VÀO CỬA TỊNH ĐỘ
Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Thích nữ Viên Thắng dịch
VÀO CỬA TỊNH ĐỘ
Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Thích nữ Viên Thắng dịch
Các vị đồng tu thân mến!
Lần này chúng ta tập hợp về nơi đây, tuy thời gian rất ngắn nhưng thật là đúng lúc. Bởi vì gần đây, khi chúng tôi đang giảng kinh ở Los Angelesvà San Jose có rất nhiều vị đồng tu đến gặp chúng tôi để luận bàn về việc tu học, tuy họ nỗ lực tu tập nhưng lại không đạt khả quan, không thể gặt hái được những công đức và lợi ích thù thắng như Đức Phật dạy trong kinh.Nguyên nhân này rốt cuộc là ở đâu? Vì thế, trong ba ngày hôm nay chúng ta thảoluận về vấn đề này.
Chương 1
Vì sao chúng ta tu theo pháp môn Tịnh độ
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi. Ngay đời này, chúng ta phải hiểu rõ liễu thoát sanh tử là việc trọng đại, kinh Pháp Hoa nói là “Đại sự nhân duyên”. Đức Phật dạy chúng ta rất nhiều trong các kinh luận Đại thừa, bất luận là lý luận hay phương pháp nào đều lấy việc liễu thoát sanh tử để ra khỏi ba cõi làm mục tiêu tối hậu.
Phật pháp bắt đầu truyền từ Ấn Độ cho đến ngày nay, theo lịch sử Trung Quốc ghi lại là đã được 3000 năm, theo lịch sử nước ngoài thì cũng hơn 2500 năm, giáo pháp truyền rất lâu như vậy thế nào cũng có những điều sơ suất xảy ra. Hiện nay là thời đại mạt pháp theo kinh Đại thừa ghi năm lần 500 năm, cũng chính là nói sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt 2500 năm, vào thời đại này căn tính của chúng sinh khác xa với thời xưa. Do đó, tuy có nhiều kinh luận và pháp môn khác nhau, không có nghĩa là không tốt, nhưng chúng ta là người tu học ở thời hiện đại chỉ nói được mà không thực hành được.
Y theo nguyên tắc và lý thuyết của kinh Đại thừa, bất luận chúng ta tu học pháp môn nào như Hiển giáo, Mật giáo, Thiền tông hay các tông khác đều phải đoạn dứt Kiến, Tư phiền não thì mới liễu thoát sinh tử. Thế nào là Kiến, Tư phiền não? Nói đơn giản, Kiến là chỉ kiến giải sai lầm, cách nhìn sai lầm về vũ trụ nhân sinh, gọi là “Kiến phiền não”. Tư là chỉ tư tưởng sai lầm, cách nghĩ sai lầm. Phạm vi của Kiến, Tư bao quát rất rộng lớn.
Trong kinh luận Đức Phật đem những Kiến, Tư phiền não hợp lại thành mười đại loại, đây chỉ vì phương tiện thuyết pháp mà khởi kiến. Chúng tôi nói thật, bất kỳ một loại nào trong mười đại loại, người tu thời hiện đại không đoạn được một loại, huống gì mười loại? Nếu chúng ta không thể đoạn được phiền não thì dù tu học cả đời cũng không thể thành tựu, đây không phải là bệnh của một người mà là bệnh chung của người hiện đại.
Chúng ta hãy đọc luận Niệm Phật của đại sư Đàm Hư, Đại sư từng than thở: “Suốt một đời những điều Đại sư đã thấy, đã nghe, người tham thiền có khả năng chứng đắc thiền định đã quá ít, nhưng tham thiền được khai ngộ thì chẳng những suốt đời chưa thấy mà cũng chưa hề nghe qua”. Đây chỉ là một ví dụ nêu lên mà thôi.
Nếu như người tham thiền mà không thể đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thì không thể gọi là thành tựu. Công phu đắc thiền định có sai khác, vì định có cạn sâu như đắc Sơ thiền, Nhị thiền là công phu cạn; đắc Tam thiền, Tứ thiền là công phu sâu. Ngay cả chứng Tứ thiền thiên và Tứ không thiên vẫn không thoát khỏi cõi trời, huống gì người đắc thiền định quả là hiếm có. Đây chính là nói bởi chúng sinh trong thời mạt pháp phiền não tập khí quá sâu nặng, lại thêm cảnh duyên bên ngoài mê hoặc bất thiện. Thế nào là bất thiện? Là bị danh lợi, tài, sắc, danh, thực, thùy lôi cuốn, bên trong bị phiền não dày vò thôi thúc, bên ngoài bị cám dỗ mê hoặc thì làm sao chúng ta có thể thành tựu được?
Huống gì việc tu học, theo các bậc đại đức xưa kia đã nói: “Không chí thành”. Câu này vô cùng quan trọng, ý nghĩa rất rộng sâu. Chúng ta nghe qua không chú ý chỉ cười trừ, cho là việc tầm thường không đáng thực hành, nên không hiểu được câu nói này là điểm quan trọng then chốt của chúng ta.
Vì sao chúng ta không chí thành? Không ngoài hai nguyên nhân, nếu nói theo kinh Phật thì do thiếu thiện căn, không có phước báo, nếu nói theo thời hiện đại thì có hai điều:
1. Chúngta hiểu nghĩa lý kinh còn quá cạn cợt.
2. Chúng ta chưa nếm đủ vị đắng khổ đau khi làm người ở thế gian.
Do đó, chúng ta tu học không chí thành; đây là sai lầm lớn của chúng ta.
Vậy chúng ta phải làm thế nào mới có thể đạt được sự lợi ích thù thắng của Phật pháp? Chúng ta phải tu học thế nào để đời này có được thành tựu thật sự? Đây chính là điều của mỗi vị đồng tu mong cầu. Chúng ta đã có nguyện vọng này, tâm nguyện này thật sự có chí thành không? Nếu như chúng ta nhận thức được điều này, có tâm nguyện thật sự mãnh liệt chí thành thì người này là người giác ngộ như trong kinh Đức Phật đã giảng. Vị này giác ngộ thật sự.
Nếu như chúng ta còn sống say chết mộng để tháng ngày luống qua uổng phí, tâm học Phật như thế vẫn là như cũ, chỉ sống trong vô minh, mê hoặc, không có giác ngộ. Công phu tu học như vậy, nếu muốn thành tựu đích thực thì rất khó.
Những năm gần đây, chúng ta chuyên nghiên cứu và tu tập, trong Lục Ảnh Đới có viết một số bài mọi người đều xem qua. Vậy chúng ta bắt đầu vào từ cửa nào? Nhất định phải từ “Tam phúc và Lục hòa[1]”. Lục hòa không phải chỉ riêng dành cho đạo tràng của người xuất gia, nếu lục hòa chỉ riêng cho người xuất gia thì người tại gia làm sao thành tựu được?
Chúng ta phải biếtlục hòa không phân biệt tại gia hay xuất gia, vì Phật pháp là pháp bình đẳng, đặc biệt là pháp môn Tịnh độ, Phật A-di-đà đại từ, đại bi muốn cho tất cả chúng sinh trong chín cảnh giới đều bình đẳng thành Phật, ở trong thời mạt pháp này nếu muốn tu thành tựu chỉ có một pháp môn này thôi.
Người niệm Phật vãng sanh đi, đứng, nằm, ngồi hay biết trước thời gian ra đi, nên không có bệnh khổ. Chúng ta đã xác thực đích thân nhìn thấy, hoặc nghe nói đến nên pháp môn này được gọi là “dễ hành đạo”. Nền tảng để tu học pháp môn này vẫn là “Tam phúc, Lục hòa”. Tam phúc, Lục hòa này chúng tôi nghĩ nếu mọi người cùng tu thì ai nấy đều cũng có thể đắc đạo. Mọi người ai cũng nói được mà làm không được phải không? Nếu không thực hành được thì không có ích lợi gì.
Mấy tuần trước, chúng tôi thuyết giảng tại Los Angeles có một vị đồng tu đến thưa:
- Thưa thầy! Con chuyên trì kinh.
Chúng tôi hỏi:
- Anh chuyên trì kinh gì?
- Dạ, con trì kinh Vô Lượng Thọ đã ba nghìn biến.
- Anh không phải trì kinh.
- Thưa thầy, nghĩa là thế nào? Mỗi ngày con đều đọc tụng.
- Anh đọc kinh, đọc qua ba nghìn biến, chứ anh không có trì.
- Thưa thầy, thế nào gọi là trì?
- Trì là thực hành được những điều Đức Phật dạy trong kinh, anh có thực hành chưa? Anh chưa thực hành được thì gọi là đọc kinh, ngay cả học kinh cũng chưa hề có. Thế nào là học? Tức phải ghi nhớ trong tâm, nhưng anh chỉ đọc ngoài miệng, còn trong tâm thì chạy theo vọng tưởng đúng không?
- Dạ đúng! Con đọc kinh ngoài miệng, học kinh cũng như thế. Thầy có thể nói chữ “trì” cho con nghe được không?
Chúng tôi nêu ra một câu trong kinh: “Khéo giữ khẩu nghiệp, không chê lỗi người”, anh có thực hành được không?
Anh ta thật thà lắc đầu đáp:
- Dạ, con chưa làm được.
- Chưa làm được là anh không có trì, trong kinh Đại thừa Đức Phật có dạy: “Thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người”. Thọ trì xếp hàng đầu, lý luậncủa Đức Phật nói anh hiểu rồi, phương pháp anh cũng hiểu rõ. Anh có thể đem lý luận, phương pháp thực hành vào ngay trong đời sống hàng ngày của chính mình, đây mới gọi là “thọ trì”. Cho nên thọ trì và đọc tụng là hai việc khác nhau, không hiểu đạo lý này thì việc học Phật chỉ là học suông, niệm danh hiệu Phật cũng là niệm suông, làm sao có thể thành tựu.
