
Sao tìm được chánh đạo?

280. In speech ever watchful with mind well-restrained
never with body do unwholesomeness.
So should one purify these three kamma-paths
winning to the Way made known by the Seers.

281. Lời nói được thận trọng,
Tâm tư khéo hộ phòng,
Thân chớ làm điều ác,
Hãy giữ ba nghiệp tịnh,
Chứng đạo thánh nhân dạy.

281. From endeavour wisdom springs,
lacking effort wisdom wanes:
having known this two-fold path
either to progress or decline
so should one exhort oneself
that wisdom may increase.

282. Tu Thiền, trí tuệ sanh,
Bỏ Thiền, trí tuệ diệt.
Biết con đường hai ngả
Đưa đến hữu, phi hữu,
Hãy tự mình nỗ lực,
Khiến trí tuệ tăng trưởng.

282. The wood cut down but not a tree
since it's from wood that fear is born.
Having cut wood and woodedness
O bhikkhus be without a wood.

283. Đốn rừng không đốn cây
Từ rừng, sinh sợ hãi;
Đốn rừng [1] và ái dục,
Tỷ kheo, hãy tịch mịch.

283. As long indeed as woodedness
of man to women is not cut
so long in bondage is one's mind
as milch-calf to the mother cow.

284. Khi nào chưa cắt tiệt,
Ái dục giữa gái trai,
Tâm ý vẫn buộc ràng,
Như bò con vú mẹ.

284. Cut off affection for oneself
as a hand a lily in the Fall.
Cultivate this peaceful Path,
Nibbana by the Buddha taught.

285. Tự cắt dây ái dục,
Như tay bẻ sen thu,
Hãy tu đạo tịch tịnh,
Niết bàn, Thiện Thệ dạy.

285. Here shall I spend the Rains,
here the Winter, here the Summer.
Thus speculates the fool,
the danger he knows not.

286. Mùa mưa ta ở đây
Đông, hạ cũng ở đây,
Người ngu tâm tưởng vậy,
Không tự giác hiểm nguy.

286. For one who has a clinging mind
and finds delight in babes and herds
Death does seize and carry away
as great flood a sleeping village.

287. Người tâm ý đắm say
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi hàng ngủ.

287. No sons are there for shelter
nor father nor related folk,
one by the Death-king seized upon
in kin no shelter finds.

288. Một khi tử thần đến,
Không có con che chở,
Không cha, không bà con,
Không thân thích che chở.

288. Having understood this fact
the wise by virtue well-restrained
swiftly then should clear the Path
leading to Nibbana.

289. Biết rõ ý nghĩa này,
Bậc trí lo trì giới,
Mau lẹ làm thanh tịnh,
Con đường đến Niết bàn.

  Chú thích:
[1] Dục vọng

 

 

XXI- Pakinnakavagga

Miscellaneous

Phẩm Tạp Lục

290. If one should see great happiness
in giving up small happiness
one wise the lesser would renounce
the greater full-discerning.

290. Nhờ từ bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn,
Bậc trí bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn.

291. Who so for self wants happiness
by causing others pain,
entangled in anger's tangles
one's from anger never free.

291. Gieo khổ đau cho người,
Mong cầu lạc cho mình,
Bị hận thù buộc ràng
Không sao thoát hận thù.

292. What should be done is left undone
and done is what should not be done,
ever the pollutions grow
of those ones proud and heedless.

292. Việc đáng làm, không làm,
Không đáng làm, lại làm,
Người ngạo mạn, phóng dật,
Lậu hoặc ắt tăng trưởng.

293. But for who always practice well
bodily mindfulness,
do never what should not be done,
and ever do what should be done
for mindful ones, the full-aware,
pollutions fade away.

293. Người siêng năng cần mẫn,
Thường thường quán thân niệm,
Không làm việc không đáng,
Gắng làm việc đáng làm,
Người tư niệm giác tỉnh,
Lậu hoặc được tiêu trừ.

294. One's mother and father having slain
and then two warrior kings,
a realm as well its treasurer,
one goes immune, a Brahmin True.

294. Sau khi giết mẹ cha [1]
Giết hai vua Sát lỵ [2]
Giết vương quốc, quần thần [3]
Vô ưu, Phạm chí sống.

295. One's mother and father having slain
and then two learned kings,
as well the fifth, a tiger fierce,
one goes immune, a Brahmin True.

295. Sau khi giết mẹ cha,
Hai vua Bà la môn
Giết hổ tướng thứ năm [4]
Vô ưu, Phạm chí sống.

296. Well awakened, they're awake
ever the Buddha's pupils
who constantly by day, by night
are mindful of the Buddha.

296. Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Phật Đà.

297. Well awakened, they're awake
ever the Buddha's pupils
who constantly by day, by night
are mindful of the Dhamma.

297. Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Chánh Pháp.

298. Well awakened, they're awake
ever the Buddha's pupils
who constantly by day, by night
are mindful of the Sangha.

298. Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Tăng già.

299. Well awakened, they're awake
ever the Buddha's pupils
who constantly by day, by night
are mindful of the body.

299. Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm sắc thân.

