Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 1

26/04/201311:38(Xem: 3053)
Phần 1

VẤN ĐÁP THIỀN VÀ PHẬT PHÁP

HT Thích Duy Lực giải đáp

TT. Thích Đồng Thườngghi thành văn tự

PHẦN 1

Hỏi: 

Thế nào là Tổ sư thiền?

Đáp:

Từ Tổ từ Tổ truyền xuống nên gọi là Tổ sư thiền, Đạt Ma từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc, người ta gọi là Đạt Ma thiền. Thiền này do đức Phật Thích Ca đích thân truyền, không qua văn tự lời nói, tất cả Phật nói trong kinh điển đều qua văn tự lời nói. Trong hội Linh sơn, Phật đưa cành hoa lên, Ca Diếp ngộ chỉ mỉm cười, Phật không nói gì nên pháp môn này là “giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự”.

Trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền có 5 câu thoại đầu, tự mình chọn một câu nào thấy khó hiểu nhất để tham, cuối cùng Phật tánh hiện lên gọi là kiến tánh thành Phật. Vì trực tiếp từ địa vị phàm phu thẳng chứng quả Phật còn gọi là pháp thiền trực tiếp.

Cái biết bộ óc không cùng khắp không gian thời gian, về không gian thì biết chỗ này không biết chỗ kia, về thời gian có lúc biết có lúc không biết. Cái biết Phật tánh là chánh biến tri (chánh là đúng với thực tế, biến là phổ biến không gian và thời gian, tri là biết) cùng khắp không gian thời gian, không có lúc nào không biết, không có chỗ nào không biết.

Cái biết Phật tánh không bao giờ mất, nhưng bị cái biết bộ óc che khuất nên không hiện ra. Phật dạy mình tham thiền dẹp cái biết của bộ óc để cái biết Phật tánh hiện lên. Cái biết bộ óc về thời gian thì ngủ mê không biết, chết giấc không biết, chết rồi không biết. Cái biết Phật tánh thì ngủ mê vẫn biết, chết rồi cũng biết; nếu chết rồi không biết thì có gián đoạn, nên không cùng khắp thời gian, không phải cái biết Phật tánh, không được gọi là chánh biến tri.

Cái biết bộ óc dụ cho tướng bệnh, cái biết Phật tánh là tướng mạnh; nếu tướng bệnh kéo dài thì tướng mạnh không thể hiện ra. Tại sao? Vì tướng bệnh là xanh vàng ốm yếu, tướng mạnh là hồng hào; bây giờ mặt mũi này xanh vàng ốm yếu, làm sao hiện ra hồng hào được? Phải hết xanh vàng ốm yếu thì hồng hào mới hiện ra. Cho nên, nhờ câu thoại đầu khởi lên nghi tình để quét sạch cái biết của bộ óc, đặng cho cái biết Phật tánh hiện lên.
-Ông chọn câu thoại đầu nào để tham?
-Chọn câu: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng vật là cái gì?

-Bây giờ tôi thử hỏi ông có tham đúng hay không, như tôi nói muốn dẹp cái biết của bộ óc thì phải không cho bộ óc suy nghĩ, không cho bộ óc tìm hiểu, không cho bộ óc giải thích câu thoại đầu, chỉ đêm ngày giữ nghi tình (không biết), mặc áo, ăn cơm, đi cầu, làm việc… đều hỏi thầm trong bụng để khởi lên không biết.

Tôi vừa hỏi dứt thì trả lời ngay, nếu chậm một chút là bộ óc suy nghĩ có ý trả lời câu hỏi của tôi là không được, đó là hồ nghi, không phải chánh nghi. Chánh nghi cho tâm nghi chứ không cho tâm tìm hiểu, không cho bộ óc suy nghĩ.

Tôi hỏi ông hãy trả lời liền: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì?

Không trả lời liền là qua bộ óc suy nghĩ rồi, muốn tìm để trả lời thì không được. Ông hỏi lại tôi đi!

Ông ấy hỏi: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì?

-Không biết.

Không biết là tham thiền, chỉ cần không biết chứ không được suy nghĩ tìm hiểu. Nếu tìm hiểu được là cái biết bộ óc, không phải cái biết Phật tánh. Cái biết Phật tánh thình lình biết gọi là ngộ. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ, giác ngộ là hiện Phật tánh của mình. Tham thiền là muốn hiện cái biết của Phật tánh thì phải diệt cái biết của bộ óc. Người ta nói “nếu dẹp cái biết bộ óc làm sao để làm việc?” Cũng làm việc bình thường.

Như cô Hằng Thiền là thợ may, khi tham thiền bộ óc không biết, cô cũng cắt xong cái áo vậy, cho đến người em hỏi mấy phân mấy tấc? Cô trả lời không biết. Vô lý! Không biết làm sao cắt? Nhưng sự thật người ta lại may, cô đo thước tấc ghi vào sổ, bắt đầu cắt thì khởi lên nghi tình nhưng cô vẫn cắt xong cái áo, khỏi cần qua bộ óc; tức là dùng cái biết của Phật tánh để làm việc.

Chứng tỏ bộ óc không biết vẫn làm xong công việc, mà lại làm tốt hơn nữa. Như các kiểu quần áo mới phát minh, người khác cắt không được hay cắt được rất khó; còn đem lại cô khỏi cần nghiên cứu, chỉ coi liền cắt vì không cần phải qua bộ óc. Chứng tỏ bản năng của mình cùng khắp không gian thời gian, cái gì cũng làm được.

Con dơi không có mắt mà bay không đụng các vật, vì nó có ra đa; nhà khoa học học cái ra đa của con dơi rồi làm ra cái ra đa. Hôm trước, tôi coi đài số 50 có nhà khoa học thử cái ra đa con dơi rất hay, dở sách nó cũng biết, đếm tiền nó cũng biết, trong nhà người ta ca hát ồn ào không bị ảnh hưởng công việc nó chụp con muỗi. Con dơi không có học và không có nghiên cứu, vì tạo nghiệp con dơi thì con nào cũng đều có ra đa.

Con ong có kiến trúc học, con chim ăn cá ở trên hư không, cá lội dưới biển có sóng lớn, mà ở trên hư không chụp ngay con cá. Con nào cũng như con nấy, không phải học mà biết, bản năng nó sẵn có. Bản năng sẵn có là chỉ theo cái nghiệp một chút xíu, ở trong Phật tánh của mình hiện ra vô lượng vô biên, không có cái nào không làm được.

Tham thiền là phát hiện bản năng của mình đem ra dùng, không phải thành một vị thần linh. Tham thiền cứ hỏi thầm câu thoại đầu trong bụng cảm thấy không biết là tham được rồi. Con nít 6, 7 tuổi cũng thực hành được, bà già 8, 9 chục tuổi đều tham thiền được. Bởi vì việc thế gian muốn biết rất khó, việc không biết ai cũng làm được. Nhưng tin tự tâm rất khó, phải tin tự tâm là tất cả năng lực thần thông trí huệ bằng như Phật Thích Ca, không có kém hơn một chút.

Nếu tham thiền đến kiến tánh, dứt hết tập khí phiền não từ từ cái dụng hiện ra, cuối cùng bằng như Phật Thích Ca. Lúc đó không có cái gì không biết, không lúc nào mà không biết, chứ không phải cái biết của bộ óc có hạn chế và không chân thật.

Hỏi:

Hỏi câu thoại đầu muốn hiểu, giải đáp ra thì như thế nào?

Đáp:

Tham thiền không dùng bộ óc tìm hiểu, cứ hỏi thầm trong bụng, có hỏi phải có đáp, hỏi không hiểu thì đáp không ra, tức lắm, hỏi nữa, khi nào thình lình đáp ra là kiến tánh. Đáp ra được không phải do bộ óc tìm hiểu mà đáp ra, đáp ra là thình lình bừng sáng khắp không gian thời gian, tức là hiện lên bản thể, không phải do lời nói mà đáp.

Hỏi:

Thiết nghĩ, con đã trôi lăn trong biển sanh tử nhiều kiếp tạo nghiệp sâu dầy, nay tuy gặp chánh pháp, nếu chỉ có câu tham thoại đầu trừ vọng tưởng thì đủ giải thoát không? Lại nữa, chư Tổ dạy tụng kinh, niệm Phật, trì chú để chúng sanh bớt nghiệp chướng, tạo thêm phúc đức trợ duyên trên đường tu hành. Vậy con có nên cùng tham thiền và tụng kinh, niệm Phật, trì chú được không?