Nếu như bạn mới học Phật mà chúng tôi bảo bạn đọc ba nghìn biến kinh thì mục đích là gì? Chúng tôi chỉ bảo bạn nhớ kỹ lời dạy trong kinh điển, cần áp dụng ngay trong đời sống, thực hành qua cách xử sự, đối nhân xử thế, đây gọi là “thọ trì”, như thế mới có cảm ứng. Nếu như bạnkhông làm theo mà đến nói với chúng tôi: “Con cũng có cảm ứng” thì chúng tôi có tin không? Chúng tôi tin. Nhưng chúng tôi tin bạn được cảm ứng không phải từ Phật, Bồ-tát mà là cảm ứng của yêu ma, quỷ quái. Thật sự yêu ma, quỷ quái đang gia hộ cho bạn, chúng nó giúp bạn tăng trưởng tham, sân, si giúp cho bạn tạo thêm ác nghiệp để mau đọa vào địa ngục A-tỳ.
Phần cuối của kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói người học Phật có năm mươi loại ấm ma; ma có sự gia trì, oai thần và năng lực rất mạnh, chúng ta không thể xem thường. Nếu chúng ta tu tập theo chánh tâm, chánh hạnh thì sẽ cảm ứng đạo giao với Phật, Bồ-tát. Còn như tu tâm tà, hạnh tà thì sẽ cảm ứng đạo giao với yêu ma, quỷ quái.
Xã hội ngày nay rất là phức tạp, cảnh giới trong lục đạo gần gũi chúng ta lại càng phức tạp hơn. Một người ở trong thời đại này muốn liễu thoát sinh tử, ra khỏi ba cõi quả thật chẳng dễ dàng, nhưng cũng không thể xem là khó khăn, như vậy cũng là sai lầm. Thật ra vẫn có lối đi, vẫn có con đường để đến, đó là chúng ta nhất định phải vâng theo lời dạy của Đức Phật mà thực hành.
Chương 2
Ba phúc
1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát, tu mười thiện nghiệp
a.Hiếu dưỡng cha mẹ:Điều này, chúng tôi giảng rất nhiều lần, chúng ta đọc kinh không thuộc, hiểu ý nghĩa kinh không rõ ràng, thực hành trái ngược trong kinh dạy. Không cung kính cha mẹ là đại bất hiếu, điều này chúng ta biết rõ.
b.Phụng sự sư trưởng:Chúng ta là người học Phật, vị thầy đầu tiên là Đức Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni. Đức Bổn Sư dạy chúng ta học theo Phật A-di-đà nên Đức Phật A-di-đà cũng là Bổn Sư của chúng ta. Hằng ngày trong cuộc sống, chúng ta khởi tâm động niệm, tâm mình có giống như tâm Phật không? Suy nghĩ có giống như Phật nghĩ không? Làm thế nào giống như tâm Phật, nghĩ như Phật? Trong kinh Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà nói chân tâm của Phật là hình tướng của Phật. Chúng ta có tin và hiểu không? Có thật sự tinh tấn tu hành không?
Tu hành là dựa theo tiêu chuẩn Đức Phật dạy, chúng ta phải sửa đổi cách nghĩ, cách nhìn sai lầm của mình trong cuộc sống hằng ngày, gọi là tu hành. Nếu như hằng ngày chúng ta đóng kịch như người học Phật, nhưng trên thực tế thì lừa mình dối người như thế sẽ có cảm ứng với ma, ma sẽ đến hộ trì cho bạn mà không phải là Phật. Dụng ý của ma đến hộ trì bạn để làm gì? Để chúng hủy diệt Phật pháp và gây chướng ngại cho Phật pháp.
Chẳng những ngay trong đời này chúng ta không được tự tại, không được như ý mà quả báo đời sau lại càng đáng sợ. Chúng ta có ý thức được điều này không? Chúng ta có cảnh giác không? Cho nên chúng tôi thường khuyên các vị đồng tu, cơ duyên của chúng ta thù thắng không ai bằng, nếu chỉ trong chốc lát mất thân người bị đọa vào ba đường ác thì thật là đáng tiếc và oan uổng!
Cho nên nền tảng của Phật pháp, căn bản là hiếu kính, hai chữ hiếu kính rất rộng lớn. Hiếu kính với tất cả chúng sinh, đó là học Phật. Nếu chúng ta thật sự làm được việc hiếu kính đối với tất cả chúng sinh, như thế thì chúc mừng bạn rồi, chẳng những bạn thoát ra khỏi luân hồi mà còn thoát ra khỏi chín cảnh giới. Bởi vì, hiếu kính chân thật bình đẳng đối với tất cả chúng sinh chỉ có pháp thân Bồ-tát mới thực hành được. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Sơ trụ Viên giáo trở lên mới thực hành được”. Cho nên sau khi chúng ta phát tâm phải nên nỗ lực tinh tấn thực hành quyết tâm làm cho được.
c. Từ tâm không sát:Trong các tội nghiệp, hành vi sát sanh là tội nghiệp nặng nhất, tội nghiệp này rất quan trọng; cho nên, Đức Phật tổng hợp trọng tâm của giới luật dạy cho chúng ta “lòng từ không sát hại”. Hay trong đạo Phật thường nói: “Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. Chúng ta phải vun bồi tâm từ bi, tuyệt đối không được sát hại, cho đến tổn hại tất cả chúng sinh. Người không có tâm từ bi thì không thể học Phật, làm tổn hại chúng sinh thì nhất định sẽ gây kết oán cừu rất nặng, lại những oan gia trái chủ báo thù lẫn nhau kéo dài mãi không dứt.
d. Tu mười thiện nghiệp:Người giác ngộ tuyệt đối không được kết oán thù với chúng sinh. Một khi kết oán thù với chúng sinh đều là do mê hoặc điên đảo, bị vô minh phiền não che lấp; cho nên chúng ta phải tu mười thiện nghiệp, đây là nền tảng tu tập, chúng ta đem nó áp dụng vào cuộc sống thường nhật, tiêu chuẩn đều là lời dạy trong kinh luận, từ nền tảng này chúng ta bước vào cửa Phật.
2. Thọ trì tam quy, giữ gìn cấm giới, phát tâm Bồ-đề.
a. Thọ trì tam quy:Chúng ta bước vào cửa Phật, trước tiên phải thọ trì tam quy y. Tam quy y là điều Đức Phật dạy cho chúng ta thoát khỏi sáu đường luân hồi, mục tiêu là hướng đến Bồ-đề Niết-bàn gọi là Tam bảo. Tam bảo chính là Giác, Chánh, Tịnh, chúng ta luôn luôn giữ tâm giác ngộ của mình. Giác là không mê, xưa nay chúng ta chỉ mê mà không giác, ngày nay quay đầu lại gọi là “trở về”, biết quy y là “giác mà không mê”.
Đức Phật lại dạy, do chúng ta chấp vào tri kiến và quan điểm sai lầm nên phải quay đầu lại, nương theo chánh tri, chánh kiến. Tri kiến như thế nào gọi là chánh? Chư Phật, Bồ-tát tuyệt đối không nói: “Tri kiến của ta là chánh tri, chánh kiến, còn tri kiến của các ông là tà tri, tà kiến”. Các ngài dạy: “Tri kiến tương ưng với tự tánh là chánh tri, chánh kiến; tri kiến trái với tự tánh là tà tri, tà kiến”. Như thế, chúng ta mới tâm phục, khẩu phục; bởi vì, chúng ta chưa minh tâm kiến tính, nên phải thừa nhận cách nhìn, cách nghĩ của chúng ta đều là sai lầm. Vì thế, khi mới học Phật chúng ta không thể không nương theo Đức Phật. Nhưng Phật lại dạy rất hay là chúng ta không thể nương theo Ngài mãi mãi mà chỉ có thể nương theo một thời gian. Sau khi, chúng ta minh tâm kiến tánh thì không cần nương theo Ngài nữa; trước khi chúng ta chưa kiến tánh mà không nương theo Ngài thì chẳng còn phương pháp nào tốt hơn được.
Vậy đắc minh tâm kiến tánh có dễ không? Là phải đoạn trừ phiền não, phá phiền não chướng. Phiền não gây chướng ngại cho chân tâm tự tánh của chúng ta. Bạn còn phiền não thì nhất định không thể nào kiến tánh được, vẫn phải tu học theo pháp môn. Tu học theo pháp môn là phá sở tri chướng, sở tri cũng là chướng ngại tự tánh. Trừ sạch hai chướng ngại lớn này thì chúng ta mới minh tâm kiến tánh được.
Điều này chúng ta nói thì rất dễ dàng, nhưng khi thực hành thì rất khó. Cho nên, Đức Phật dạy hàng phàm phu còn bị nghiệp chướng sâu nặng, căn tánh ám độn chỉ có phát nguyện cầu sinh về Tịnh độ. Phương pháp này rất tuyệt diệu, có thể tạm thời không cần đoạn Kiến, Tư phiền não mà vẫn vãng sanh về Tịnh độ, cũng không cần tu học vô lượng pháp môn; chỉ cần đầy đủ ba điều kiện Tín, Hạnh, Nguyện thì được vãng sanh, sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc diện kiến Phật A-di-đà, sau đó nỗ lực học với Ngài. Về cõi này chúng ta lại đoạn phiền não, lại học pháp môn thì đạt được cứu cánh giải thoát viên mãn.