300. Well awakened, they're awake
ever the Buddha's pupils
who constantly by day, by night
in harmlessness delight.

300. Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui niềm bất hại.

301. Well awakened, they're awake
ever the Buddha's pupils
who constantly by day, by night
in meditation take delight.

301. Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui tu thiền quán.

302. Hard's the going-forth, hard to delight in it,
hard the household life and dukkha is it too.
Dukkha's to dwell with those dissimilar
and dukkha befalls the wanderer.
Be therefore not a wanderer,
not one whom dukkha befalls.

302. Vui hạnh xuất gia khó,
Tại gia sinh hoạt khó,
Sống bạn không đồng, khổ,
Trôi lăn luân hồi, khổ.
Vậy chớ sống luân hồi,
Chớ chạy theo đau khổ.

303. Who's full of faith and virtue,
of substance, high repute,
is honoured everywhere,
wherever that one goes.

303. Tín tâm, sống giới hạnh
Đủ danh xưng tài sản,
Chỗ nào người ấy đến,
Chỗ ấy được cung kính.

304. Afar the true are manifest
like Himalayan range,
yet even here the false aren't seen,
they're arrows shot by night.

304. Người lành dầu ở xa
Sáng tỏ như núi tuyết,
Người ác dầu ở gần
Như tên bắn đêm đen.

305. Alone one sits, alone one lies,
alone one walks unweariedly,
in solitude one tames oneself
so in the woods will one delight.

305. Ai ngồi nằm một mình,
Độc hành không buồn chán,
Tự điều phục một mình
Sống thoải mái rừng sâu.

  Chú thích:
[1] Ái dục và mạn.
[2] Thường kiến và biên kiến.
[3] 12 xứ
[4] Nghi

 

 

XXII- Nirayavagga

Hell

Phẩm Địa Ngục

306. With one denying truth there goes to hell
that one who having done says "I did not".
Both of them are making kammas base
are equal after death.

306. Nói láo đọa địa ngục
Có làm nói không làm,
Cả hai chết đồng đẳng,
Làm người, nghiệp hạ liệt.

307. Many who wear the yellow robe
are unrestrained in evil things,
these evil ones by evil deeds,
in hell do they arise.

307. Nhiều người khoác cà sa,
Ác hạnh không nhiếp phục.
Người ác, do ác hạnh,
Phải sanh cõi Địa ngục.

308. Better to eat a ball of iron
glowing as flame of fire
than one should eat country's alms
immoral and unrestrained.

308. Tốt hơn nuốt hòn sắt
Cháy đỏ như than hồng,
Hơn ác giới, buông lung
Ăn đồ ăn quốc độ.

309. Four things befall that heedless one
sleeping with one who's wed:
demerit gained but not good sleep,
third is blame while fourth is hell.

309. Bốn nạn chờ đợi người,
Phóng dật theo vợ người ;
Mắc họa, ngủ không yên,
Bị chê là thứ ba,
Đọa địa ngục, thứ bốn.

310. Demerit's gained and evil birth,
scared man and women -- brief their joy,
the king decrees a heavy doom:
so none should sleep with one who's wed.

310. Mắc họa, đọa ác thú,
Bị hoảng sợ, ít vui.
Quốc vương phạt trọng hình.
Vậy chớ theo vợ người.

311. As blady grass when wrongly grasped
the hand does lacerate
so a mishandled monastic life
drags one off to hell.

311. Như cỏ sa [1] vụng nắm,
Tất bị họa đứt tay.
Hạnh sa môn tà vạy,
Tất bị đọa địa ngục.

312. Whatever of kammas slack,
whatever of vows corrupt,
a faltering in the holy life
never brings ample fruit.

312. Sống phóng đãng buông lung,
Theo giới cấm ô nhiễm,
Sống phạm hạnh đáng nghi
Sao chứng được quả lớn.

313. If there's aught that should be done
let it be done then steadily,
in truth a slack monastic life
all the more stirs up the dust.

313. Cần phải làm, nên làm
Làm cùng tận khả năng
Xuất gia sống phóng đãng,
Chỉ tăng loạn bụi đời.

314. Better an evil deed not done
for misdeed later on torments.
Better done is deed that's good,
which done, does not torment.

314. Ác hạnh không nên làm,
Làm xong, chịu khổ lụy,
Thiện hạnh, ắt nên làm,
Làm xong, không ăn năn.

315. Even as a border town
guarded within and without,
so should you protect yourselves.
Do not let this moment pass
for when this moment's gone they grieve
sending themselves to hell.

315. Như thành ở biên thùy,
Trong ngoài điều phòng hộ
Cũng vậy, phòng hộ mình,
Sát na chớ buông lung.
Giây phút qua, sầu muộn.
Khi rơi vào địa ngục.

316. They are ashamed where shame is not
but where is shame are not ashamed
so by embracing evil views
beings go to an evil birth.

316. Không đáng hổ, lại hổ.
Việc đáng hổ, lại không.
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú.

317. They are afraid where fear is not
but where is fear are unafraid,
so by embracing evil views
beings go to an evil birth.