Đáp:

Nói tham thiền để trừ vọng là sai lầm, vì vọng tưởng là vô minh mới có; chứ không phải Phật tánh có vọng tưởng, Phật tánh là bất nhị, siêu việt số lượng. Bản thể Phật tánh cùng khắp không gian thời gian. Nếu nổi vọng tưởng là có số lượng, có nổi tâm trừ vọng tưởng là hai lớp vọng. Cho nên tu hành trừ vọng tưởng là sai lầm lớn. Tụng kinh là mục đích để biết ý của Phật dạy, mình theo đó để tu, chứ không phải tụng kinh để cho Phật nghe, mà nói là có công đức. Kinh là lời Phật dạy nên Phật đâu cần nghe!

Dùng niệm Phật, niệm chú để trừ vọng tưởng sẽ phát lên nguy hiểm, vọng tưởng được trừ, có sức định cao thì sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, phát điên, ói máu. Sự thật tôi gặp người tu ở Việt Nam rất nhiều trong những trường hợp này. Những người không biết ý của Phật dạy, tưởng là tu để trừ vọng tưởng, đó là sai lầm rất lớn; mà bây giờ rất phổ biến trong giới Phật tử, ấy rất nguy hiểm. Tu hành uổng công, có quả không tốt.

Phật dạy mình tin tự tâm, tất cả thần thông trí huệ bằng như Phật, không kém hơn Phật một chút nào. Tham thiền là phát hiện cái mình sẵn có cùng khắp không gian thời gian, không có cái nào mà làm không được. Con dơi có ra đa là bản năng đầu thai thành con dơi phải có ra đa, con ong có kiến trúc, nhà kiến trúc học kiến trúc của con ong. Kiến trúc của con ong không phải do học mà có, nó theo nghiệp mà có.

Tham thiền không phải để tiêu nghiệp, nghiệp vốn không có, vì tâm mình tạo mới có. Ngưng tâm không tạo nữa thì nghiệp ở đâu? Khỏi cần tiêu mà nó tự tiêu. Tâm tạo rồi tiêu, tiêu rồi tạo nữa, khi nào mới tiêu hết! Tu hành không phải để tiêu nghiệp, nghiệp khỏi cần tiêu, vọng tưởng khỏi cần trừ. Tự tánh mình là bất nhị, không có vọng tưởng, không có nghiệp chướng. Thiền tông nói “nghiệp chướng bổn lai không” (nghiệp chướng vốn là không). Kệ truyền pháp của 7 Phật trước Phật Thích Ca nói “không có nghiệp chướng”.

Trong Thiền tông có công án:
Tăng hỏi Tổ kiến tánh: muốn trừ nghiệp chướng phải làm sao?
Tổ nói: nghiệp chướng bổn lai không.
Tăng hỏi: thế nào là bổn lai không?
Tổ nói: nghiệp chướng.
Tăng hỏi: thế nào là nghiệp chướng?
Tổ nói: bổn lai không.

Nếu thật có nghiệp chướng, mình từ vô thỉ đến bây giờ đã tạo biết bao nhiêu nghiệp chướng, làm sao trừ cho hết! Nhưng khỏi cần trừ, ngộ là xong. Nghiệp chướng ở trong chiêm bao, thức tỉnh chiêm bao thì nghiệp chướng đi đâu tìm! Người ta thật sự không tu hành nên không hiểu được nghĩa này; tự mình không biết rồi lấy cái sai lầm dạy người khác, thành ra vĩnh viễn ở trong biển khổ không ra được. Vì vọng tưởng làm sao trừ, nghiệp chướng làm sao tiêu?

Tham thiền là phát hiện nghiệp chướng, vọng tưởng vốn không có. Không tạo nghiệp chướng, vọng tưởng thì không có nghiệp chướng, vọng tưởng. Do mình tạo nghiệp chướng, vọng tưởng nên mới có cái để trừ. Không có vọng tưởng để trừ và không có nghiệp chướng để tiêu. Cho nên chư Tổ nói “không cần phí sức”. Nếu đạt đến chỗ ít phí sức là được, có còn trừ vọng tưởng và tiêu nghiệp chướng là sai lầm lớn.

Tham câu thoại đầu mặc dù không tiêu nghiệp chướng và không trừ vọng tưởng, nhưng tự nhiên automatic trừ vọng tưởng và tiêu nghiệp chướng. Tại sao? Vì nghiệp chướng và vọng tưởng đều do bộ óc biết mới có, giữ không biết của bộ óc thì tự tiêu. Những người tụng kinh, niệm Phật cứ suy nghĩ hoài, tạo hoài, làm sao tiêu trừ được! Giữ được nghi tình là không tạo nữa, khi nào ngộ thì vọng tưởng nghiệp chướng hết.

Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô vô minh diệc vô minh tận” (không có vô minh cũng không có hết vô minh), không có vô minh làm sao có vọng tưởng? Có vô minh nên có vọng tưởng, có vô minh nên có nghiệp chướng. Không có hết vô minh, nếu có vô minh mới có hết vô minh; tức là không có hết vọng tưởng nghiệp chướng, vì vọng tưởng nghiệp chướng vốn không có. “Vô lão tử diệc vô lão tử tận” (không có già chết cũng không có hết già chết), sanh tử là chúng sanh, hết sanh tử là Phật.

Kinh nói rõ ràng không chịu tin, cứ tạo nghịch lại cho là đúng! Mình đã sai, mà lại trách người đúng. Tại sao Giáo môn tụng kinh rồi tụng Bát Nhã? Vì sợ người ta tụng kinh xong chấp kinh đó. Cho nên sau cùng một thời kinh, tụng Bát Nhã để quét sạch vừa rồi tụng. Nhưng người tụng chỉ biết nhắm mắt tụng, chứ không biết kinh nói gì; cho là tụng kinh để tiêu nghiệp chướng. Tại sao tụng kinh rồi không y theo mà làm, lại nghịch với kinh? Nghịch với kinh đã có tội, lại trách người đúng. Người ta y theo kinh cho là sai, nghịch với kinh cho là đúng. Rất điên đảo!

Hỏi:

Người chứng ngộ thì trí tuệ đến trước hay niềm tin đến trước?

Đáp:

Không có thể nói là trí huệ hay không trí huệ, dùng bộ óc phân biệt thì có ngu si và trí huệ để đối đãi; bản thể Phật tánh không có đối đãi, nên không phải ngu si và trí huệ; toàn thể hiện ra không có trước sau, nếu có trước sau là có đối đãi còn trong số lượng thời gian.

Hỏi:

Khi mình đọc thoại đầu, bổng nhiên không còn nghi tình, mà nó giống như qua đi qua đi và trở thành trạng thái niệm thoại đầu. Như trong trường hợp đó phải như thế nào?

Đáp:

Niệm thoại đầu chỉ có thể trừ vọng tưởng, không đạt đến kiến tánh. Tham thiền không phải trừ vọng tưởng, vọng tưởng khỏi cần trừ. Niệm thoại đầu để trừ vọng tưởng là sai lầm. Nếu không phát khởi nghi tình, nhưng cũng phải hỏi hoài thì sẽ phát khởi nghi tình. Bởi vì câu thoại đầu là có dấu hỏi. Như câu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Có trời có đất thì mình ngồi đây, chưa có trời đất mình ở đâu không biết? Cái không biết là nghi tình tức tham thiền rồi, rất giản dị chỉ cần không biết, việc thế gian muốn biết rất khó, không biết thì dễ. Cho nên con nít 6, 7 tuổi cũng biết tham thiền.

Hỏi câu thoại chứ không phải niệm câu thoại, hỏi đến khi nào thình lình đáp ra được, gọi là kiến tánh (chứng ngộ). Nhưng khi đáp ra không phải có gì đáp ra, tức là bùng nổ phát hiện bản thể mình cùng khắp không gian thời gian, không có chỗ nào không biết, không có lúc nào không biết. Bộ óc ngủ mê không biết, chết giấc không biết, chết rồi không biết; cái biết Phật tánh gọi là chánh biến tri thì ngủ mê vẫn biết, chết rồi vẫn biết, chết giấc vẫn biết. Nếu chết rồi không biết thì không phải cái biết của Phật tánh.

Cái biết Phật tánh khắp không gian thời gian, khắp không gian không có chỗ nào không biết. Nếu có một chỗ không biết, không phải cái biết của Phật tánh. Tham thiền là phát hiện cái biết Phật tánh thì phải dẹp cái biết của bộ óc. Vì cái biết Phật tánh bị cái biết bộ óc che khuất nên không hiện lên được. Kinh Viên Giác thí dụ “vàng thật đã thành sẵn trong quặng, nhưng lộn với đất cát tạp chất, nên vàng thật không hiện ra; vì vậy phải luyện bỏ đất cát tạp chất, vàng thật mới hiện ra”. Nếu trong quặng không có vàng thật, luyện cách mấy cũng không có vàng thật hiện ra. Phật tánh của mình lộn với tham sân si, nên Phật tánh không hiện lên. Tham sân si là cái biết của bộ óc, dẹp hết tham sân si thì Phật tánh hiện lên.