Do đó, khi thọ trì tam quy, chúng ta phải quy y Phật A-di-đà và nương theo kinh điển Tịnh độ. Kinh điển Tịnh độ hiện nay chỉ có ba bộ kinh[2]và một bộ luận Vãng Sinh. Nếu bạn nương theo hết phần kinh luận này thì rất tốt, còn như chê nhiều thì trong sáu loại bạn chọn bất kỳ một loại nào để thực hành cũng được. Có lẽ sẽ có người hỏi: “Một loại thì có ít quá không?”. Chúng ta đọc Vãng Sinh truyện hay Tịnh Độ Thánh Hiền Lục thì xưa nay có rất nhiều người ngay một bộ kinh cũng chẳng biết, suốt đời chỉ biết niệm một câu A-di-đà Phật mà họ vẫn có thể đứng vãng sanh hay ngồi vãng sanh.
Niệm một câu hiệu Phật A-di-đà còn thành tựu được, huống gì một bộ kinh? Chúng ta phải có niềm tin chân thành kiên cố như trong kinh Kim Cang nói: “Tín tâm kiên cố” thì chúng ta mới có thể thành tựu.
Tăng bảo là chúng ta quy y bồ-tát Đại Thế Chí và bồ-tát Quán Thế Âm. Chúng tu ta theo Tịnh độ, quy y Tam bảo thực tế là trên sự tướng. Đại Thế Chí biểu hiện cho lý trí, chẳng phải tình cảm; Quán Thế Âm biểu hiện cho sự từ bi. Cho nên, chúng ta quy y Tăng là chúng ta quy y từ bi theo lý trí, chẳng phải từ bi theo tình cảm; từ bi theo tình cảm là việc xấu. Từ bi phải lấy lý trí làm nền tảng, được như thế mới gọi là thọ trì tam quy.
b. Giữ gìn cấm giới:Nói đầy đủ các giới, chúng ta có thể giải thích những giới điều mà Đức Phật đã dạy trong tất cả kinh điển để chúng ta tuân thủ, nhưng không phải chấp chặt. Chúng ta phải xem kỹ những giới điều trong kinh, tất cả giới điều đều bao hàm trong đó, không hề sai lầm. Từ trên nền tảng này mà khế nhập vào pháp môn của Bồ-tát.
Pháp đầu tiên của Bồ-tát là phát đại tâm, phát Bồ-đề tâm. Chúng ta muốn vãng sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc phải nhớ kỹ trong kinh Phật giảng, điều kiện để chúng ta được vãng sanh có hai câu tám chữ. Tam bối vãng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ nói bất luận là thượng bối, trung bối hay hạ bối đều không khác nhau đều là “phát Bồ-đề tâm, nhất tâm chuyên niệm”.
c. Phát tâm Bồ-đề:Thế nào là phát tâm Bồ-đề? Là tâm độ khắp hết chúng sinh, “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”. Nếu như bạn còn oán ghét, ưa thích chúng sinh thì bạn có thể đến được thế giới Tây phương Cực Lạc không? Chắc chắn là không thể đến được, cho dù mỗi ngày bạn niệm mười vạn câu danh hiệu Phật, niệm một vạn tiếng danh hiệu Phật, bạn cũng không thể vãng sanh được. Bởi vì, bạn không có tâm Bồ-đề, chúng ta phải hiểu rõ điều này.
Trước đây thầy Lý thường nói: “Người ngày nay niệm Phật, một vạn người niệm Phật khó có được hai, ba người vãng sanh”. Không phải họ không tinh tấn, suốt ngày xâu chuỗi chẳng rời tay, từ sáng đến tối miệng không ngừng niệm A-di-đà Phật, A-di-đà Phật, nhưng vì sao họ không vãng sanh được? Vì họ không có tâm Bồ-đề, nên không phù hợp tiêu chuẩn để vãng sanh. “Nhất tâm chuyên niệm” thì họ làm được, nhưng “phát tâm Bồ-đề” thì họ không thực hành được, do đó họ không thể vãng sanh.
Hôm qua Quán Trưởng nói chuyện với chúng tôi về Khổng Tử. Đức học của Khổng Tử có từng giai đoạn rất rõ ràng, đây là tấm gương tốt cho chúng ta. Khổng Tử nói “Tam thập nhi lập”. Ba mươi tuổi lập cái gì? Lập chí hướng! Lập chí theo nhà Nho giống như chúng ta phát tâm giảng Phật pháp. Khổng Tử lập chí là chí đối với sự học, suốt đời theo nghiệp học vấn. Hôm nay chúng ta lập chí là độ khắp chúng sinh, chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, chúng ta đích thực lập chí này. Bốn hoằng thệ nguyện là lập chí, chúng ta có lập được không?
Nhà Nho nói nếu không lập chí thì việc gì cũng không thành tựu được. Vì sao? Bởi vì chúng ta không có phương hướng, không có mục tiêu, dù cho có nỗ lực cũng không thể có kết quả. Pháp xuất thế gian so với pháp thế gian càng phải nghiêm khắc hơn nhiều, chúng ta không phát nguyện thì làm sao thực hành? Cho nên trước tiên phải phát nguyện, phát tâm Bồ-đề chính là phát đại nguyện. Quá trình đức học của Phu Tử quả là tấm gương cho chúng ta.
“Tứ thập nhi bất hoặc”. Đến tuổi này người ta không bị mê hoặc nữa, không bị cảnh giới bên ngoài quyến rũ, mê muội, tức là không bị lôi kéo.
“Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”. Đến tuổi biết mệnh trời là ý nghĩa gì? Là người ta biết biết rõ nhân duyên, quả báo; biết tất cả chúng sinh đều là do hiện tượng nhân duyên, quả báo tương tục tuần hoàn.
“Lục thập nhi nhĩ thuận”. Là tâm an định, tâm thanh tịnh hiện tiền. Kinh Kim Cang nói: “Tín tâm thanh tịnh thì sinh thật tướng”. Trí tuệ thật sự hiện tiền. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng trong Đàn Kinh nói:
Nếu người thật tu đạo
Không thấy lỗi thế gian.
Tai họ nghe không thấy lỗi của thế gian. Trong kinh Hoa Nghiêm ghi: “Đồng tử Thiện Tài tham học với năm mươi ba vị, cũng không thấy lỗi thế gian”. Cảnh giới này là cảnh giới tai đã thuận.
“Thất thập nhi tùng tâm dục, bất du cư”. Đến tuổi này tâm như thế nào? Là tâm làm theo ý muốn nhưng không vượt qua khuôn phép. Khuôn phép là gì? Là hoàn toàn tương ưng với pháp tánh, tuyệt đối không được trái với pháp tánh. Chính là tự nhiên thuận làm theo ý muốn hợp tình, hợp lý, hợp pháp. Điều này thật vi diệu, đạo Phật chúng ta nói là “đại tự tại”, cuộc sống tự tại, thói quen tự tại, hành vi đối nhân xử thế cũng tự tại. Đây chính là “lợi ích thật sự”, “thọ dụng thật sự”. Khổng Tử làm được, chúng ta là người học Phật thì phải thực hành rốt ráo để được viên mãn.
3. Khuyên các hành giả: Tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa.
Điều sau cùng là “Tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa”. Hiện tượng y chánh trang nghiêm trong mười pháp giới là quả báo. Quả báo rất phức tạp, nếu nói đến mức độ phức tạp thì mức độ phức tạp của nhân tất nhiên sẽ tỷ lệ thuận với quả. Vì trong nhân quả phức tạp như thế, nên chúng ta cần phải cẩn thận chú ý, luôn cảnh giác chính mình từng thời khắc, tuyệt đối không thể tạo nhân xấu.
Khi còn trẻ, chúng tôi tiếp xúc Phật pháp nên khâm phục Đức Phật vô cùng, Ngài chỉ dạy mọi người hãy nhìn mình, không nên nhìn người khác. Điều này làm chúng tôi khâm phục năm vóc lạy sát đất. Đức Phật dạy là dạy cho chúng ta, không phải dạy người khác. Nếu như chúng ta không vào từ cửa này mà muốn sớm thành tựu đạo nghiệp thì tuyệt đối không làm được. Bởi vì, trọng tâm tu học Phật pháp là thiền định, là tâm thanh tịnh. Nếu như tâm chúng ta luôn nghĩ đến hoàn cảnh bên ngoài rồi phân biệt thì khi nào đạt được định? Sẽ không bao giờ đạt được hi vọng.
Chúng ta phải thành tựu thiền định, thành tựu tâm thanh tịnh thật sự, hoàn toàn không duyên theo cảnh bên ngoài, trở lại duyên bên trong; đó là Phật pháp cao minh, nên gọi Phật pháp là “nội học”. Cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng được; người tốt cũng được, người xấu cũng chẳng sao, không cần để ý. Chúng ta đối với cảnh bên ngoài tâm luôn chân thật cung kính, thuận cảnh cũng như thế mà nghịch cảnh cũng như vậy; đối xử người thiện và người ác giống nhau, tuyệt đối không được phân biệt, chỉ có tâm chân thành. Chúng ta vận dụng được tâm này thì người tốt, được người thiện ca ngợi và ngay cả người xấu cũng tán dương; người xấu được chúng ta cảm hóa, đoạn ác tu thiện. Vì thế, Lục Tổ nói rất hay:
Nếu người thật tu đạo
Không thấy lỗi thế gian.