317. Không đáng sợ, lại sợ,
Đáng sợ, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến.
Chúng sanh đi ác thú.

318. Faults they see where fault is not
but where is fault they see it not,
so by embracing evil views
beings go to an evil birth.

318. Không lỗi, lại thấy lỗi,
Có lỗi, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến,
Chúng sanh đi ác thú.

319. A fault they understand as such,
they know as well where fault is not,
so by embracing righteous views
beings go to a happy rebirth.

319. Có lỗi, biết có lỗi,
Không lỗi, biết là không,
Do chấp nhận chánh kiến,
Chúng sanh đi cõi lành.

  Chú thích:
[1] Cỏ Kusa

 

 

XXIII- Nagavagga

The Great

Phẩm Voi

320. Many folks are ill-behaved
but I shall endure abuse
as elephant in battlefield
arrows shot from a bow.

320. Ta như voi giữa trận
Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng.
Ác giới rất nhiều người.

321. The tusker tamed they lead in crowds,
the king he mounts the tamed,
noblest of humans are the tamed
who can endure abuse.

321. Voi luyện, đưa dự hội,
Ngựa luyện, được vua cưỡi,
Người luyện, bậc tối thượng
Chịu đựng mọi phỉ báng.

322. Excellent are mules when tamed
and thoroughbred from Sindh,
noble the elephant of state,
better still one tamed of self.

322. Tốt thay, con la thuần,
Thuần chủng loài ngựa Xinh.
Đại tượng, voi có ngà.
Tự điều mới tối thượng.

323. Surely not on mounts like these
one goes the Unfrequented Way
as one by self well-tamed
is tamed and by the taming goes.

323. Chẳng phải loài cưỡi ấy,
Đưa người đến Niết bàn,
Chỉ có người tự điều,
Đến đích nhờ điều phục.

324. Hard to check the tusker Dhanapala,
in rut with temple running pungently,
bound, e'en a morsel he'll not eat
for he recalls the elephant-forest longingly.

324. Con voi tên Tài Hộ,
Phát dục, khó điều phục,
Trói buộc, không ăn uống.
Voi nhớ đến rừng voi.

325. A sluggard stupid, steeped in gluttony,
who's sleep-engrossed, who wallows as he lies,
like a great porker stuffed, engorged with swill,
comes ever and again into a womb.

325. Người ưa ngủ, ăn lớn
Nằm lăn lóc qua lại,
Chẳng khác heo no bụng,
Kẻ ngu nhập thai mãi.

326. Formerly this wandering mind wandered
where it wished, where whim, where pleasure led.
Wisely this day I will restrain it
as trainer with hook an elephant in rut.

326. Trước tâm này buông lung,
Chạy theo ái, dục, lạc.
Nay Ta chánh chế ngự,
Như cầm móc điều voi.

327. Do you delight in heedfulness
and guard your own mind well!
Draw yourselves from the evil way
as would elephant sunk in slough.

327. Hãy vui không phóng dật,
Khéo phòng hộ tâm ý.
Kéo mình khỏi ác đạo,
Như voi bị sa lầy.

328. If for practice one finds a friend
prudent, well-behaved and wise,
mindful, joyful, live with him
all troubles overcoming.

328. Nếu được bạn hiền trí
Đáng sống chung, hạnh lành,
Nhiếp phục mọi hiểm nguy
Hoan hỷ sống chánh niệm.

329. If for practice one finds no friend
prudent, well-behaved and wise,
like king be leaving conquered land,
fare as lone elephant in the wilds.

329. Không gặp bạn hiền trí.
Đáng sống chung, hạnh lành
Như vua bỏ nước bại,
Hãy sống riêng cô độc,
Như voi sống rừng voi.

330. Better it is to live alone
for with a fool's no fellowship,
no evil do, be free of care,
fare as lone elephant in the wilds.

330. Tốt hơn sống một mình,
Không người ngu kết bạn.
Độc thân, không ác hạnh
Sống vô tư vô lự,
Như voi sống rừng voi.

331. Blest to have friends when one's in need,
blest contentment with whatever is,
blessed is merit when life's at an end,
abandoning all dukkha is blessedness.

331. Vui thay, bạn lúc cần!
Vui thay, sống biết đủ,
Vui thay, chết có đức!
Vui thay, mọi khổ đoạn.

332. Respect for one's mother brings happiness here
as well as respect for one's father.
Here happiness comes from respecting the monks
and those of virtue excellent.

332. Vui thay, hiếu kính mẹ,
Vui thay, hiếu kính cha,
Vui thay, kính Sa môn,
Vui thay, kính Hiền Thánh.

333. Blest is virtue till life's end
and blest the faith standing firm,
blest the attainment of wisdom
and blest the non-doing of evils.

333. Vui thay, già có giới!
Vui thay, tín an trú!
Vui thay, được trí tuệ,
Vui thay, ác không làm.

 

 

XXIV- Tanhavagga

Craving

Phẩm Tham ái

334. As creeping ivy craving grows
in one living carelessly.
Like this, one leaps from life to life
as ape in the forest seeking fruit.