Hỏi:

Tham thoại đầu thường hay tìm ra giải pháp để trả lời câu thoại, làm sao để tránh trường hợp đó xẩy ra?

Đáp:

Phải thống thiết việc sanh tử, giải quyết việc sanh tử là cần nhất. Cái năng biết của bộ óc sau khi chết đem thiêu thành tro, đi chôn thành đất. Như vậy còn biết để làm chi? Biết bao nhiêu cũng hết. Cái biết Phật tánh không thể biến thành tro thành đất, vĩnh viễn như vậy gọi là như như bất động, luôn luôn cùng khắp không gian thời gian, không có biến đổi, không có tiêu diệt.

Hỏi: 

Bảo rằng tìm Phật tánh thì không học, mà không học là mù; vậy liệu rằng trong trạng thái ngu dốt đó, có cơ hội học hỏi Phật pháp không hay chỉ để gặp pháp thiền này rồi tu?

Đáp:

“Không học là ngu”, cái ngu đó là do người ấy tạo. Phật tánh không có ngu dốt và trí huệ để đối đãi, vì cái gì cũng sẵn sàng. Như kinh Pháp Hoa nói “có hạt châu như ý mà không biết, tự cho mình nghèo khổ rồi đi ăn xin”. Chỉ cần gặp người trí chỉ cho biết thì không còn đi ăn xin nữa. Mình đã có đầy đủ sẵn có thần thông trí huệ thì đâu cần học! Như con dơi không cần học, mà lại có ra đa. Con chim từ trên hư không bắt cá ở dưới biển, có bản năng đó, đâu phải do học!

Nếu trừ hết tập khí phiền não của mình thì có bản năng vô lượng vô biên, không có cái nào không biết, không có cái nào mà không làm được. Còn cái học thì có cái học được, có cái học không được. Bởi vì không phải cái của mình sẵn có, nếu phát hiện cái của mình sẵn có thì không cần học. Sự thật tôi chứng tỏ cô thợ may Trì Hằng Thiền, bây giờ người ta phát minh kiểu mới, cô đâu cần học, kiểu mới đem lại cô cắt liền mà không cần nghiên cứu; đem đến người khác không cắt được, chứng tỏ là hơn học rồi.

Hỏi:

Con chim nhỏ đang đậu trên tảng đá, có con chim lớn đến đuổi con chim nhỏ để đậu, rồi một làn sóng phủ lên tảng đá làm cho chim lớn sợ bay đi. Lực lớn trùm lên lực nhỏ, hiện tượng đó có mang ý nghĩa nào không?

Đáp:

Tất cả hiện tượng thế giới đều do cái ngã tạo ra, bởi vì có ngã mới đuổi con chim kia. Nhưng con chim không có nhân chiếm được tảng đá thì không thể chiếm được tảng đá, nếu con chim lớn tạo nhân chết trên tảng đá, sóng biển có thể làm nó chết trên tảng đá.

Không có ngã làm sao tạo ra nhân quả? Có nhân quả là do cái ngã tạo ra, hiện tượng thế giới không có ngoài luật nhân quả. Gần đây bị bảo làm chết bao nhiêu người là do cộng nghiệp.

Trong hoàng cung, Thái hậu mất một hạt châu rất quý, nhà vua bắt những người trong cung xét để tìm hạt châu.

Thái hậu nói: khỏi cần, ít bữa sẽ trở về.

Vua nói: sao Thái hậu biết?

Thái hậu (có tu, lại biết mấy chục kiếp trước) nói: tôi từ mấy chục kiếp trước đến nay không có ăn cắp đồ của người ta, nên đồ của tôi không thể mất, ít bữa sẽ trở về.

Ít bữa sau, Tôn giả A Nan lượm được đem lại trả cho vua, vua đưa cho Thái hậu.

Thái hậu nói: phải không!

Vua cười và nói: Do Tôn giả A Nan lượm được mới đem lại trả, nếu người khác lượm thì đâu có đem lại trả, mà nói trở về.

Thái hậu nói: nếu không tin thì muốn bỏ chỗ nào cũng được, rồi sẽ trở về.

Vua bỏ hạt châu nơi ngã tư người ta thường đi qua lại, cho người mặc đồ thường thay phiên giữ coi có ai lượm không; qua ba bốn ngày không có ai lượm, vua lấy về tự tay bỏ xuống biển để coi có trở về được không? Mấy bữa sau nhà bếp hoàng cung làm một con cá có hạt châu trong bụng. Chứng tỏ nhân quả không thể sai lầm, vì không tạo nhân mất đồ thì không mất đồ.

Có một vị chứng quả Bích chi phật ở trên núi phơi chiếc y đỏ, dưới núi có người mất con bò, thấy trên núi có người đốt lửa hơ chiếc y màu đỏ cho là da bò; rồi lên bắt ông ấy ở tù 12 năm, các đệ tử của ông tưởng ông mất tích. Qua 12 năm, có một đệ tử có dịp vô trong khám gặp thầy.
Đệ tử hỏi: sao Thầy không nói là không ăn cắp bò, mà phải bị tù 12 năm?
Thầy nói: không có bị oan.
Đệ tử hỏi: vậy ăn cắp bò của người ta sao?
Thầy nói: không có ăn cắp bò, vì kiếp trước tôi có làm oan người ta, làm cho người bị tù 12 năm. Bây giờ tôi phải ở tù 12 năm trả lại.

Hỏi:

Muốn báo ân cha mẹ, trong Phật pháp chúng con phải làm thế nào?

Đáp:

Trong Phật pháp có nói “nhứt thiết duy tâm tạo”, tâm lực mình mạnh có ảnh hưởng đến cha mẹ được sửa đổi tâm, mới là báo ân. Nếu tâm tham thiền, không những báo ân cha mẹ đời nay, mà báo ân cha mẹ nhiều kiếp trước. Tâm lực của mình yếu thì không thể báo ân, tụng kinh để báo ân thấy rất khó, ở thời Phật không có tụng kinh. Ngày xưa Phật bảo Mục Kiền Liên muốn báo ân mẹ, nên thiết trai cúng dường trai tăng 1.000 vị Tỳ kheo chứng quả A la hán. Việc ấy, Phật muốn người ta cúng dường chư Tăng để có thì giờ tu hành độ chúng sanh giải thoát khổ, nên sức đó mới lớn.

Trong nhà Phật có báo tứ ân: ân Phật, ân chúng sanh, ân sư trưởng, ân cha mẹ. Tại sao chúng sanh là ân? Vì tất cả chúng sanh đều là cha mẹ, vô lượng kiếp chúng sanh đều làm cha mẹ mình; chứ không phải chỉ có cha mẹ kiếp này. Sư trưởng dạy mình biết tu giải thoát. Phật cũng vậy, dạy cho mình biết tu giải thoát, cho nên gọi là tứ ân. Quyết tâm tham thiền thì tứ ân đều báo hết, nếu tụng kinh để báo ân là do người tụng kinh ấy có thật chân tu cảm ứng tâm người đó có thể sửa đổi.

Hỏi:

Trước nhà cô bạn có một cây lớn, con quỷ ở trên cây đó; ông chồng cưa cây làm cho con quỷ về báo không có chỗ ở, làm cho vợ chồng cải nhau ly dị; người chồng phải đến chỗ khác ở, chỉ có người vợ mới ở được. Một hôm cô ấy thấy một tay có lông thò vào cửa sổ. Vậy hiện tượng đó như thế nào?

Đáp:

Hiện tượng đó có thể có thật, trong Hư Vân Niên Phổ nói cây lâu năm có quỷ thần ở. Nhưng cũng ở trong nhân quả, chứ không ở ngoài nhân quả. Nếu tham thiền thì giải quyết tất cả vấn đề, không có vấn đề nào mà không giải quyết. Vì tất cả đều do tâm tạo, tham thiền làm tâm lực mạnh, việc sanh tử cũng sửa đổi được. 
Như Kim Bích Phong đáng lẽ phải chết, Diêm La vương sai quỷ sứ lại bắt. 
Bích Phong nói với quỷ sứ rằng: cho tôi thêm 7 ngày nữa. 
Quỷ sứ nói: tôi không dám quyết định, tôi về báo lại, nếu cho thì 7 ngày tôi đến.
Bích Phong lúc trước vì bận việc chùa nên không tu được, trong 7 ngày Ngài vẫn ở chùa ra sức tinh tấn tham thiền có hào quang rực sáng.
Qua 7 ngày, quỷ sứ đến không thấy Bích Phong, thành ra sự chết có thể thay đổi được.