Người thường thấy lỗi thế gian là tự rước họa vào thân. Ngày nay, chúng ta mắc chứng bệnh nặng này rất phổ biến; từ sáng đến tối luôn thấy lỗi của người khác, lại không nhìn lỗi mình. Khi nào chúng ta không thấy lỗi người khác mà chỉ thấy lỗi mình thì chúng ta thành công. Công phu tu tập của chúng ta đạt được hiệu quả là được thọ dụng thật sự.
Người khác thì thế nào? Họ tự có nhân quả của họ, quan trọng là chính mình. Nhân quả của họ, chúng ta không thể chịu thay cho họ, cũng không thể giúp họ thay đổi. Huống gì ở thời buổi này, ai chịu nói lỗi của người khác? Người xưa cũng không nói. Chúng ta đọc Lễ Ký, tác phẩm đời Hán ghi, người nào nói lỗi của bạn? Chỉ có cha mẹ của bạn và thầy giáo. Vì họ có trách nhiệm dạy dỗ nên mới nói của bạn, bạn không được cãi lại. Bạn nói lỗi của bạn đồng học thì bị họ oán hận, thù hiềm rình chờ cơ hội báo thù. Vậy có chịu người khác nói lỗi của mình không? Không có người nào chịu.
Phật, Bồ-tát giảng kinh, thuyết pháp đều nói từ dễ đến khó, chúng ta nghe rồi suy đi nghĩ lại, mình có lỗi hay không, nếu có chúng ta hãy mau kiểm điểm; đây gọi là “có lỗi thì sửa, không thì khen ngợi”. Các ngài không nói thẳng lỗi của chúng ta mà các ngài chỉ trò chuyện để chúng ta tự phản tỉnh, tự giác ngộ, tâm của các ngài thanh tịnh. Trong kinh, luận nói lỗi lầm của phàm phu rất nhiều, nhưng trên thực tế Đức Phật chẳng nhìn lỗi lầm bất cứ người nào; đây là Đấng tài năng dạy học Phật pháp, tâm luôn thanh tịnh.
Chúng ta phải hiểu rõ những điều này để tự phản tỉnh, hiểu được lòng từ bi chân thành của Phật, Bồ-tát thật vô cùng. Chỉ cần chúng ta tự nỗ lực, tu hành đúng lời dạy của các ngài, không cần quan tâm đến hoàn cảnh, tất nhiên có Phật, Hộ pháp, Thiên thần đến hộ niệm cho chúng ta. Chúng ta không cần lo lắng có người đến phá hoại, gây chướng ngại. Có khi người khác không đến gây chướng ngại mà chính mình gây chướng ngại trước. Chúng ta nghĩ làm việc gì đây? Đó là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm hỏng chính mình trước tiên; điều này chúng ta cần phải nhìn kỹ mà buông bỏ.
Chúng ta phải tinchắc sự hộ niệm của chư Phật. Sự hộ niệm này chính là tất cả chư Phật thường nhớ đến quan tâm chúng ta; đây là sự thật. Hộ pháp, Thiện thần tôn kính, khâm phục, ủng hộ chúng ta. Còn nếu mình luôn nghi ngờ thì chẳng những Đức Phật không hộ niệm mà Thiện thần, Hộ pháp cũng không che chở. Chúng ta tự xét mà thực hành, bằng không chịu thiệt thòi rất lớn.
Vì thế, hai chữ “tin Phật”thật không dễ dàng, tin Phật rồi, chúng ta có còn vọng tưởng, còn lo âu, còn bận tâm không? Tất cả đều không còn, như thế mới nhất tâm h��ớng về đạo. Đạo ở đâu? Đạo chính là ngay trong cuộc sống, là chuyện ăn cơm, mặc áo. Chúng ta đọc đoạn mở đầu trong kinh Kim Cang ghi: “Đức Phật Thích-ca đắp y, ôm bát, vào thành Xá Vệ khất thực”; đây chính là đạo. Do đó, chúng ta biết trong cuộc sống thường ngày chẳng có gì thay đổi, công việc hằng ngày cũng như vậy; những việc xử sự, đối nhân xử thế, xã giao vẫn như thường.
Phật, Bồ-tát khác với phàm phu ở điểm nào? Phàm phu khởi tâm động niệm trước tất cả cảnh duyên vì phân biệt chấp trước nên trái với đạo. Còn Phật, Bồ-tát ngay trong cuộc sống không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước thường thuận theo chúng sinh, tùy hỷ công đức. Cuộc sống của các ngài tự tại, giao tiếp tự tại, chứng đắc tự tại, đạt đến viên mãn.
Các ngài được tự tại, chứng đắc viên mãn đều từ trong tâm thanh tịnh phát ra. Kinh Kim Cang ghi: “Tín tâm thanh tịnh thì sinh thật tướng”. Là sinh trí tuệ thật tướng Bát-nhã. Trí tuệ thật tướng Bát-nhã hiện tiền, làm sao không được tự tại? Làm sao mà không viên mãn? Rốt cuộc là do tâm thanh tịnh.
Vì thế, người tu hành ở bất cứ chỗ nào, lúc nào cũng giữ tâm thanh tịnh, cũng chính là phần trước chúng tôi giảng Giác, Chánh, Tịnh là Tam quy. Giác là không mê, Chánh là không tà, Tịnh là không nhiễm. Đạo lý niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ như vậy, lẽ nào chúng ta không được vãng sanh?
Nói về nhân duyên ở đời, như trong kinh Đức Phật dạy: “Chúng ta có thể làm được việc thế gian, nhưng không thể làm theo ý thế gian”. Hai câu nói này thật là hay. Việc thế gian chúng ta có thể làm được, kinh Hoa Nghiêm ghi: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Vậy chướng ngại ở đâu? Chướng ngại ở ý thế gian. Ý nghĩa thế gian là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bạn phải đoạn trừ những thứ này. Ý nghĩa hai câu này rất sâu rộng.
Đức Phật hoằng pháp suốt 49 năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Ngài giảng điều gì? Chính là giảng những điều này, muôn nghìn lời nói, nói không cùng, đối với người, đối với việc, đối với sự vật; chúng ta nghĩ như thế nào? Nghĩ là sai lầm, nghĩ rơi vào trong ý thức, nghĩ chính là vọng tưởng.
Có lẽ bạn hỏi: Chẳng phải mọi người đều phải suy nghĩ đó sao? Không sai! Mọi người điều là phàm phu, đều có vọng tưởng. Có phải ai cũng như thế không? Chỉ trừ Phật, Bồ-tát không suy nghĩ như vậy. Đáng tiếc là bạn chưa thấy, những điều bạn hiểu đều là phàm phu. Vì thế, bạn cho việc mình làm là bình thường.
Tại sao Phật, Bồ-tát không có suy nghĩ như vậy? Bởi vì, các ngài biết vạn pháp đều không. Trong kinh Kim Cang ghi: “Không thể nắm bắt được tâm ba thời”. Biết nghĩ là không, các pháp do duyên sinh, duyên sinh là tánh không nên nghĩ cũng là không thì nó có gì để mà suy nghĩ? Các ngài không suy nghĩ, nhưng đối phó sự việc lại có thể chu đáo mọi mặt. Tại sao các ngài làm chu đáo? Là phát xuất từ trí tuệ.
Chúng tôi nêu ra ví dụ, khi chúng ta đọc kinh điển, hãy xem lời Đức Phật dạy có hay không? Rất có thứ tự, lần lượt, mỗi điều nhỏ đều không lộn xộn; bất luận là giảng lý hay sự, đều đâu ra đó. Phật không khởi ý niệm: “Lần này, Ta phải giảng pháp như thế nào?”. Chưa hề, Ngài không khởi tâm, không động niệm, hoàn toàn tùy thuận tự tính, từ trong tâm phát ra tự nhiên như thế.
Vì chúng ta khởi tâm động niệm nên hành động còn nhiều thiếu sót. Vì sao nhiều người giảng mà chẳng có ai thành công, tại sao viết sách nhiều mà chẳng có ai viết hay? Cho nên, chúng ta học Phật là học không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, chấp trước, mọi việc từ tâm chân thành. Tâm chân thành phát sinh trí tuệ tự nhiên, tất nhiên được chư Phật gia trì. Sự gia trì này chính là hộ niệm, quan tâm của chư Phật.
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật. Đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức và đồng tâm. Chúng ta có hiểu được ý nghĩa này không? Ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta làm được bao nhiêu phần? Đây chính là điều chúng ta tu hành. Tại sao chúng ta tu tập không đạt hiệu quả? Vì sao không cải thiện được cuộc sống của chúng ta? Nguyên nhân là ở đây.
Chúng ta làm sai nên xét kỹ lại mình, tự kiểm điểm mình. Hôm nay chúng ta thuận theo phiền não, tùy thuận tập khí. Phiền não là tham, sân, si. Chúng ta tùy thuận những thứ này; mắt thấy sắc đẹp, tai nghe tiếng hay, liền khởi tâm tham đắm, khởi tâm kiêu mạn, việc gì không vừa ý thì nổi giận; những điều này đều là ngu si.
Vì thế, nhìn bề ngoài như là học Phật, nhưng trên thực tế đối với người, đối với sự việc, đối với sự vật thì luôn khởi tâm động niệm chẳng có chút thay đổi. Trong kinh Đức Phật đã giảng hai chữ “thọ trì”; chẳng những chúng ta không làm được mà không hiểu ý nghĩa hai chữ này, nếu có hiểu thì lại hiểu sai; cho rằng mỗi ngày chúng tôi tụng kinh một lần là thọ trì. Chúng ta biết sai ở đâu không?