334. Người sống đời phóng dật,
Ái tăng như dây leo.
Nhảy đời này đời khác,
Như vượn tham quả rừng.

335. Whomsoever in this world
this wretched clinging craving routs
for such a one do sorrows grow
as grass well-soaked with rain.

335. Ai sống trong đời này,
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng,
Như cỏ Bi gặp mưa.

336. But whoever in this world
routs wretched craving hard to quell,
from such a one do sorrows fall
like water drops from lotus leaf.

336. Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen.

337. Prosperity to you, I say,
to all assembled here!
When needing grass's fragrant root
so craving extirpate.
Don't let Mara break you again,
again as a torrent a reed!

337. Đây điều lành Ta dạy,
Các người tụ họp đây,
Hãy nhổ tận gốc ái
Như nhổ gốc cỏ Bi.
Chớ để ma phá hoại,
Như giòng nước cỏ lau.

338. As tree though felled shoots up again
it its roots are safe and firm
so this dukkha grows again
while latent craving's unremoved.

338. Như cây bị chặt đốn,
Gốc chưa hại vẫn bền
Ái tùy miên chưa nhổ,
Khổ này vẫn sanh hoài.

339. For whom the six and thirty streams
so forceful flow to seemings sweet
floods of thought that spring from lust
sweep off such wrong viewholder.

339. Ba mươi sáu dòng ái [1],
Trôi người đến khả ái.
Các tư tưởng tham ái.
Cuốn trôi người tà kiến.

340. Everywhere these streams are swirling,
up-bursting creepers rooted firm.
Seeing the craving-creeper there
with wisdom cut its root!

340. Dòng ái dục chảy khắp,
Như giây leo mọc tràn,
Thấy giây leo vừa sanh,
Với tuệ, hãy đoạn gốc.

341. To beings there are pleasures streaming
sticky with desire,
steeped in comfort, happiness seeking,
such ones do come to birth, decay.

341. Người đời nhớ ái dục,
Ưa thích các hỷ lạc.
Tuy mong cầu an lạc,
Chúng vẫn phải sanh già.

342. Who follow craving are assailed,
they tremble as the hare ensnared,
held fast by fetter and by bonds
so long they come to dukkha again.

342. Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Chúng sanh ái trói buộc,
Chịu khổ đau dài dài.

343. Who follow craving are assailed,
they tremble as the hare ensnared,
so let a bhikkhu craving quell
whose aim is passionlessness.

343. Người bị ái buộc ràng,
Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới.
Do vậy vị tỷ kheo,
Mong cầu mình ly tham
Nên nhiếp phục ái dục.

344. Who without woodness inclines to the wood.
free in the wood to woodness returns.
Do now regard that person well
who free returns to fetter.

344. Lìa rừng lại hướng rừng [2]
Thoát rừng chạy theo rừng.
Nên xem người như vậy,
Được thoát khỏi buộc ràng.
Lại chạy theo ràng buộc.

345. Neither of iron nor wood nor hemp
is bond so strong, proclaim the wise,
as passion's yearn for sons, for wives,
for gems and ornaments.

345. Sắt, cây, gai trói buộc
Người trí xem chưa bền.
Tham châu báu, trang sức
Tham vọng vợ và con.

346. That bond is strong, proclaim the wise,
down-dragging, pliable, hard to loose.
This passion severed, they wander forth
forsaking sensual pleasures.

346. Người có trí nói rằng:
Trói buộc này thật bền.
Trì kéo xuống, lún xuống,
Nhưng thật sự khó thoát.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ dục lạc, không màng.

347. Ensnared in passion back they fall
as spider on a self-spun web.
This passion severed, wander the wise
forsaking dukkha all.

347. Người đắm say ái dục
Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi khổ, không màng.

348. Let go before, let go the after,
let go the middle, beyond the becoming.
With mind released in every way
you'll come no more to birth, decay.

348. Bỏ quá, hiện, vị lai,
Đến bờ kia cuộc đời,
Ý giải thoát tất cả,
Chớ vướng tại sanh già.

349. For one who's crushed by thinking much
excessive lust from beauty's sight,
for that one craving grows the more,
that one makes strong the bonds.

349. Người tà ý nhiếp phục,
Tham sắc bén nhìn tịnh,
Người ấy ái tăng trưởng,
Làm giây trói mình chặt.

350. But who delights in subduing evil thoughts,
meditates on the impurities with mindfulness,
that one indeed will make an End,
and will sever Mara's bonds.

350. Ai vui, an tịnh ý,
Quán bất tịnh, thường niệm,
Người ấy sẽ diệt ái,
Cắt đứt Ma trói buộc.

351. One who's fearless, reached the End,
of craving and of blemish free,
who has becoming's thorn plucked out,
has this, a final body.

351. Ai tới đích không sợ,
Ly ái, không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử,
Thân này thân cuối cùng.

352. One of clinging-craving free,
who's skilled in way of chanting,
knowing the wording-sequence,
of what precedes and follows,
possessed of final body,
one greatly wise, "Great Person"'s called.