Hào quang cũng có người thấy được, ở Trung Hoa Dân Quốc, đời Duyên Thế Khải có một bộ trưởng ngoại giao Ngũ Đình Phương thấy hào quang của mọi người, ông thấy các hào quang của những người trong nội các rất yếu, biết nội các này không bao lâu sẽ sụp. Đúng như vậy, nội các này không bao lâu bị người ta lật đổ.

Ở chùa Nam Hoa có một cư sĩ thấy được hào quang của ngài Hư Vân. Mỗi lần ngài đi về chùa chưa vô cửa ngỏ còn cách vách tường, nhưng ông ấy nói “Hòa thượng về rồi”. Một lần, ông thấy đội binh sắp ra trận có hào quang đen giống như quỷ, một tiếng sau đội quân này tử trận hết. Ông ấy gặp người ta đều biết người nào có tu hay không tu, hào quang có tu là hào quang trắng. Cho nên, tham thiền thì tất cả đều giải quyết, nhưng mình phải có lòng tin tự tâm.

Hỏi:

Có cách nào để dứt trừ tập khí?

Đáp:

Nghi tình là cây chổi automatic, không có tác ý quét nhưng tự động quét.

Hỏi:

Tại sao tham thiền thay đổi nhân quả?

Đáp:

Tất cả do tâm tạo, tâm tạo ra nhân phải chịu quả; nhưng tâm lực yếu thì nhân yếu, tâm lực mạnh thì nhân mạnh; nhân mạnh quả đến trước, nhân yếu quả đến sau. Ở Việt Nam, người ta đi vượt biên, người ở trên biển bị chết đói rất nhiều, đó là những người có tiền. Có tiền đâu có sợ chết đói! Nhưng họ tạo nghiệp chết đói nên phải bị chết đói. Kiếp này họ có tiền do có tạo nhân thiện, còn họ bị chết đó là do tạo người ta chết đói nên phải bị chết đói, hai việc này không thể trừ với nhau.

Kiếp trước không tu thì tâm lực yếu, ví dụ người thường 1 độ, thành Phật 1 triệu độ. Nhân 1 độ làm cho người ta chết đói, kiếp này không tu thì tâm lực vẫn 1 độ phải chịu quả chết đói. Nhưng biết tham thiền thì tâm lực từ 1 độ lên đến 10 độ được mạnh tuy nhân mới làm, cái quả sẽ đến trước; nhân 1 độ của kiếp trước sẽ kéo lại sau. Như người thiếu nợ phải trả nợ cho chủ nợ có thế lực mạnh, trả nợ sau cho chủ nợ có thế lực yếu. Nhân quả cũng vậy, nhân mạnh thì quả đến trước, nhân yếu nên quả đến sau.

Như bây giờ tâm lực mình mạnh mặc dù mới tạo, nhưng cái quả đến trước. Kiếp trước làm cho người ta chết đói, nhưng cái nhân yếu nên cái quả đến sau. Giả tỷ mình tham đến 10 độ, rồi ngưng tham thì cái quả của nhân 10 độ hết tới 9 độ, 9 độ hết đến 8 độ… đến 1 độ cũng phải chịu quả chết đói. 

Tham thiền từ 10 độ tiếp tục tham đến 1 triệu độ là thành Phật, nhưng nhân chết đói vẫn còn, nên phải trở lại độ người đó. Người đó được thoát khổ, nhân đó được tiêu. Sửa đổi nhân quả là vậy, không phải khi không mà được.

Hỏi:

Thế nào là đọc tụng thọ trì kinh?

Đáp:

Đọc tụng kinh là để hiểu lời Phật dạy, nên đọc tụng phải hiểu nghĩa; nếu đọc tụng không hiểu nghĩa giống như không có đọc tụng, hiểu nghĩa là hiểu ý Phật dạy mình thực hành. Hiểu được rồi mới lãnh thọ thực hành gọi là trì. Sau cùng của mỗi cuốn kinh đều có “thọ trì phụng hành”. Bây giờ người ta thường hiểu lầm tụng kinh cho là trì kinh, đó là sai lầm; tụng chỉ là đọc tụng chứ không phải trì, thực hành mới gọi là trì. Như trì giới là theo giới luật thực hành gọi là trì giới, nếu chỉ tụng giới thì không phải trì giới. Tụng giới cho là trì giới thì người ta phạm giới đâu có sao! Vì tụng là trì rồi.

Giáo môn ngày xưa tụng kinh là tùy duyên quán tưởng, tụng đến chỗ nào thì hiểu ý của Phật dạy mình cách tu như thế nào, rồi theo đó thực hành, nên gọi là tùy duyên khởi quán. Quán tưởng là pháp thiền của Giáo môn, dù qua văn tự trong kinh cũng là pháp thiền do Phật Thích Ca dạy gọi là thiền quán tưởng.

Ở Trung Quốc, thiền Giáo môn có 4 tông phái:

1-Tông Thiên thai có chỉ quán thiền, căn cứ kinh Pháp Hoa gọi là tông Pháp Hoa, Tổ thứ 3 của tông Thiên thai ở núi Thiên thai nên gọi là tông Thiên thai. Bây giờ Việt Nam cũng có tông Thiên thai.

2- Tông Hiền thủ có Pháp giới quán thiền. 

3- Tông Duy thức có Duy thức quán thiền. 

4- Tông Tam luận có Tánh không quán thiền.

Mỗi tông phái đều có thiền riêng của tông phái đó, nếu muốn tu tông phái nào phải đúng tông chỉ của tông phái đó, sẽ có kết quả mới phát hiện công đức của tự tánh.

Tổ Đạt Ma nói “công đức ở nơi tự tánh”, tụng kinh để hiểu nghĩa tu hành phát hiện công đức của tự tánh sẵn có, chứ không phải tụng kinh có công đức.

Trì chú thuộc về Mật tông. Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô ngũ uẩn”, nhưng người ta vì cuộc sống hằng ngày chấp ngũ uẩn là ta, chứ không phá chấp ngũ uẩn. “Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý” là phá chấp lục căn; nhưng người tụng kinh không phá chấp lục căn, mà còn muốn thỏa mãn lục căn để tăng cường ngã chấp. Như mắt thích sắc đẹp, tai ưa khen ngợi, mũi ham ngửi mùi thơm… 

Như vậy nói tụng kinh có công đức làm sao được! Phải thực hành theo kinh được phát hiện công đức, chứ không phải có công đức ngay đó. Lại nghịch với kinh làm sao có công đức?

Hỏi:

Niệm Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng tội lỗi đã làm từ trước hay không?

Đáp:

Theo kinh bất liễu nghĩa cho là có nghiệp chướng thật đi! Nhưng cũng phải tu đúng theo tông chỉ Tịnh độ, rồi phát hiện công đức của tự tánh được tiêu trừ nghiệp chướng. Nếu niệm Phật mà tiêu trừ nghiệp chướng là phá hoại nhân quả (không có nhân quả), tức là mình làm bao nhiêu ác không sao. Tại sao? Vì niệm một tiếng Phật là tiêu trừ hết. Còn nói niệm một tiếng Phật là tiêu trừ 80 kiếp tội ác, vậy làm ác không có sao, thì không có nhân quả và mình cũng không cần tu hành.

Tự tánh vốn không có nghiệp chướng để tiêu trừ. Bát Nhã Tâm Kinh nói “vô vô minh diệc vô vô minh tận”, tất cả phiền não nghiệp chướng đều từ vô minh tạo ra. Vô minh vốn không có, nếu tiêu trừ nghiệp chướng tức là vô minh hết. Vô minh vốn không có làm sao có vô minh hết! Kinh đã nói rõ ràng không có nghiệp chướng để cho mình trừ. Vô minh còn không có, vậy nghiệp chướng từ đâu ra? Phật đã dạy 84.000 pháp môn tu là để phát hiện công đức của tự tánh thì nghiệp chướng vọng tưởng vốn là không có, đâu cần tiêu trừ.

Ngài Nguyệt Khê lúc 22 tuổi thuyết pháp rằng “trừ một phần vọng tưởng, chứng một phần pháp thân”, bị Tăng nghe pháp chê cười. 

Giảng xong, Ngài hỏi Tăng cười vừa rồi: Thầy thấy chỗ nào tôi giảng không đúng?

Tăng nói: Pháp sư giảng “trừ một phần vọng tưởng, chứng một phần pháp thân” là không đúng. Tại sao? Nếu vọng tưởng từ ngoài đến đâu có dính dáng với mình, vậy trừ làm chi! Nếu vọng tưởng từ bên trong ra giống như nguồn suối cứ ra hoài, biết bao giờ trừ cho hết.