Chúng ta muốn công phu được hiệu quả, chính là cải thiện cuộc sống của chúng ta, chẳng những cải thiện đời sống hiện tại mà còn cải thiện đời sau. Cuộc sống đời sau, ý nghĩa này thật là sâu rộng. Theo cách sống hiện tại của chúng ta đúng như trong kinh, luận Đại, Tiểu thừa Đức Phật dạy, sau khi chúng ta mất thân người, đời sau muốn được thân người, thật là khó. Vậy chúng ta sẽ đi về đâu? Phần đông đọa trong ba đường ác.
Làm sao chúng ta biết mình đọa vào ba đường ác? Chỉ cần nghe mọi người nói một câu thì biết rõ: “Chết rồi làm ma”. Mọi người đều cho rằng, sau khi chết rồi đều làm ma. Chúng tôi chưa nghe ai nói chết rồi làm người mà chỉ nghe sau khi chết rồi làm ma.
Đức Phật thường dạy chân lý: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Theo cách nghĩ của chúng ta người chết đều làm ma. Chúng ta có ý nghĩ, quan điểm như vậy thì nhất định làm ma rồi. Có bao nhiêu người nghĩ sau khi chết được làm Phật, Bồ-tát, làm người, hay sinh lên cõi trời; điều này rất ít nghe nói đến, chỉ có nghe người chết đều bị làm ma. Chúng ta không nên cho câu nói này là bình thường, chưa chắc gì đúng sự thật. Thật ra câu nói này là đúng, nó không bình thường.
Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh, kinh Hoa Nghiêm ghi: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đây cũng là những điều Đức Phật dạy, con người sau khi chết, được thân người lại rất khó; huống gì theo nguyên lý kinh Phật đã dạy. Chúng ta muốn đời sau được làm thân người thì nhất định phải đầy đủ điều kiện năm giới. Năm giới với năm thường của nhà Nho ở Trung Quốc nội dung giống nhau. Năm thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
1. Nhân: Chúng ta làm được không? Đối với người, đối với vật chúng ta có lòng nhân từ chưa?
2. Nghĩa: Đối với người, đối với sự vật, chúng ta có tận tâm làm tròn nghĩa vụ chưa? Mặc dù chúng ta có xã giao, nhưng không xem trọng nó mà cho là công việc bổn phận của ta. Chúng ta phải tận tâm tận lực làm tốt; đây là nghĩa đạo, nhưng không phải xem là phần thù lao. Thù lao nhiều thì chúng tôi làm nhiều một tí, thù lao ít thì chúng tôi làm ít một chút, hạng người này không có nghĩa.
3. Lễ: Giữa người với người phải có lễ phép qua lại.
4. Trí: Nói đơn giản là lý trí, chẳng phải theo tình cảm mà làm việc.
5. Tín: Chữ tín rất quan trọng là “không dối mình, không lừa người”. Tự lừa dối mình là tâm mê muội. Chúng ta thường nghe Tục Ngữ nói: “Người không có lương tâm”. Người không có lương tâm thì bàn đến chữ tín làm gì? Bên trong lương tâm mình mê muội; bên ngoài dùng nhiều thủ đoạn tinh vi lừa gạt người khác.
Phạm năm điều này thì chúng ta không làm được thân người. Chúng tôi tin tưởng các vị làm được năm điều này, chỉ cần tự mình suy nghĩ, không thẹn với lương tâm thì đời sau có thể được thân người. Chúng ta xem thử những người trong xã hội ngày nay, lại so với mình, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm mình, chính mình có làm được hay không? Tự mình đời sau có làm được thân người không? Nếu như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đều không làm được thì đời sau nhất định đọa trong ba đường ác.
Chúng tôi vừa nói, mọi người đều nói sau khi chết làm ma, luân hồi trong sáu đường chưa xác định là đường nào, nhưng nói đến đường ma thì phải có lý của nó. Điều kiện đường ngạ quỷ là từ tâm tham; tham danh tiếng, tham lợi dưỡng, tham sắc đẹp; đối tượng của tham rất nhiều, chỉ cần nặng tâm tham là nghiệp nhân đường ngạ quỷ.
Tâm nhiều sân hận, ganh tỵ là nghiệp nhân đường địa ngục. Không có trí tuệ, không phân biệt được thật-giả, chánh-tà, thiện-ác là nghiệp nhân súc sinh. Tham, sân, si là nghiệp nhân ba đường ác. Chúng ta tự xét mình có tham, sân, si không? Tham, sân, si, ý niệm này có quan trọng không? Nếu như ý niệm này rất quan trọng thì chúng ta luôn cảnh giác. Nếu không cảnh giác thì tương lai của chúng ta sẽ tăm tối, chúng ta phải nghĩ niệm Phật cầu sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, nhất định phải diệt tham, sân, si; siêng tu ba tư lương là tín, hạnh, nguyện, theo lời Phật dạy mà tu hành. Đời nay, chúng ta không để thời gian trôi qua uổng phí, nhân duyên một đời thuận lợi không gì sánh bằng. Chúng ta thật sự gặp được Phật pháp, lại gặp được pháp môn Tịnh độ rất thù thắng.
Duyên phận này không thể nghĩ bàn, trong bài kệ khai kinh ghi: “Trăm nghìn vạn kiếp khó gặp được”. Cư sĩ Bành Tế Thanh ở đầu nhà Thanh nói: “Từ vô lượng kiếp đến nay, hiếm có gặp được một ngày”. Chúng ta đã gặp được rồi, nhân duyên thiện căn, phước đức đầy đủ; nếu như tự mình không nắm bắt để nó uổng phí thì thật là đáng tiếc.
Hôm nay, chúng tôi tiếp tục nói đến một số chướng ngại về sự tu hành. Đức Phật đích thực là bậc Nhất Thiết Trí; giống như tín đồ tôn giáo ở thế gian ca tụng thần “việc gì cũng biết, cái gì cũng làm được”. Sau khi, Đức Phật nhập diệt đến nay khoảng hơn 2500 năm, vào thời kì mạt pháp, chúng sinh tu học dễ bị chướng ngại. Thuở xưa, khi Đức Phật giảng kinh, thuyết pháp từng nói việc này; nếu Ngài không phải là bậc Nhất Thiết Trí thật sự thì không nói được như thế.
Chương 3
Tu hành bị chướng ngại
Thời đại ngày nay, người tạo tội nghiệp có thể nói là rất phổ biến, họ xem việc này là việc làm bình thường, nên chẳng thấy lạ cũng không cần quan tâm và không biết quả báo là thật đáng sợ. Có bao nhiêu người học Phật, bất luận là tại gia hay xuất gia, giác ngộ thật sự? Thật sự quay đầu lại. Trong kinh Đức Phật cũng dạy rất hiếm có, thật ít thấy; nhưng không thể nói là không có, chỉ nói là rất ít. Chúng ta tự hỏi có phải một người trong số ít người này có thực hành không? Đây là điều chúng ta cần phải tỉnh ngộ, phải kiểm điểm, tự xét lại mình.
Khi Đức Phật còn tại thế có những vị Bồ-tát thị hiện rất ngu si, tạo nhiều tội nghiệp; cho dùmuốn tu hành nhưng gặp chướng ngại rất nhiều. Các ngài có thật như thế không? Chúng ta hình dung lúc đó chưa chắc là có thật. Bởi vì, khi Đức Phật xuất hiện ở đời, có rất nhiều Đức Phật quá khứ và các Bồ-tát đến giúp Ngài hoằng pháp lợi sinh, các ngài thị hiện làm chúng tỳ-kheo, chúng Bồ-tát của Đức Phật; thậm chí làm chúng hộ pháp của Phật. Bất kỳ các ngài biểu hiện thuận hạnh hay nghịch hạnh đều là cố ý giả vờ. Vì sao các ngài làm như thế? Vì các ngài muốn giáo hóa tất cả chúng sinh; đây thật là đại từ, đại bi.
Nếu như các ngài không thị hiện như thế mà giáo pháp lại rất nhiều thì Đức Phật không thể nào nói hết. Bởi vì, Đức Phật thuyết pháp theo căn cơ chúng sinh, các Bồ-tát thị hiện nhiều hình thức đều là thỉnh cầu pháp thay cho chúng sinh. Có vị hỏi pháp bằng ngôn ngữ; có vị cố ý tạo những hạnh ác để Đức Phật nhìn thấy mà khai đạo, chỉ dạy; đây là dùng thân nghiệp để thỉnh pháp. Ngoài thỉnh pháp bằng khẩu nghiệp, thân nghiệp ra, còn có thể thỉnh bằng ý nghiệp. Chúng ta xem trong kinh Đại thừa, Đức Phật biết tâm của các vị đệ tử khởi tâm động niệm nhưng không nói ra. Như trong kinh Vô Lượng Thọ ghi một đoạn về thái tử A Xà Thế. Khi thái tử có ý nghĩ thỉnh cầu, nhưng chưa nói ra thì Đức Phật liền nói nhân duyên đời quá khứ của thái tử. Do đó, chúng ta biết ba nghiệp thân, khẩu, ý đều có thể thỉnh pháp.
Vì thế, khi chúng ta hiểu rõ mật hạnh của các vị tỳ-kheo, Bồ-tát ghi lại trong kinh điển, chúng ta không nên xem thường mà phải biết các ngài vì lòng đại từ, đại bi thay chúng ta thỉnh pháp. Các ngài biểu lộ bằng tâm ác, khẩu ác, hạnh ác là để làm bài học dạy chúng ta ngày nay. Nếu không có các ngài thỉnh cầu thì Đức Phật không chỉ dạy, làm sao chúng ta biết mình phạm lầm lỗi? Làm sao biết mình phạm tội nặng?