352. Ái lìa, không chấp thủ.
Cú pháp khéo biện tài
Thấu suốt từ vô ngại,
Hiểu thứ lớp trước sau.
Thân này thân cuối cùng
Vị như vậy được gọi,
Bậc Đại trí, đại nhân.

353. Beyond all beings, wise to all,
unsoiled by dhammas all am I,
left all and freed by craving's end,
by self I've known, whom teacher call?

353. Ta hàng phục tất cả,
Ta rõ biết tất cả,
Không bị nhiễm pháp nào.
Ta từ bỏ tất cả
Ái diệt, tự giải thoát.
Đã tự mình thắng trí,
Ta gọi ai thầy ta?

354. Gift of Dhamma surpasses all gifts,
the Dhamma, its taste all other tastes beats,
delight in the Dhamma bests other delights,
destruction of craving conquers all ill.

354. Pháp thí, thắng mọi thí!
Pháp vị, thắng mọi vị!
Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!
Ái diệt, thắng mọi khổ!

355. Riches ruin a foolish one
but not one seeking the Further Shore,
craving for wealth a foolish one
is ruined as if ruining others.

355. Tài sản hại người ngu.
Không người tìm bờ kia
Kẻ ngu vì tham giàu,
Hại mình và hại người.

356. Weeds are a fault of fields,
lust's a human fault,
thus offerings to the lustless
bear abundant fruit.

356. Cỏ làm hại ruộng vườn,
Tham làm hại người đời.
Bố thí người ly tham,
Do vậy được quả lớn.

357. Weeds are a fault of fields,
hate's a human fault,
hence offerings to the hateless
bear abundant fruit.

357. Cỏ làm hại ruộng vườn,
Sân làm hại người đời.
Bố thí người ly sân,
Do vậy được quả lớn.

358. Weed are the fault of fields,
delusion, human's faults,
so gifts to the undeluded
bear abundant fruit.

358. Cỏ làm hại ruộng vườn,
Si làm hại người đời,
Bố thí người ly si,
Do vậy được quả lớn.

359. Weed are the fault of fields,
desire, human's faults,
so gifts to the desireless
bear abundant fruit.

359. Cỏ làm hại ruộng vườn,
Dục làm hại người đời.
Bố thí người ly dục,
Do vậy được quả lớn.

  Chú thích:
[1] tham ái có 3 loại: dục lạc, chấp hữu, chấp phi hữu; kết hợp với 6 căn và 6 trần thành 36 dòng ái
[2] Lìa ái dục gia đình, lại chạy theo khổ hạnh ở rừng núi

 

 

XXV- Bhikkhuvagga

The Monk

Phẩm Tỷ Kheo

360. Right is restraint in the eye,
restraint in the ear is right,
right is restraint in the nose,
restraint in the tongue is right.

360. Lành thay, phòng hộ mắt!
Lành thay, phòng hộ tai!
Lành thay, phòng hộ mũi!
Lành thay, phòng hộ lưỡi.

361. Right is restraint in the body,
restraint in speech is right,
right is restraint in the mind,
everywhere restraint is right.
The bhikkhu everywhere restrained
is from all dukkha free.

361. Lành thay phòng hộ thân!
Lành thay, phòng hộ lời,
Lành thay, phòng hộ ý.
Lành thay, phòng tất cả.
Tỷ kheo phòng tất cả,
Thoát được mọi khổ đau.

362. With hands controlled and feet controlled,
in speech as well as head controlled,
delighting in inward collectedness
alone, content, a bhikkhu's called.

362. Người chế ngự tay chân,
Chế ngự lời và đầu,
Vui thích nội thiền định,
Độc thân, biết vừa đủ,
Thật xứng gọi tỷ kheo.

363. Whatever bhikkhu tongue-controlled
speaks wisely and who is not proud,
who theory and practice can expound,
sweet as honey is his speech.

363. Tỷ kheo chế ngự miệng,
Vừa lời, không cống cao,
Khi trình bày pháp nghĩa,
Lời lẽ dịu ngọt ngào.

364. The bhikkhu who in Dhamma dwells,
in Dhamma delighting and pondering,
remembering the Dhamma -- he
does not decline from Dhamma True.

364. Vị tỷ kheo thích Pháp,
Mến pháp, suy tư Pháp.
Tâm tư niệm chánh Pháp,
Không rời bỏ chánh Pháp.

365. He should not disdain his gains
nor live of others envious,
the bhikkhu who is envious
does not attain collectedness.

365. Không khinh điều mình được,
Không ganh người khác được,
Tỷ kheo ganh tỵ người,
Không sao chứng Thiền Định.

366. Disdaining not his gains,
though little he receives,
pure of life and keen
that bhikkhu devas praise.

366. Tỷ kheo dầu được ít,
Không khinh điều mình được,
Sống thanh tịnh không nhác,
Chư thiên khen vị này.

367. For whom there is no making "mine"
towards all name and form,
who does not grieve for what is not,
he's truly "bhikkhu" called.

367. Hoàn toàn, đối danh sắc,
Không chấp Ta, của Ta.
Không chấp, không sầu não.
Thật xứng danh Tỷ kheo.

368. The bhikkhu in kindness abiding,
bright in the Buddha's Teaching
can come to the Place of Peace,
the bliss of conditionedness ceased.