Hỏi: 

Thiền Phật giáo từ Ấn Độ sang Trung Hoa đã bị nhướm màu sắc của đạo Lão Trang. Kính xin Thầy cho biết quan điểm về vấn đề này?

Đáp:

Lão Trang phủ nhận hiện thực (cho là không có thật), giống như Phật pháp nhưng chỉ là giống mà thôi, phải thì không phải. Phật pháp lấy Phật tánh làm chủ, Phật tánh siêu việt số lượng, bộ óc không có thể biết tới cái biết của Phật tánh, cho nên suy nghĩ không đến được và lời nói văn tự cũng không thể diễn tả. Những người dùng bộ óc để tìm hiểu vì không biết căn bản của Phật pháp. Cái hiểu được đều là tương đối, thuộc về phạm vi nhứt niệm vô minh. Vậy Lão Trang lọt vào không chấp.

Phật pháp là vô sở trụ, luôn cái không cũng phải quét; nhưng tác giả không hiểu căn bản Phật pháp rồi đem vũ trụ vạn vật phân tích cái gì cũng thành không.

Như con sâu dép cỏ rất nhỏ chỉ là đơn tế bào, nó cách một ngày một đêm thì nứt thành 2 con, 2 con cách một ngày một đêm nứt ra thành 4 con, như vậy cứ nứt ra hoài tới 90 đời, tất cả con sâu bằng 1 thước khối, đến 130 đời thì thể tích bằng 1 quả đất.

Theo quả đất này đem xẻ 2, rồi đem xẻ 2 nữa, cứ xẻ đến 130 lần thì trở thành một con sâu dép cỏ. Đem con sâu dép cỏ xẻ thêm 130 lần, vật chất đã không còn; nhưng con số vẫn còn, số lượng đó là vô thỉ vô minh. Đó là vật chất chiếm không gian.

Nói về gian, một ngày đêm là 24 tiếng đồng hồ, 1 tiếng đồng hồ chia làm 60 phút, 1 phút chia làm 60 giây, 1 giây nhà Phật chia 60 sát na. Tôi chia 1 sát na bằng 60 A, 1 A chia bằng 60 B, 1 B chia bằng 60 C. Nếu chia 60 C thì thời gian mà bộ óc không nhận biết được, nhưng con số vẫn còn; 1 giây thì bộ còn có khái niệm tưởng tượng. Thời gian mà bộ óc không nhận biết được là vô thỉ vô minh, còn có số lượng. Nhưng bộ óc chỉ nhận biết số lượng không gian và số lượng của thời gian. Sự thật không gian thời gian tìm không ra. Học thuyết của Lão Trang cao nhất là đến vô thỉ vô minh, cũng không ngoài phạm vi tác dụng của bộ óc.

Phật tánh không có con số, nên bộ óc không thể nhận biết. Phật tánh biết được tác dụng của bộ óc, tác dụng bộ óc không biết tác dụng Phật tánh. Những học giả chỉ biết bộ óc, không biết Phật tánh, mà cho Phật tánh là bộ óc, thật điên đảo! Tại sao? Vì những người đó không có tu, chỉ là dùng bộ óc nghiên cứu theo danh từ lời nói của Phật cho là cao nhất, nói thì giống, nhưng thật thì chẳng phải.

Như ban đầu Phật Thích Ca thuyết phục Ấn Độ giáo và Ba la môn giáo quy y Phật, sau này họ đem giáo lý của Phật vào giáo lý Bà la môn; những danh từ giống như danh từ của Phật, người ta cho là cao bằng như Phật. Kỳ thật giáo lý của họ không được, tại sao? Vì Phật thuyết chỉ là tạm thời mượn để làm công cụ phá chấp của chúng sanh.

Phật có thí dụ: chúng sanh có bệnh giả thì dùng thuốc giả để trị bệnh giả, bệnh giả hết thì thuốc giả bỏ. Các vị ấy không biết Phật pháp lấy cái đã bỏ cho là quý coi là chân lý. Những lời của Lão Trang thì bộ óc hiểu được, bộ óc không thể hiểu Phật tánh. Đem Phật tánh vào học thuyết của Lão Trang là sai lầm lớn.

Hỏi:

Con chim có bản năng bắt cá rất giỏi, con dơi có ra đa bắt muỗi rất chính xác; còn con người có Phật tánh nhưng cần phải luyện tập thì Phật tánh mới phát hiện. Tại sao con dơi không có luyện tập mà có ra đa?

Đáp:

Mình tạo nghiệp con dơi thì đầu thai thành con dơi có ra đa, bất cứ con dơi nào cũng bằng nhau; tức là theo cái nghiệp hiện ra, chứ không phải luyện tập. Nghiệp của con người có bộ óc, bộ óc khác hơn các sinh vật khác, biết suy nghĩ, biết so đo tính toán; các con vật không bằng bộ óc con người, nên nhà khoa học bắt chước bộ óc con người làm ra máy điện toán. Cấu tạo tinh vi bộ óc của con người không phải học mà làm được. Vì có nghiệp con người nên có bộ óc của con người. Cấu tạo tinh vi của bộ óc do cha mẹ sanh là sẵn có, như con dơi sanh ra có ra đa.

Nhưng cái nghiệp của con người có thể tu hành phát hiện tất cả bản năng, con dơi con chim không thể tu phát hiện tất cả bản năng, nó chỉ theo nghiệp của bản năng đó thôi. Con người hơn 5 đạo kia, đạo cõi trời mặc dù có phước cao hơn con người, nhưng chỉ hưởng vui không có khổ, vì vậy họ không chịu tu để hiện tất cả bản năng của Phật tánh. Mấy đạo kia thì khổ cũng không tu được. Các con thú không có bộ óc như con người nên không tu được. Chỉ có con người có bộ óc con người mới tu được.

Tham thiền cũng dùng cái không biết của bộ óc để tu, tôi thuyết pháp cho các vị nghe để tu cũng phải dùng bộ óc. Nếu không có bộ óc thì tôi không dạy cho quý vị được, quý vị không thể nhận biết lời tôi dạy.

Hỏi:

Sư Phụ nói con vật không thể tu, nhưng con thấy con chó lúc trước không ăn chay được, mà bây giờ nó lại ăn chay?

Đáp:

Do mình tập cho nó thành thói quen, thực vật cũng thành thói quen mà nhà khoa học chứng tỏ. Thói quen của con người cho sáng là ban ngày, tối là ban đêm; cây thực vật cũng vậy, cho sáng là ban ngày, tối là ban đêm. Nhà khoa học muốn thí nghiệm thực vật phải làm sao? Ví như cây thực vật phải trải qua 30 ngày có hoa kết trái. Nhà khoa học đào hầm ở dưới đất không có ánh sáng, rồi nửa tiếng rọi ánh sáng thì thực vật cho ánh sáng đó là ban ngày, khi tắt đèn thì thực vật cho tối là ban đêm. Qua 30 tiếng đồng hồ, thực vật tưởng là trải qua 30 ngày nên có hoa kết trái.

Vì do thói quen, Phật pháp gọi là tập khí. Do tập khí biến hiện sự thật, nhà khoa học có thể rút 30 ngày thành 30 tiếng, thực vật cũng có trái. Có trái đó là do thói quen sáng là ban ngày, tối là ban đêm. Động vật cũng vậy, như con thỏ con chuột… phải 90 ngày có con, nhà khoa học cũng có thể rút lại 90 tiếng đồng hồ có con.

Hỏi:

Kính xin Sư Phụ khai thị thêm “trừ một phần vọng tưởng, chứng một phần pháp thân”?

Đáp:

Lúc 22 tuổi, Nguyệt Khê nói “trừ một phần vọng tưởng, chứng một phần pháp thân”. Vậy pháp thân có chia xẻ từng phần thì đâu phải là Pháp thân! Pháp thân là Phật tánh bất nhị làm sao chia xẻ? Nguyệt Khê giảng có danh tiếng, nhưng bị Tăng hỏi không trả lời được, rồi xin Tăng ấy chỉ giáo, Tăng ấy giới thiệu đến gặp Hòa thượng Thiết Nghiêm đã kiến tánh ở núi Ngưu Đầu. Lúc đó trời tối, Nguyệt Khê không đợi trời sáng liền đi gặp Thiết Nghiêm, Ngài dạy tham thoại đầu, sau này được kiến tánh. Lúc trước, cứ ăn đàm giải của người khác cho là tốt, rồi dạy lại người ta.

Hỏi:

Căn cơ của mình thấp kém, không bằng chư Tổ; vậy đối với pháp môn tham thiền này làm sao tu?