Chúng tôi nêusơ lược một ví dụ trong kinh, việc này chúng tôi thường giảng để nghiên cứu học tập, nhưng đại chúng vẫn xem thường, có những người vì thoả mãn lòng sân hận mà đến mắng người, phỉ báng người, hủy nhục người, nhưng họ không biết mình tạo quả báo, tội nghiệp này thật đáng sợ.
Trong kinh điển Đức Phật có kể một câu chuyện về người xuất gia, mà người xuất gia khi Đức Phật còn tại thế, chẳng phải thời mạt pháp. Người xuất gia này tự cho mình nghe nhiều hiểu rộng, thường dự trong hội của Đức Phật nghe Ngài giảng kinh, thuyết pháp. Vì nghe nhiều, nên ỷ mình là người hiểu rộng rồi sinh tâm kiêu mạn, theo người ngày nay nói là “đáng được tự hào”. Khi Phật còn tại thế, mọi người tu hành rất tốt, trì giới thanh tịnh, nghe kinh cũng rất nhiều, đáng được kiêu ngạo lắm chứ, nhưng kiêu ngạo là phiền não, bạn thấy họ không phát sinh trí tuệ mà sinh phiền não; điều này sai rồi.
Còn có một số người tu hành, tuy không có tâm kiêu mạn, họ tu khổ hạnh, ít muốn biết đủ, điều này rất khó làm được; giống như những người ở núi, ở am tranh, tu định, thân tâm so với người bình thường thật sự thanh tịnh, nhưng họ chấp tướng mà có chấp tướng là sai rồi. Kinh Kim Cang ghi rất hay: “Nếu Bồ-tát còn thấy có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng và thọ giả tướng thì chẳng phải Bồ-tát”. Đức Phật không thừa nhận người này là Bồ-tát. Chúng ta nghĩ thử, Phật ở đời còn như vậy, huống gì thời mạt pháp đã cách hơn 2500 năm.
Khi Đức Phật còn tại thế, có thể nói một đời Ngài chỉ giảng kinh, thuyết pháp suốt 49 năm. Lúc đó, khoa học kỹ thuật chưa phát minh, Ngài thuyết pháp ở một chỗ, chúng sinh ở xa không có cơ hội đến nghe, cơ duyên nghe pháp rất khó gặp được. Do vậy, Ngài sai các vị đệ tử xuất gia và tại gia có khả năng giảng kinh, thuyết pháp để thay Ngài hoằng pháp lợi sinh. Những người được Đức Phật cử đi là những vị ở trong hội của Đức Phật đã tốt nghiệp tu học. Họ có khả năng giảng kinh thì việc tu hành cũng đạt rất tốt, nên được Ngài sai đi các nơi truyền bá giáo pháp.
Trí tuệ và phước đức của Đức Phật viên mãn, tất nhiên Ngài được tất cả đại chúng cung kính. Đệ tử của Ngài không được như vậy, nhưng những vị được cử đi, đa số đều được thính chúng cung kính, làm theo lời họ dạy; nhưng cũng có một số người bị thính chúng không bằng lòng, xem thường và hủy báng họ.
Chúng ta biết phiền não và tập khí của chúng sinh trong sáu đường rất nặng. Phiền não gồm có: tham, sân, si, mạn, tật đố. Những phiền não này không cần học mà luôn sinh khởi. Khi họ nhìn thấy người khác hơn hẳn mình thì không khâm phục mà còn tìm cách để phá hoại. Ngày nay, vào thời kỳ mạt pháp, những chuyện này so với trước kia rất nhiều; bất cứ lúc nào, nơi nào, chúng ta đều có thể nhìn thấy.
Hoằng pháp là việc tốt, nhưng người làm việc tốt thì thường gặp nhiều gian nan, trắc trở. Đức Phật kể, lúc ấy có hai vị tỳ-kheo thuyết pháp là đệ tử của Ngài, họ được cử đi nơi xa để hoằng pháp lợi sinh. Hai vị này có đức hạnh, biện tài khéo léo, tất nhiên sẽ được tín chúng cung kính, tiếp đón; cho nên hai vị pháp sư này pháp duyên rất thù thắng, tín chúng rất đông, đương nhiên nhận sự cúng dường cũng rất nhiều. Có một vị pháp sư khác đến sau nhìn thấy như thế nên rất khó chịu, tâm ganh tỵ nổi lên, tìm cách gây chướng ngại họ. Do đó, vị này phao tin đồn nhảm là hai vị pháp sư này phá bốn giới trọng (sát, đạo, dâm, vọng) chỉ có nói mà không thực hành.
Hai vị pháp sư bị mọi người gây chia rẽ, có người phao tin đồn nhảm, có người phỉ báng, có người ly gián. Những điều này làm cho tín chúng nghi ngờ họ, mất đi niềm tin. Do vậy, pháp duyên dần dần giảm ít, thính chúng đều bỏ đi. Vị pháp sư ganh tỵ thuyết pháp cho mọi người, mục đích của ông ta đã đạt được, nên giảng pháp rất thành công. Nhưng Đức Phật dạy, vì ông ta tạo ác nghiệp, gây chướng ngại cho người khác, nên quả báo của ông ta sẽ chịu sáu trăm vạn năm ở địa ngục A-tỳ, sáu trăm vạn năm là thời gian ở nhân gian chúng ta. Người Trung Quốc được gọi là văn minh thuở xưa trên thế giới, vì lịch sử Trung Quốc có 5000 năm, các vị nghĩ thử, 5000 năm vẫn chưa đủ một vạn năm, nhưng ông ta chịu tội ở địa ngục A-tỳ thời hạn là sáu trăm vạn năm.
Sau sáu trăm vạn năm, ông ta thoát khỏi địa ngục A-tỳ, nhưng tội vẫn chưa hết, tội nặng này trả xong, vẫn còn tội khác. Vì thế, khi ông ta bị chuyển đến địa ngục Đẳng Hoạt, thời gian là bốn trăm vạn năm, lại sinh vào địa ngục Mặc Thằng, thời gian là hai trăm vạn năm; sau đó, lại chuyển đến địa ngục Thiêu Nhiệt nhẹ hơn thì cũng đủ sáu trăm vạn năm. Thời gian ở bốn địa ngục này, tổng cộng là một nghìn tám trăm vạn năm; đây là lời Đức Phật dạy. Trong kinh Kim Cang Phật dạy: “Như Lai là nói chân thật, nói sự thật, nói đúng, không nói dối, không nói sai khác”. Đức Phật tuyệt đối không nói sai một câu.
Chúng ta nghĩ thử, tạo tội nghiệp rất dễ dàng. Vì sao có tội nặng như thế? Điều này chúng tôi thường nói, nhưng chúng ta nghĩ chưa thông, giống như người phạm tội quá nặng. Thật ra, các vị chỉ cần đọc kỹ giới kinh thì hiểu rõ. Việc kết tội trong Phật pháp, không có người kết tội người khác, không giống ở thế gian có luật pháp, có quan tòa xử kêu án. Trong Phật pháp không có, chư Phật, Bồ-tát không xét xử, không làm quan tòa; trong Phật pháp cũng không giống luật pháp ở thế gian, phải trừng phạt tội nhân như thế nào, các ngài chỉ có từ bi.
Vì sao có những tội nghiệp như thế? Tội này gọi là “tính tội”. Thực ra là mình làm mình chịu. Địa ngục ở đâu? Địa ngục là tội báo chính chúng ta biến hiện ra, chẳng phải có người đi đào địa ngục để chúng ta chịu tội. Phật, Bồ-tát không làm việc này; chư thiên, quỷ thần, vua Diêm La cũng không làm việc này.
Trước đây, lão cư sĩ Chu Cảnh Trụ từng kể qua câu chuyện, sau đó cư sĩ viết lại thành sách; giống như kinh Bát Đại Nhân Giác giảng ký. Nhạc phụ của cư sĩ là tiên sinh Chương Thái Viên là bậc thầy quốc học ở năm Dân Quốc đầu tiên. Cư sĩ kể: Khi nhạc phụ của cư sĩ còn sống kể lại giấc mơ, ông từng làm quan xét xử ở Đông Nhạc. Đại Đế Đông Nhạc là Đại Quỷ vương, quyền lực của ông ta chỉ sau Diêm La vương. Quan xét xử tương đương tổng thư ký ngày nay, địa vị rất cao. Tiên sinh Chương Thái Viên là người học Phật, nghe nói trong đó có hình phạt pháo lạc- pháo lạc là trụ đồng bốc cháy, bảo tội nhân đến ôm lấy. Tiên sinh nói hình phạt này quá tàn khốc, nên kiến nghị với Đại Đế Đông Nhạc có thể phế bỏ hình phạt này. Đại Đế Đông Nhạc chẳng nói gì, chỉ mỉm cười liền sai hai con quỷ dắt tiên sinh đến pháp trường để chính mắt nhìn thấy. Hai con quỷ dắt tiên sinh đi rất xa, chỉ một nơi ở phía trước, nhưng tiên sinh lại không nhìn thấy. Khi ấy, tiên sinh chợt tỉnh giấc, ông suy nghĩ hình phạt này chẳng phải con người tạo ra mà trong tự tính của họ biến hiện.Điều này cùng với kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện hoàn toàn tương ứng.
Trong kinh giảng địa ngục chỉ có hai hạng người thấy được:
1. Người gây tội nghiệp đi chịu hình phạt là biến hiện.
2. Bồ-tát vào địa ngục cứu độ chúng sinh.
Nếu không phải hai hạng người này thì địa ngục ở trước mắt bạn cũng không thấy được; cho nên Chương Thái Viên không thấy được. Chúng ta hiểu vấn đề này chẳng phải độc ác, nhân từ; quả báo là tội tính biến hiện ra.