368. Tỷ kheo trú Từ Bi,
Tín thành giáo Pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tỉnh.
Các hạnh an tịnh lạc.

369. O bhikkhu bail this boat,
when emptied it will swiftly go.
Having severed lust and hate
thus to Nibbana you'll go.

369. Tỷ kheo, tát thuyền này,
Thuyền không, nhẹ đi mau.
Trừ tham, diệt sân hận,
Tất chứng đạt Niết Bàn.

370. Five cut off and five forsake,
a further five then cultivate,
a bhikkhu from five fetter free
is called a "Forder of the flood".

370. Đoạn năm [1], từ bỏ năm [2],
Tu tập năm [3] tối thượng,
Tỷ kheo cắt năm trói [4],
Xứng danh vượt "bộc lưu" [5].

371. Meditate bhikkhu! Don't be heedless!
Don't let pleasures whirl the mind!
Heedless, do not gulp a glob of iron!
Bewail not when burning, "This is dukkha"!

371. Tỷ kheo, hãy tu thiền,
Chớ buông lung phóng dật,
Tâm chớ đắm say dục,
Phóng dật, nuốt sắt nóng
Bị đốt, chớ than khổ!

372. No concentration wisdom lacks,
no wisdom concentration lacks,
in whom are both these qualities
near to Nibbana is that one.

372. Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền có tuệ,
Nhất định gần Niết Bàn.

373. The bhikkhu gone to a lonely place
who is of peaceful heart
in-sees Dhamma rightly,
knows all-surpassing joy.

373. Bước vào ngôi nhà trống,
Tỷ kheo tâm an tịnh,
Thọ hưởng vui siêu nhân,
Tịnh quán theo chánh pháp.

374. Whenever one reflects
on aggregates' arise and fall
one rapture gains and joy.
'Tis Deathless for Those-who-know.

374. Người luôn luôn chánh niệm,
Sự sanh diệt các uẩn,
Được hoan hỷ, hân hoan,
Chỉ bậc bất tử biết.

375. Here's indeed the starting point
for the bhikkhu who is wise,
sense-controlled, contented too,
restrained to limit freedom ways,
in company of noble friends
who're pure of life and keen.

375. Đây Tỷ kheo có trí,
Tu tập pháp căn bản
Hộ căn, biết vừa đủ,
Gìn giữ căn bản giới,
Thường gần gũi bạn lành,
Sống thanh tịnh tinh cần.

376. One should be hospitable
and skilled in good behaviour,
thereby greatly joyful
come to dukkha's end.

376. Giao thiệp khéo thân thiện,
Cử chỉ mực đoan trang.
Do vậy hưởng vui nhiều,
Sẽ dứt mọi khổ đau.

377. Just as the jasmine sheds
its shrivelled flowers all,
O bhikkhus so should you
lust, aversion shed.

377. Như hoa Vassika [6],
Quăng bỏ cánh úa tàn,
Cũng vậy vị Tỷ kheo,
Hãy giải thoát tham sân.

378. That bhikkhu calmed of body, speech,
calmed and well-composed of mind,
who world-enjoyments has renounced,
"one calmed" indeed is truly called.

378. Thân tịnh, lời an tịnh,
An tịnh, khéo thiền tịnh.
Tỷ kheo bỏ thế vật,
Xứng danh bậc tịch tịnh.

379. By yourself exhort yourself!
By yourself restrain yourself!
So mindful and self-guarded too,
happily, bhikkhu, will you live.

379. Tự mình chỉ trích mình,
Tự mình dò xét mình,
Tỷ kheo tự phòng hộ,
Chánh niệm trú an lạc.

380. Oneself is refuge of oneself
and one is a haven for oneself,
therefore one should check oneself
as a merchant with a splendid horse.

380. Tự mình y chỉ mình,
Tự mình đi đến mình,
Vậy hãy tự điều phục,
Như khách buôn ngựa hiền.

381. The bhikkhu full of joy and faith,
bright in the Buddha's Teaching
can come to the Place of Peace,
the bliss of conditionedness ceased.

381. Tỷ kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc.

382. Surely that youthful bhikkhu who
strives in the Buddha's Teaching
illuminates all this world
as moon when free from clouds.

382. Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ
Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này,
Như trăng thoát khỏi mây.

  Chú thích:
[1] Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục ái, sân.
[2] Sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh.
[3] Tín, tấn, niệm, định, tuệ.
[4] 5 trói buộc: tham, sân, si, mạn, tà kiến
[5] Bộc lưu: dòng nước lũ
[6] Bông lài.

 

 

XXVI- Brahmanavagga

The Brahmana

Phẩm Bà La Môn

383. O brahmin, strive and cleave the stream,
desires of sense discard,
knowing conditioned things decay
be Knower-of-the-Uncreated.