Đáp:

Phật tánh làm sao có cao thấp! Phật tánh có thấp kém thì không phải Phật tánh. Có cao thấp là nhị, Phật tánh là bất nhị. Bất nhị làm sao có thấp kém? Thấp kém là do bệnh chấp của con người mới có. Nếu mình chấp thấp kém thì phải chịu thấp kém. Kinh Pháp Hoa thí dụ “có hạt châu như ý trong áo mà không biết, cho mình nghèo rồi đi ăn xin; người trí chỉ cho biết hạt châu thì giàu sang, đâu cần phải đi ăn xin nữa”. Vì không tin cái của mình sẵn có, cứ cho mình thấp kém, nghiệp chướng nặng. Cũng có người nghe nói “tu để thành Phật”, người ấy liền nói “sao dám nói tu thành Phật!” 

Kỳ thật, mục đích đức Phật muốn mọi chúng sanh đều thành Phật, vì thành Phật mới được làm chủ chính mình, đạt đến tự do tự tại. Lại nghịch ý Phật, không cho người ta thành Phật; làm sao Phật độ chúng sanh? Mà cho mình nghiệp chướng nặng, thấp kém, không dám tu để thành Phật. Vậy đã phủ nhận Phật pháp của Phật Thích Ca. Lời nói trong kinh không chịu nghe theo, không chịu làm theo, cứ tự mình đặt ra ý của mình, lại phỉ báng kinh. Mặc dù mình chưa kiến tánh, nếu mình quyết tâm tham thiền thì tâm lực mạnh, hào quang sáng.

Hỏi:

Thay vì nhớ những lời, mà tưởng tượng như một bức tranh, đối với pháp Tổ sư thiền có được không?

Đáp:

Công án là một chuyện tích không có ý nghĩa, để cho mình phát nghi chấm dứt suy nghĩ của bộ óc; tức là không phải muốn cho mình hiểu, mà muốn cho mình không hiểu.
Có người hỏi Tổ: thế nào là Phật?
Tổ đáp: cục cứt khô.
Là không để cho mình giải thích.

Hỏi:
Tu đến Niết bàn từng phần có được không?

Đáp:

Niết bàn là bản thể của Phật tánh cùng khắp không gian thời gian, không thể chia xẻ thành từng bộ phận được. Vì ngoài không gian không có không gian, ngoài thời gian không có thời gian; nói là một còn không được, nên gọi là bất nhị; vì không sanh không diệt, đặt tên là Niết bàn; không có sự bắt đầu và không có sự cuối cùng, siêu việt số lượng, không cho bộ óc nghĩ tới.

Hỏi:

Công án đề ra là để giữ cân bằng giữa năng và sở, vậy làm sao đạt đến không còn năng sở?

Đáp:

Công án là một chuyện tích để khởi nghi tình, chính nghi tình là không có năng sở. Nếu dùng bộ óc tìm hiểu, không bao giờ đạt đến chỗ đó được. Giữ Nghi tình là không tác ý lấy hay bỏ, sẽ đưa mình đến chỗ Niết bàn.

Thực hành tham thiền là tối ngày sáng đêm, đi đứng nằm ngồi, mặc áo ăn cơm, đi cầu ngủ nghĩ, làm công việc… hỏi thầm câu thoại đầu, giữ nghi tình; ngoài nghi tình không suy nghĩ cái gì khác nữa, chính câu thoại đầu cũng không cho tìm hiểu.

Hỏi:

Thế nào là yếu chỉ của Thiền tông và sự ích lợi dự đả thiền thất như ngày hôm nay?

Đáp:

Yếu chỉ của Thiền tông có 2 cơ bản: tin tự tâm và phát nghi tình.

Thế nào là tin tự tâm? Tin tâm mình đầy đủ tất cả thần thông biến hóa, trí huệ năng lực, bằng Phật Thích Ca, không có kém hơn Phật Thích Ca một chút nào. Mục đích tham thiền là muốn phát hiện năng lực của mình, để dùng như Phật Thích Ca vậy; mà tự giải quyết sự sanh tử, giải thoát tất cả khổ, làm chủ cho mình đạt đến tự do tự tại.

Muốn đạt đến tự do tự tại phải có phương pháp, phương pháp đó là phát nghi tình thì phải nhờ câu thoại đầu hoặc công án. Bây giờ tôi chỉ dạy người ta tham thoại đầu, rất đơn giản. Trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền có 5 câu thoại đầu: Câu thứ nhất là “chưa có trời đất ta là cái gì?” Có trời đất thì ngồi đây, chưa có trời đất không biết mình ở đâu? Cũng không biết mình là cái gì? Không biết đó là tham thiền. Nhờ câu thoại đầu làm cho bộ óc cảm thấy không biết, không biết đó Thiền tông gọi là nghi tình. Ngày đêm mình giữ nghi tình, rồi sẽ đến thoại đầu.

Thoại là một lời nói, đầu là trước kia chưa có muốn nói; chưa khởi niệm muốn nói, gọi là thoại đầu. Hai chữ thoại đầu là một niệm chưa sanh khởi, cũng gọi là vô thỉ vô minh.

Như đầu trên cây viết là thoại đầu, đầu dưới cây viết là thoại vỉ (đuôi). Nhờ câu thoại đầu khởi lên nghi tình, từ thoại vỉ đến thoại đầu là đường đi ý thức; khởi nghi tình là rời khỏi thoại vỉ, đang đi giữa đường ý thức đến thoại đầu. Đến thoại đầu là đường đi ý thức đã hết, nhưng chỗ này là nguồn gốc của ý thức, còn dính líu tác dụng của bộ não; phía trước chỗ này không còn đường đi, thấy thanh thanh tịnh tịnh; ngoại đạo hay Tiểu thừa tưởng là cuối cùng, nhưng Thiền tông phải ở chỗ này (đầu sào trăm thước) tiến lên một bước, rời khỏi ý thức, sát na rời khỏi ý thức là kiến tánh.

Ngài Lai Quả nói “từ đầu sào trăm thước tiến lên một bước lọt vào hư không, té xuống cho chết rồi sống lại”, Thiền tông có danh từ là tuyệt hậu tái tô. Nhưng cái chết đó có 2 thứ: tiểu tử tiểu hoạt và đại tử đại hoạt.

Tiểu tử là ngộ chưa triệt để, tức là chết rồi sống lại, nhưng còn cái xác; đại tử đại hoạt là ngộ triệt để, tức là chết rồi sống lại, không còn cái xác. Tại sao còn cái xác? Cái xác dụ cho chấp vào cảnh giới ngộ, không buông nên bị cái ngộ làm chướng ngại, cái dụng không thể dùng ra hết. Đại tử đại hoạt là cái ngộ tan rã, nên Tổ sư nói “ngộ rồi đồng như chưa ngộ”. Tại sao? Vì đã ngộ rồi hết mê, do mê mới có ngộ; vậy còn ngộ thì còn mê. Ngộ là đối với mê, mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Nếu đã ngộ mà còn ôm cảnh giới cho mình ngộ, tức là trụ nơi Niết bàn.

Cái dụng Phật tánh vô lượng vô biên, gọi là hoạt bát vạn năng; nếu có sở trụ thì hoạt bát vạn năng bị mất. Tham thiền khởi lên nghi tình là cây chổi automatic quét ra, khôi phục lại hoạt bát vạn năng. Trụ nơi không thì hoạt bát vạn năng cũng bị mất, nên cái không cũng phải quét, để khôi phục lại hoạt bát vạn năng của bản thể. Cho nên trụ nơi Niết bàn thì cái dụng bị chướng ngại. Đại ngộ là luôn cái ngộ cũng tan rã, hoạt bát vạn năng không chướng ngại, nên nói đại ngộ là cái xác tan rã vậy.

Tham thiền là phải tin tự tâm, nếu không tin tự tâm; mặc dù ngày đêm giữ được nghi tình không thể kiến tánh. Tại sao? Vì không tin tự tâm làm sao phát hiện tự tâm! Bởi tham thiền là muốn phát hiện tự tâm, không tin tự tâm làm sao tự tâm hiện ra. Cho nên, tin tự tâm và phát nghi tình là 2 cái cơ bản của tham Tổ sư thiền.

Hỏi:

Cư sĩ thực hành thế nào đúng tông chỉ Thiền tông?

Đáp: 

Trong Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền, điều thứ nhất phá ngã chấp là “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”. Tham thiền thực hành được 9 chữ này là đúng tông chỉ Tổ sư thiền; nếu còn muốn đắc, muốn cầu, có sợ thì không đúng tông chỉ. Tin tự tâm đầy đủ cùng khắp không gian thời gian, tất cả tài sản đều của mình thì tự nhiên mình không muốn đắc, muốn cầu, có sợ nữa. Cho nên tin tự tâm là cần nhất, tin tự tâm được thì thực hành được 9 chữ đó. Nếu không tin tự tâm, muốn thực hành 9 chữ đó rất khó. Còn 9 điều kia quý vị tự xem.