Như một người thường ngày làm việc ác, ban đêm anh ta hoàn toàn nằm thấy ác mộng. Ai gây ra cho anh ta? Là tự tính của anh ta biến hiện ra, hoàn toàn không phải người khác tạo cơn ác mộng để cho anh ta chịu, lỗi lầm đó là tự mình biến hiện ra.
Tội từ nơi đâu, rốt cuộc nặng như thế nào? Đức Phật dạy chúng ta tội nghiệp họ đã tạo. Đối tượng chẳng phải là hai vị pháp sư thuyết pháp mà do bạn phỉ báng hai vị này. Nói thật chẳng phải tội rất nặng. Tội xác định từ nơi đâu? Là từ tất cả tín chúng ở địa phương,họ phỉ báng là vì bạn, không còn tin tưởng Phật pháp, không muốn nghe Phật pháp, lại không muốnnương theo Phật pháp tu hành. Bạn đoạn mất thiện căn, pháp thân tuệ mạng của chúng sinh ở nơi ấy thì tội bắt đầu từ đây, tội này rất nặng.
Trong kinh Đức Phậtthường dạy giết sinh mạng người là tội nhẹ. Chúng ta giết người đó, sau bốn mươi chín ngày, người ấy đi đầu thai, người bị giết rất dễ được làm thân người; bởi vì, người bị giết không có tội, chỉ có người giết chết người khác mới có tội. Đời nay, chúng ta được làm thân người là nhờ có phước khác, mặc dù chúng ta bị người giết, nhưng sau bốn mươi chín ngày đi đầu thai vẫn được làm người, đời sau vẫn tiếp tục hưởng phước; cho nên, giết sinh mạng người là tội nhẹ, đoạn tuệ mạng của người là tội nặng.
Phật pháp không dễ gì nghe được, cơ duyên này thật rất khó. Trong kinh dạy: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Nghe Phật pháp so với làm thân người càng khó hơn, đây là sự thật. Một người suốt đời được nghe Phật pháp, nếu giác ngộ rồi thì đời này người ấy làm việc Phật, thành Phật rồi. Bạn thử nghĩ xem, công đức người đó được chư Phật ca ngợi vô cùng. Hôm nay, bạn đoạn mất nhân duyên của họ, tội của bạn có nặng không? Tội này tính ra từ đây.
Vì thế, Đức Phật dạy người tạo tội nghiệp này phải đọa địa ngục một nghìn tám trăm vạn năm; ra khỏi địa ngục này vẫn có quả báo khác. Sau khi thoát khỏi địa ngục mới được làm thân người. Đức Phật dạy người này trong năm trăm đời sinh ra bị mù bẩm sinh; sau năm trăm đời thì tội này ngày càng giảm nhẹ, nhưng vẫn thường sinh ở vùng biên địa, nói theo Phật pháp, biên địa chính là vùng văn hóa lạc hậu. Người ngu si không thể tiếp nhận sự giáo dục tốt đẹp, bần cùng thấp kém, thường bị người khác phỉ báng, trêu chọc, lại còn bị ức hiếp; đây là nghiệp báo trong đời quá khứ đã tạo.
Người này đời trước cũng từng xuất gia, cũng là người tu hành; vì nhân ganh tỵ gây chướng ngại mà tạo tội nặng như thế. Cho nên, có lúc họ cũng có ý niệm giác ngộ muốn tu hành; nhưng niệm này chỉ khởi tạm thời, vì do nghiệp chướng nặng nề, nên ý nghĩ thoáng qua rất nhanh. Như thế, chúng ta mới biết tu được rất là khó.
Chúng ta phải khẳng định, trong đời quá khứ tự chúng ta đã từng tạo tội, không phải Đức Phật dạy cho người khác mà chính mình. Hôm nay, chúng ta được thân người, nghe Phật pháp phải biết từng có thời gian dài đã chịu những tội báo. Đức Phật dạy những điều này, hôm nay có bao nhiêu người tiếp nhận? Có bao nhiêu người tin theo?
Chúng ta đọc kinh Phật, nghe các thầy giảng pháp, giống như nghe câu chuyện thần thoại, những câu chuyện thần thoại Phật dạy dường như chẳng có liên quan đến mình. Ở đây, chúng ta hiểu được lời Phật dạy là chỉ cho mình. Khi Đức Phật dạy tương lai nghiệp chướng sẽ được tiêu trừ, được sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, được gặp Phật A-di-đà, sẽ được Ngài thọ ký cho chúng ta. Lời này có đúng không? Rất đúng! Vì sao? Vì chúng ta từng nghe qua một câu danh hiệu Phật A-di-đà, từng xem qua tượng đúc, tượng vẽ của Ngài, nên trong A lại da thức đã có chủng tử Phật A-di-đà; đây chính là: “Khi tai nghe rõ ràng, mãi là hạt giống đạo”. Đạo lý là ở đây.
Chương 4
Tiêu trừ chướng ngại
Ngay đời này, nếu chúng ta không tinh tấn tu học thì không thể nào tiêu trừ hết chướng ngại và cũng không được vãng sanh; cho dù, chúng ta không tạo tội nặng nhưng cũng không được vãng sanh. Nếu như chúng ta tiếp tục gây tội nặng, hủy báng Phật, Pháp, Tăng thì tội càng nặng, phải đọa vào địa ngục, đầu thai làm súc sinh, làm kẻ ngu si, trải qua vô lượng kiếp thật là khổ sở.
Vì thế, chúng ta phải sám hối chí thành tha thiết. Trong phần căn bản sám hối, chính là cần thay đổi quan niệm của chúng ta, sửa từ trong tâm, từ trong cuộc sống hằng ngày đối với người, đối với việc làm; trước tiên chúng ta phải sửa đổi từ trên sự tướng thì mới có hiệu quả. Đức Phật đã nêu cho chúng ta bao nhiêu là ví dụ; bởi vì, sự việc phức tạp nói không hết, chúng ta phải có khả năng nghe một biết mười. Khi nghe Đức Phật giảng một ví dụ thì liên tưởng đến nhiều sự việc giống nhau, những điều đó cần phải sửa đổi.
1.Không tìm lỗi của người khác
Trước tiên, từ nay về sau đối với thiện tri thức hoằng pháp, bất luận người đó là tại gia hay xuất gia, khi chúng ta nhìn thấy họ phạm lỗi; hoặc nghe họ phạm tội, dứt khoát không nói. Chúng ta phải thật sự làm được “thấy mà không thấy, nghe mà không nghe”.
Chúng ta là phàm phu, cảnh giới họ là gì, làm sao chúng ta biết được? Nếu như họ là phàm phu, họ tạo tội nghiệp thì chính họ chịu quả báo, còn như chúng ta đi đến chỗ nào cũng rêu rao, cũng phân biệt, chấp trước thì tự chúng ta phải chịu quả báo, việc này thật sự không nên làm. Nhưng tuyệt đối chúng ta không gây chướng ngại họ hoằng pháp lợi sinh và cũng không gây chướng ngại cơ duyên thính chúng nghe pháp ở vùng nào đó.
Chúng ta không nên tìm khuyết điểm của người khác, chỉ cần khởi ý nghĩ là không tốt, huống gì thể hiện bằng hành động? Chúng ta có tâm xấu thì con đường tu hành gặp chướng ngại rất nhiều. Như vậy, tu hành là sửa điều gì? Điều này chúng ta không thể không biết.
Chúng ta tu theo Giác, Chánh, Tịnh. Giác là không mê, Chánh là không tà, Tịnh là không nhiễm. Tông Tịnh Độ nằm trong ba điều này, đặc biệt chú trọng tâm thanh tịnh; tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Nếu chúng ta thường đi tìm lỗi lầm của người khác thì tâm của chúng ta làm sao thanh tịnh? Muốn tâm mình thanh tịnh, việc gì của người khác đều không nên xen vào thì tâm của chúng ta mới được thanh tịnh, mình luôn tìm lỗi của người khác thì nhất định không bao giờ có tâm thanh tịnh. Người này hoàn toàn không đạt định, không có định thì không có trí tuệ, không có định tuệ, chắc chắn người này bị vô minh phiền não che lấp. Một người suốt ngày phát sinh vô minh, phiền não thì làm sao không tạo tội nghiệp? Điều này chúng ta nhất định phải ghi nhớ.
2. Không được khen mình, chê người
Hôm qua, chúng tôi đã nói, cho dù các vị tu hành đúng pháp, công phu đạt hiệu quả, đạt đến thọ dụng Phật pháp thật sự, nhưng cũng không được khen mình chê người, bệnh này thường xảy ra. Mọi người thường ca ngợi pháp môn của mình, nói tự mình tu rất thành công, người khác không làm được; điều này là không nên, cũng là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Bạn tự cho mình tu hành thành tựu. Vậy so với Bồ-tát, A-la-hán thì sao? Khác xa, điều này phải tính thế nào? Tuyệt đối không được khen mình rồi phỉ báng người khác, tình trạng này đã có từ xưa, ngày nay lại rất nhiều. Mọi người không biết tội nghiệp này rất nặng.
Chúng ta niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ Tây phương Cực Lạc; thấy người tu thiền giống như gặp oan gia đối đầu; thấy người tu học Mật tông cũng như vậy. Như thế có được không? Thiền là Đức Phật dạy, Mật cũng do Ngài nói ra. Nếu chúng ta hủy báng họ, chẳng phải hủy báng Đức Phật, hủy báng giáo pháp hay sao? Nương theo Thiền, Mật có rất nhiều người tu hành thành tựu; hiện nay tuy ít, nhưng trước kia rất đông. Như vậy chẳng phải hủy báng Tăng hay sao?