383. Hởi này Bà-la-môn,
Hãy tinh tấn đoạn lòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Ngươi là bậc vô vi.

384. When by the twofold Dhamma
a Brahmin's gone beyond
all the bonds of One-who-Knows
have wholly disappeared.

384. Nhờ thường trú hai pháp [1]
Đến được bờ bên kia.
Bà-la-môn có trí,
Mọi kiết sử dứt sạch.

385. For whom is found no near or far,
for whom's no near and far,
free of fear and fetter-free,
that one I call a Brahmin True.

385. Không bờ này, bờ kia [2]
Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc
Ta gọi Bà-la-môn.

386. Seated stainless, concentrated,
who's work is done, who's free of taints,
having attained the highest aim,
that one I call a Brahmin True.

386. Tu thiền, trú ly trần
Phận sự xong, vô lậu,
Đạt được đích tối thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.

387. The sun is bright by day,
the moon enlights the night,
armoured shines the warrior,
contemplative the Brahmin True.
But all day and night-time too
resplendent does the Buddha shine.

387. Mặt trời sáng ban ngày,
Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ,
Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật,
Chói sáng cả ngày đêm.

388. By barring-out badness a "brahmin" one's called
and one is a monk by conduct serene,
banishing blemishes out of oneself
therefore one's known as "one who has left home".

388. Dứt ác gọi Phạm chí,
Tịnh hạnh gọi Sa môn,
Tự mình xuất cấu uế,
Nên gọi bậc xuất gia.

389. One should not a brahmin beat
nor for that should He react.
Shame! Who would a Brahmin beat,
more shame for any should they react.

389. Chớ có đập Phạm chí!
Phạm chí chớ đập lại!
Xấu thay đập Phạm chí
Đập trả lại xấu hơn!

390. For brahmin no small benefit
when mind's aloof from what is dear.
As much he turns away from harm
so much indeed does dukkha die.

390. Đối với Bà-la-môn,
Đây [3] không lợi ích nhỏ.
Khi ý không ái luyến,
Tâm hại được chận đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt.

391. In whom there is no wrong-doing
by body, speech or mind,
in these three ways restrained,
that one I call a Brahmin True.

391. Với người thân miệng ý,
Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được phòng hộ,
Ta gọi Bà-la-môn.

392. From whom one knows the Dhamma
by Perfect Buddha taught
devoutly one should honour them
as brahmin sacred fire.

392. Từ ai, biết chánh pháp
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy,
Như Phạm chí thờ lửa.

393. By birth one is no brahmin,
by family, austerity.
In whom are truth and Dhamma too
pure is he, a Brahmin's he.

393. Được gọi Bà-la-môn,
Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh,
Ai thật chân, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà-la-môn.

394. Dimwit! What's the coiled hair for?
For what your cloak of skins?
Within you are acquisitive,
you decorate without!

394. Kẻ ngu, có ích gì
Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông.

395. One enduring rag-robes, lean,
with body o'erspread by veins,
lone in the woods who meditates,
that one I call a Brahmin True.

395. Người mặc áo đống rác,
Gầy ốm, lộ mạch gân,
Độc thân thiền trong rừng.
Ta gọi Bà-la-môn.

396. I call him a brahmin though
by womb-born mother's lineage,
he's just supercilious
if with sense of ownership,
owning nothing and unattached:
that one I call a Brahmin True.

396. Ta không gọi Phạm chí,
Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
Chỉ được gọi tên suông
Nếu tâm còn phiền não.
Không phiền não, chấp trước
Ta gọi Bà-la-môn.

397. Who fetters all has severed
does tremble not at all,
who's gone beyond all bond, unyoked,
that one I call a Brahmin True.

397. Đoạn kết các kiết sử,
Không còn gì lo sợ
Không đắm trước buộc ràng
Ta gọi Bà-la-môn.

398. When cutting strap and reins,
the rope and bridle too,
tipping the shaft, he's Waked,
that one I call a Brahmin True.

398. Bỏ đai da [4] bỏ cương [5]
Bỏ dây [6], đồ sở thuộc [7]
Bỏ then chốt [8], sáng suốt,
Ta gọi Bà-la-môn.

399. Who angerless endures abuse,
beating and imprisonment,
with patience's power, an armed might:
that one I call a Brahmin True.

399. Không ác ý, nhẫn chịu,
Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực,
Ta gọi Bà-la-môn.

400. Who's angerless and dutiful,
of virtue full and free of lust,
who's tamed, to final body come,
that one I call a Brahmin True.

400. Không hận, hết bổn phận,
Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng,
Ta gọi Bà-la-môn.

401. Like water on a lotus leaf,
or mustard seed on needle point,
whoso clings not to sensual things,
that one I call a Brahmin True.

401. Như nước trên lá sen,
Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục,
Ta gọi Bà-la-môn.

402. Whoso in this world comes to know
cessation of all sorrow,
laid down the burden, freed from bonds,
that one I call a Brahmin True.

402. Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.

403. Whose knowledge is deep, who's wise,
who's skilled in ways right and wrong,
having attained the highest aim,
that one I call a Brahmin True.

403. Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo, phi đạo
Chứng đạt đích vô thượng,
Ta gọi Bà-la-môn.

404. Aloof alike from laity
and those gone forth to homelessness,
who wanders with no home or wish,
that one I call a Brahmin True.