Hỏi: 

Khả năng như thế nào để thành một tu sĩ?

Đáp:

Muốn xuất gia làm một tu sĩ Phật giáo thì phải có chánh nhân. Chánh nhân là sao? Là phải vì mình giải quyết vấn đề sanh tử, rồi giải quyết sanh tử cho tất cả chúng sanh; đó mới là chánh nhân. Nếu chỉ vì sự nghiệp thất bại hoặc gia đình lộn xộn xuất gia thì không phải là chánh nhân, trong Phật giáo không có hoan nghinh những thứ đó. Xuất gia là việc đại trượng phu, rất tích cực vì mình, vì tất cả chúng sanh. Nhiều người hiểu lầm bỏ nhà cửa đi xuất gia là tiêu cực, đó là sai lầm. Nếu có chánh nhân thì những việc khác không thành vấn đề.

Hỏi:

Thần thức người chết đi về đâu? Trong thời gian 49 ngày, đồng tham đến nhà tham thiền trợ duyên, cần lập nguyện trước khi tham thiền không? 

Đáp:

Bản thể của tâm cùng khắp không gian thời gian, đã cùng khắp thì không thể nói đi về đâu. Nhưng chấp thần thức đó rồi thì có một chỗ, mới nói là đi về đâu. Vì chấp thần thức nên đi đầu thai trong vòng sanh tử luân hồi. Thần thức đi về đâu là theo cái nghiệp, nếu tạo nghiệp cõi trời thì sanh cõi trời, tạo nghiệp cõi người thì sanh cõi người, tạo nghiệp súc sanh thì sanh súc sanh, tạo nghiệp quỷ thì sanh loài quỷ. Người ta thường hiểu lầm người chết biến thành quỷ, ấy là không đúng; tạo nghiệp quỷ đầu thai thành quỷ, chứ không phải chết rồi biến thành quỷ.

Người tham thiền có người thân khi lâm chung, chỉ tựu lại tham thiền tọa hương đi hương. Hồi hướng là phá ngã chấp, nếu muốn cha mẹ giải thoát phải làm cho cha mẹ phá ngã chấp. Trái lại làm cho ngã chấp lớn thêm, giống như lấy dây buộc nhiều thêm cho chặt cứng; vậy làm sao giải thoát được? Ở Việt Nam có người chết hay mời các thầy tụng kinh thành thói quen, tham thiền vì người chết cũng có người không chịu; cho nên thuyết pháp trước linh cửu, do cái nhân người chết mà người sống được lợi ích.

Đầu tiên tôi thuyết pháp tại nhà xác Quảng Đông, những người làm việc ở đây lại nghe; có người nghe rồi, hôm sau đến chùa Từ Ân tìm tôi học thiền. Mặc dù không có tu cũng được gieo chánh nhân, sau này do chánh nhân ấy tu được giải thoát. Vì người chết mà người sống được nghe pháp. Chính gia quyến người chết không khi nào đi nghe pháp, nhưng vì người chết nên họ phải làm đám, nên họ cũng có dịp nghe được chánh pháp. Người chết có nhân đó, nếu nói có công đức thì cũng có công đức vậy.

Hỏi:

Làm tuần thất cho người chết, người tham thiền phải làm như thế nào?

Đáp:

Người tham thiền làm tuần thất cho người thân, mời Pháp sư thuyết pháp thay thế cho tụng kinh. Làm tuần từ tuần thứ nhất đến lần thứ bảy, vì người chết có thân trung ấm. Người ta thường cho rằng người chết biến thành quỷ, nhưng không phải vậy. Nếu chưa đi đầu thai là có thân trung ấm, thông thường ngày giờ chết đi đầu thai liền; lục đạo luân hồi có tam thiện đạo (cõi trời, cõi người, cõi a tu la) và tam ác đạo (súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục).

Nếu làm thiện nhiều hơn ác một chút thì sanh thiện đạo, làm ác nhiều hơn thiện một chút thì sanh ác đạo. Đã phân biệt rõ ràng là giây phút chết đi đầu thai liền, không còn thân trung ấm. Nếu thiện và ác bằng nhau, chưa biết sanh thiện đạo hay ác đạo mới có thân trung ấm. Tại sao gọi là thân trung ấm? Ấm là ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), thân ngũ uẩn này đã chết rồi, thân ngũ uẩn sau chưa sanh, ở giữa trước với sau gọi là trung ấm. 

Hỏi:

Khi tham thiền, câu thoại vừa khởi lên thì hình ảnh cũng hiện lên, chẳng hạn như câu “khi chưa có trời đất” thì hình ảnh của trời đất hiện ra, như vậy có đúng không? Khi sự việc đó xẩy ra, ta điều chỉnh bằng cách nào?

Đáp:

Tham thoại đầu là mục đích phát khởi nghi tình, tức làm cho bộ óc chỉ có cái không biết, dùng cái không biết của bộ óc cắt đứt cái biết bộ óc. Nếu hiện ra cảnh, bộ óc biết cảnh, đó là sai, bất cứ biết cái gì đều sai là vọng tưởng; chỉ cần cái không biết, ngài Nguyệt Khê nói là hầm sâu vô minh, không biết chỗ đen tối là cái gì. Vì minh là sáng, vô minh là đen tối; tức là mình phải nhìn thẳng chỗ đen tối mịt mù, không biết chỗ mịt mù đen tối là cái gì? Không biết là cái gì? Tức là nghi tình.

Hỏi:

Ngài Nguyệt Khê luôn luôn khai thị phải nhìn sâu vào chỗ vô minh đen tối mịt mù phá tan, nhưng chúng con không biết nhìn sâu bằng cách nào?

Đáp:

Theo nhìn là dùng con mắt, con mắt gọi là nhãn căn; nhưng không phải là dùng phù trần căn, dùng tịnh sắc căn. Con mắt như trái nho tươi gọi là phù trần căn (phù nổi lên bên ngoài, trần là bụi tức là có vật chất nổi bên ngoài), tịnh sắc căn (sắc là vật chất, tịnh là không có; là thể tinh thần của nhãn căn). Nếu phân tích rõ là tịnh sắc căn của nhãn căn. Dùng tâm nhìn chứ không phải dùng con mắt nhìn, vì đó là tịnh sắc căn của nhãn căn.

Hỏi:

Ngồi một chỗ nhắm mắt lại thấy màn đen tối, có thể nói là hầm sâu đen tối; hoặc nhìn xuống cái chiếu, mở mắt lim dim không nhìn thấy cái chiếu, cảnh ngoài không vào con mắt, gọi là hầm sâu vô minh, vì không thâu chủng tử. Nhưng nhìn việc làm thì phải làm sao?

Đáp:

Nếu có đối tượng để nhìn là sai, một niệm chưa sanh khởi gọi là thoại đầu (vô thỉ vô minh); một niệm chưa sanh khởi thì không có nhứt niệm vô minh để biết đối tượng đó. Có lấy cái gì để làm đối tượng cũng là sai, không có đối tượng. Cho nên chỉ nhìn không biết đó là cái gì, vì phối hợp với nghĩa vô minh cho là đen tối; chứ không có cảnh đen tối, nhưng vì lời nói không thể diễn tả. Vì vậy phải mượn văn tự lời nói để diễn tả chỗ mình không thể biết chỗ một niệm chưa sanh khởi.

Bởi vì một niệm sanh khởi rồi, mới lấy cái niệm này để biết. Còn cái này là một niệm chưa sanh khởi, phải nhìn chỗ một niệm chưa sanh khởi gọi là thoại đầu. Chỗ thoại đầu là vô thỉ vô minh, vô minh là đen tối, đen tối có cái nghĩa không biết là cái gì. Mịt mù đen tối là hình dung vô minh, nhưng không phải có cảnh đen tối. 

Kỳ thật, cảnh đen tối không có ánh sáng là đen tối, chứ không phải hư không có sáng và tối (kinh Lăng Nghiêm có giải thích). Mặt trời chiếu sáng, hư không chưa từng sáng; không có mặt trời chiếu (đen tối), hư không chưa từng tối. Sáng và tối không có dính dáng với hư không, nhưng người thường cho hư không sáng, hư không tối là sai lầm. Sáng tối là pháp sanh diệt, còn hư không chưa từng sanh diệt; không có dính líu với sáng tối, nhưng sáng tối phải ở trong hư không.