404. Không liên hệ cả hai,
Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục,
Ta gọi Bà-la-môn.

405. Who blows to beings has renounced
to trembling ones, to bold,
who causes not to kill nor kills,
that one I call a Brahmin True.

405. Bỏ trượng, đối chúng sanh,
Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết,
Ta gọi Bà-la-môn.

406. Among the hostile, friendly,
among the violent, cool
detached amidst the passionate,
that one I call a Brahmin True.

406. Thiên thần giữa thù địch
Ôn hòa giữa hung hăng.
Không nhiễm giữa, nhiễm trước,
Ta gọi Bà-la-môn.

407. From whomever lust and hate,
conceit, contempt have dropped away,
as mustard seed from a point of a needle,
that one I call a Brahmin True.

407. Người bỏ rơi tham sân,
Không mạn không ganh tị,
Như hột cải đầu kim,
Ta gọi Bà-la-môn.

408. Who utters speech instructive,
true and gentle too,
who gives offence to none,
that one I call a Brahmin True.

408. Nói lên lời ôn hòa,
Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai,
Ta gọi Bà-la-môn.

409. Who in the world will never take
what is not given, long or short,
the great or small, the fair or foul,
that one I call a Brahmin True.

409. Ở đời, vật dài, ngắn,
Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
Phàm không cho không lấy,
Ta gọi Bà-la-môn.

410. In whom there are no longings found
in this world or the next,
longingless and free from bonds,
that one I call Brahmin True.

410. Người không có hy cầu,
Đời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.

411. In whom there is no dependence found,
with Final Knowledge freed from doubt,
who's plunged into the Deathless depths,
that one I call a Brahmin True.

411. Người không còn tham ái,
Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử,
Ta gọi Bà-la-môn.

412. Here who's gone beyond both bonds,
to goodness and to evil too,
is sorrowless, unsullied, pure,
that one I call a Brahmin True.

412. Người sống ở đời này,
Không nhiễm cả thiện, ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà-la-môn.

413. Who, like the moon, unblemished, pure,
is clear and limpid, and in whom
delights in being a consumed,
that one I call a Brahmin True.

413. Như trăng sạch không uế
Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.

414.Who's passed this difficult path,
delusion's bond, the wandering-on,
who's crossed beyond, contemplative,
uncraving with no questioning doubt,
no clinging's fuel so cool become,
that one I call a Brahmin true.

414. Vượt đường nguy hiễm này,
Nhiếp phục luân hồi, si,
Đến bờ kia thiền định
Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh,
Ta gọi Bà-la-môn.

415. Who has abandoned lusting here
as homeless one renouncing all,
with lust and being quite consumed,
that one I call a Brahmin True.

415. Ai ở đời đoạn dục,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.

416. Who has abandoned lusting here
as homeless one renouncing all,
with lust and being quite consumed,
that one I call a Brahmin True.

416. Ai ở đời đoạn ái
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Áí hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.

417. Abandoned all human bonds
and gone beyond the bonds of gods,
unbound one is from every bond,
that one I call a Brahmin True.

417. Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cỏi trời.
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà-la-môn.

418. Abandoned boredom and delight,
become quite cool and assetless,
a hero, All-worlds-Conqueror,
that one I call a Brahmin True.

418. Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y
Bậc anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà-la-môn.

419. Who knows how clutching creatures die
to reappear in many a mode,
unclutching then, sublime, Awake,
that one I call a Brahmin True.

419. Ai hiểu rõ hoàn toàn
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt chân giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.

420. Whose destination is unknown
to humans, spirits or to gods,
pollutions stayed, an Arahant,
that one I call a Brahmin True

420. Với ai, loài trời, người
Cùng với Càn thát bà,
Không biết chỗ thọ sanh
Lậu tận bậc La-hán.
Ta gọi Bà-la-môn.

421. That one who's free of everything
that's past, that's present, yet to be,
who nothing owns, who's unattached,
that one I call a Brahmin True.

421. Ai quá, hiện, vị lai
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu không nắm,
Ta gọi Bà-la-môn.

422. One noble, most excellent, heroic too,
great sage and one who conquers all,
who's faultless, washed, one Awake,
that one I call a Brahmin True.

422. Bậc trâu chúa, thù thắng
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.

423. Who so does know of former lives
and sees the states of bliss and woe
and then who's reached the end of births,
a sage supreme with wisdom keen,
complete in all accomplishments,
that one I call a Brahmin True.

423. Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Đạt được sanh diệt tận
Thắng trí, tự viên thành
Bậc mâu ni đạo sĩ.
Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà-la-môn.

  Chú thích:
[1] Thiền Chỉ và Thiền Quán
[2] 6 nội xứ, 6 ngoại xứ
[3] sự trả đủa, trả thù
[4]Hận.
[5] Ái.
[6] Tà kiến.
[7] Tuỳ miên.
[8] Vô minh.

Dhammapadam Nitthitam

 

--- o0o ---

Các bản kinh Pháp Cú khác

--- o0o ---

Source:  http://www.budsas.org/

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 7-2003

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com