Bây giờ mình ở trong Phật tánh sanh tử, luôn cả hư không cũng ở trong Phật tánh. Nhưng mình không biết, mà còn phải đi tìm. Như mình đang ngồi trong thiền viện Minh Đăng Quang, lại còn muốn đi tìm thiền viện Minh Đăng Quang. Vậy làm sao tìm? 

Hỏi:

Người mới tham Tổ sư thiền dùng lục căn làm việc, nhưng không nhìn được thoại đầu, chỉ niệm câu thoại có được không?

Đáp:

Lúc công phu chưa đến mức, mình cứ dùng lục căn; lúc dùng lục căn mà không giữ được nghi tình, giữ cái niệm cũng được. Rồi tập lần lần đến chừng thiệt nghi tình giữ được thì cũng làm xong công việc vậy. Như Trương Quốc Anh, bác sĩ Thuận, cô Hằng Thiền, họ giữ được nghi tình thì cũng hoàn thành tác dụng của bộ óc; khỏi cần qua bộ óc nhưng làm xong công việc xài óc. Nếu công phu chưa đến mức đó, khi làm việc thì nghi tình phải tạm ngưng; chừng nào công phu đến mức thì nghi tình tự động khởi lên. Bộ óc không biết nhưng vẫn làm việc bình thường, lại nhanh hơn tốt hơn.

Hỏi:

Khi tham thoại đầu có niệm không hiểu thì chỉ giữ niệm không hiểu không biết hay ta giữ thêm niệm không biết nào đó nữa?

Đáp:

Cái không biết làm sao có hai! Một không biết đã đủ rồi. Hai không biết là biết, biết có hai là biết.

Hỏi:

Tham thoại đầu là cảm thấy không biết, mình tham tiếp hay tham câu thoại đầu rồi trả lời tiếp sau đó mình không biết?

Đáp:

Không cần trả lời. Tôi hỏi thử người ấy có tham đúng hay không? Thì người ấy mới trả lời. Nếu tự mình hỏi cảm thấy không biết, tức là trả lời không được. Có hỏi thì phải có đáp, đáp là trả lời; nhưng không biết làm sao trả lời, không biết thì trả lời không ra; thình lình trả lời ra là kiến tánh. Nói thình lình trả lời là không phải trả lời, phát hiện bản thể cùng khắp không gian thời gian. Đó là thay cho trả lời.

Nói dùng lục căn (nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn) để tham đều là dùng tịnh sắc căn, chứ không phải dùng phù trần căn. Như lỗ tai giống như lá cuống, đó là phù trần căn. Tịnh sắc căn là nhĩ thức, nhãn thức…

Hỏi:

Con bị đau cổ, người ta nói “cô sao không đi tụng kinh cầu an cho hết bệnh!” Con nghĩ rằng “nếu tụng kinh cầu an hết bệnh thì các Tăng Ni trong chùa thường tụng kinh đã hết bệnh rồi, hay những người giàu mời các Tăng Ni tụng kinh cũng hết bệnh”, con đến đây cùng các bạn tọa hương đi hương. Kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:

Nếu tạo nhân gì thì phải chịu quả nấy, kinh Pháp Hoa nói “như thị nhân như thị quả”. Cầu an cho khỏi bệnh, mà ai cũng biết cầu an! Nhưng những người cầu an cho người ta cũng bệnh vậy. Bây giờ mình bệnh là do kiếp trước tạo nhân bệnh, nên phải chịu cái khổ của bệnh. Phật Thích Ca xuất gia cũng vì cái khổ sanh lão bệnh tử của con người cần phải giải quyết. Nếu cầu an được thì không cần xuất gia làm chi nữa, sự thật có cầu an được là phá hoại nhân quả; không có nhân quả nên mình không cần tin Phật, không cần tu.

Hỏi:

Kinh Dược Sư là phương tiện an ủi gieo tín tâm cho người ta trong lúc đó phải không?

Đáp:

Kinh Dược Sư là kinh bất liễu nghĩa, trong đó cũng có pháp tu để cầu sanh cõi Đông Phương. Đời nhà Minh ở Trung Quốc có người hoằng dương Dược Sư Tịnh Độ. Ngài Thái Hư nói “người hiện tại đời thế kỷ hai mươi phần nhiều thích hợp Tịnh độ Dược Sư, không thích hợp Tịnh độ A Di Đà. Bởi vì người nào cũng sợ chết, mà ham kiếp sau làm phú quý; nên Tịnh độ Dược Sư mới thích hợp, Tịnh độ A Di Đà không thích hợp. Do người hoằng dương Tịnh độ Dược Sư rất ít, thành ra Tịnh độ A Di Đà thịnh hành. 

Nhưng người ta hoằng không đúng tông chỉ Tịnh độ A Di Đà, không bằng hoằng Dược Sư Tịnh Độ; để kiếp này hưởng ngũ dục của thế gian, kiếp sau đầu thai cũng hưởng phú quý nữa, rồi từ từ sanh đến Tịnh độ Đông Phương. Có người hoằng dương 3 thứ Tịnh độ: Tịnh độ A Di Đà, Tịnh độ Đâu Suất, Tịnh độ Dược Sư. Người ta không biết, chỉ biết Tịnh độ A Di Đà, lại không biết cách tu của Tịnh độ A Di Đà, cho nên tạo ra nhiều nạn nhân chịu oan. 


----o0o---

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 1144)
Rồi tôi đi sâu vào vườn trầm, đi mãi vào ...rừng trầm để mong tìm những cây trầm đại thụ, và tôi đã gặp bao cao Tăng tu hành tại đây, không chỉ các sư tại Âu Châu mà còn từ Hoa Kỳ, Úc, Canada ...nữa cơ. Các vị đã trao cho tôi bao trầm hương qua lời giảng của quí Sư dựa theo lời dạy của Đức Phật. Những thỏi trầm quí mang tên: Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, Phổ Môn, Chú Đại Bi, Thập Chú, Thần Chú..v.v..và.v.v.Ôi, nhiều lắm, rồi với thời gian, nếu thành tâm trân quí và nắm giữ những thỏi trầm, thì hương trầm của nó cũng ít nhiều tỏa hương thơm ngát đánh bạt những sú uế mà bụi đời đã phủ lên người chúng ta.
15/03/2023(Xem: 4928)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
23/09/2022(Xem: 2639)
Giáo lý Bốn thánh đế là giáo pháp quan trọng nhất của những người học và tu tập theo lời dạy của Đức Phật. Cho dù chúng ta thuộc truyền thống Nguyên Thuỷ hay truyền thống Đại Thừa cũng đều tu học từ nền tảng giáo pháp này. Trong Bốn thánh đế thì đạo thánh đế gồm 37 pháp và thường được gọi là 37 phẩm trợ đạo. Trong đó thì Bát chánh đạo là căn bản nhất vì “Bát chánh đạo gồm có hữu lậu và vô lậu” (Trong Tạp A-hàm, Kinh Quảng Thuyết Bát Thánh Đạo, số 785 và Trong kinh Trung Bộ III, Đại Kinh bốn mươi, do Hòa thượng Minh Châu dịch).
17/11/2021(Xem: 24450)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 13116)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
03/09/2021(Xem: 7003)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
08/10/2020(Xem: 8858)
1- Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì làm, tới đâu thì tới. 2- Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. 3- Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn nhịn để vượt qua. 4- Ăn chay, thương người, thương vật, tụng kinh. 5- Việc ác chớ để phạm, điều lành phải nên làm. 6- Thương người cùng thương vật, niệm Phật và tham thiền. 7- Chánh niệm đứng đầu là 3 niệm : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 8- "Hằng ngày ăn thịt chúng sanh mà mong giải thoát, điều đó không bao giờ có điều đó được". 9- Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua, gặp việc thì làm; rảnh việc thì nhiếp tâm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 10- Thông minh hiểu biết nhiều, coi chừng không bằng ông già bà lão ăn chay niệm Phật.
01/03/2020(Xem: 13408)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 7985)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
17/04/2019(Xem: 5770)
Những pháp thoại của Lama Yeshe là độc nhất vô nhị. Không ai thuyết giảng được như đức Lama. Tự nhiên lưu xuất trong tâm, trực tiếp ngay bây giờ; mỗi lời nói của ngài là một cẩm nang hướng dẫn để thực tập. Tiếng anh của đức Lama rất tốt. Khó có người sử dụng nhuần nhuyễn như ngài. Với tính sáng tạo cao, đức Lama đã biểu hiện chính mình không chỉ qua lời nói, mà còn thể hiện tự thân và trên khuôn mặt. Làm sao để chuyển tải hết sự truyền trao huyền diệu này trên trang giấy? Như đã đề cập ở chỗ khác, chúng tôi trình bày với yêu cầu này cách tốt nhất có thể.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com