Vì thế, vô tình chúng ta thường phạm tội lỗi này, khen mình chê người, phỉ báng Tam bảo thì bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Việc ngu dốt này, từ nay về sau chúng ta không nên tái phạm nữa. Vậy chúng ta phải thể hiện thái độ như thế nào? Khi nhìn thấy người khác tham thiền, trì chú; chúng ta cung kính vui mừng ca ngợi họ, không được phỉ báng.
Năm 1977, chúng tôi ở Hồng Kông giảng kinh Lăng Nghiêm. Pháp sư Thánh Nhất đến thăm chúng tôi và nghe giảng kinh. Nghe xong ba ngày, pháp sư rất vui mừng, khuyến khích các Phật tử đến nghe chúng tôi giảng; họ đều tu thiền. Một hôm, pháp sư mời chúng tôi đến chùa tham quan, chúng tôi hoan hỉ đồng ý. Pháp sư ở phía sau chùa Bảo Liên, núi Đại Hưng có một con đường nhỏ, xe không chạy được, người đi bộ khoảng ba, bốn mươi phút mới đến chùa.
Pháp sư nói với chúng tôi lý do không mở đường là để dạy người không thích hợp tu thiền; nếu bạn không tham học thật sự thì không cần đến chùa; cho nên không mở đường; dụng ý này rất hay. Khi chúng tôi đến nơi vừa xem qua thì vô cùng khâm phục, cả đời chúng tôi chưa hề thấy qua đạo tràng nào trang nghiêm thanh tịnh như thế. Ở đây có khoảng hơn bốn mươi vị Tăng chúng thường trụ, mỗi ngày theo thời gian cắm cây hươngmà họ tham thiền.
Pháp sư mời chúng tôi vào thiền đường giảng pháp, chúng tôi không thể giảng tham Thiền không thành tựu, niệm Phật mới đạt hiệu quả. Như thế chẳng phải phá hoại đạo tràng của người ta? Điều này, tuyệt đối không thể làm. May mà trước đây, chúng tôi từng giảng qua các kinh Kim Cang, Lục Tổ Đàn kinh, Vĩnh Gia Thiền Tập Chứng Đạo Ca. Nói về Thiền tông từ đông sang tây, chúng tôi đã giảng qua một vài lần; cho nên nói về Thiền cũng rất tốt. Chúng tôi tán thán khâm phục, ca ngợi đạo tràng của họ, khen pháp sư và đại chúng tu học, đây là điều thích hợp.
Sau khi tiễn chúng tôi ra về, trên đường đi. Có vị hỏi:
- Thưa pháp sư! Ngài đối với Thiền ca ngợi như thế. Vì sao pháp sư niệm Phật A-di-đà?
Chúng tôi đáp, bởi vì căn tánh của tôi không nhạy bén, tham Thiền không bằng ngườikhác. Nói cách khác tôi không thể khai ngộ, ngay cả Thiền định tôi cũng chưa nắm bắt vững. Niệm Phật là nương theo Phật A-di-đà vãng sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc, tôi chỉ nắm bắt điểm này.
Chúng tôi nói những điều này là sự thật; cho nên, đạo Phật thường nói: “Nếu muốn Phật pháp hưng thịnh, chỉ có Tăng ca ngợi Tăng”. Hai bên đều ca ngợi nhau, Phật pháp mới được hưng thịnh thì mới có thể phát huy xán lạn. Nếu mỗi người đều phỉ báng nhau thì không được rồi; mọi người sẽ kéo nhau xuống địa ngục A-tỳ. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này, căn tánh của tất cả chúng sinh khác nhau; cho nên Đức Phật mới giảng vô lượng pháp môn.
Pháp môn là ứng cơ thuyết pháp, chúng ta thích hợp pháp môn nào thì theo tu học pháp môn đó mới có thể thành tựu. Bởi vì “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Tại sao lại phỉ báng nhau? Chẳng những tất cả pháp môn trong đạo Phật không được phỉ báng mà tôn giáo ở thế gian cũng không được phỉ báng. Các nước ở phương Tây có hai nghìn năm duy trì trật tự xã hội, đó là tín ngưỡng tôn giáo, làm cho con người chỉ nghĩ đến Thượng Đế. Nói tóm lại, đây chính là pháp thiện thế gian. Vì sao bạn có thể phá hoại nó? Vì sao bạn nói không có thần và không có Thượng Đế?
Nếu mọi người mất đi niềm tin tôn giáo, tùy thuận phiền não thì không điều ác nào mà không làm. Như thế có được không? Cho nên đối với pháp thiện thế gian cũng phải ca ngợi. Đức Phật dạy chúng ta ngay trong sáu niệm, ngoài niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng còn phải niệm thiên; thiên này chính là đại biểu tôn giáo. Đây chính là quan niệm đạo đức cơ bản, thường nghĩ tới hạnh phúc của chúng sinh và nghĩ đến sự hòa thuận, an lạc của họ, tất cả pháp thiện thế gian và xuất thế gian chúng ta đều phải tôn kính, ca ngợi.
Chúng ta sinh ra lớn lên vào thời đại này có rất nhiều đau khổ. Chúng ta phải công nhận thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, vật chất văn minh tiến bộ. Đời sống vật chất so với trước đây tiến bộ rất nhiều, chúng ta được hưởng thụ những thứ này, nhưng các vị định tâm suy nghĩ lại, chúng ta có trả giá quá đắt không? Suy đi tính kỹ là lợi bất cập hại, chúng ta được rất ít, mất đi lại rất nhiều. Món nợ này bao nhiêu người tính trả? Càng tính trả thì càng ít.
Chúng ta tổn thất những thứ gì? Tổn thất luân lý, đạo đức, giữa người với người đánh mất sự thành thật, chân tình. Bất kể khoa học kỹ thuật ngày nay phát minh như thế nào, nhưng con người luôn hứng chịu tai họa thiên tai thì cũng không có cách gì bù đắp nổi, cho nên nói lợi bất cập hại.
Nếu người tu hành ở thời đại này được thành công thì chư Phật, Bồ-tát đều khen ngợi, khâm phục; còn tu hành thất bại bị đọa vào địa ngục A-tỳ thì các ngài vẫn gật đầu. Vì sao? Vì bên trong bạn bị phiền não, bên ngoài bị vật chất cám dỗ lôi cuốn. Bạn có bao nhiêu định lực để đứng vững? Bạn có bao nhiêu trí tuệ để nhìn chân tướng sự thật rõ ràng? Như thế mới biết là không đơn giản, không giống như trước đây. Nếp sống xã hội trước đây rất tốt, lòng người lương thiện, ai nấy đều tôn trọng lễ phép, tuân theo luật pháp, không dám làm càn bậy, mọi người tin theo lời dạy của Thánh hiền, cho nên tu học rất thuận lợi.
Chúng ta khó tin mà tin được, khó tu mà chịu tu mới là người kiệt xuất, được chư Phật, Bồ-tát cùng Thánh hiền ca ngợi. Ngày nay chúng ta có được một phần như vậy không?
Ở thời đại này, Đức Phật dạy chúng ta chỉ có một câu hãy nhớ kỹ vì nghĩa lý rất thâm diệu. Ngài dạy: “Sống với chúng sinh, không tìm lỗi người”. Chúng ta không nên đi nhìn lỗi của người khác, không nên rêu rao tội lỗi của họ. Câu này có hai ý nghĩa rất sâu rộng.
1. Chúng ta có thể thành tựu định tuệ, thành tựu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chính là trí tuệ. Tâm khởi tham, sân, si, mạn là ô nhiễm. Tâm ô nhiễm sinh khởi chính là phiền não, là tạo nghiệp. Chúng ta không để ý lỗi người thế gian; họ tạo tội nghiệp ta cũng không nghe, không hỏi thì tâm ta dễ dàng thanh tịnh.
2. Chúng ta tìm khuyết điểm của người khác và nói lỗi của họ; vậy họ có cam chịu, bằng lòng không? Họ có đồng ý thật không? Nếu như họ không cam tâm, không bằng lòng thì chúng ta với họ sẽ kết mối oán thù, đã kết oán thù thì nhất định sẽ báo thù. Chúng ta có che giấu tài tình khéo léo, người khác không biết chúng ta hãm hại; tuy họ không biết ai hãm hại, nhưng họ ôm mối hận thù; sau khi chết họ làm ma, ma có năm thần thông, nó sẽ bắt người nào đời trước hãm hại nó. Sau khi tìm được báo thù lẫn nhau, không bao giờ dứt; đời này chúng ta hại người ta; đời sau, họ hại lại chúng ta, đời sau nữa chúng ta hại họ, mãi mãi không dứt. Con đường chúng ta học đạo Bồ-đề sinh ra nhiều chướng nạn, chính là từ nơi đây.
Do đó, chúng ta phải giải quyết vấn đề này, nhất định phải ra tay triệt để, căn bản là “không thấy lỗi thế gian, không nói chuyện đúng sai của người khác”. Cho dù xưa kia chúng ta tạo tội nghiệp, nhưng ngày nay chúng ta đoạn hết duyên này. Sau khi đoạn hết duyên, tuy có nhân nhưng không có duyên, nó sẽ không có kết quả. Chúng ta niệm Phật vãng sanh làm cho chướng ngại giảm bớt.
Chương 5
Pháp thanh tịnh giải thoát
1. Xa lánh nơi ồn náo
Đức Phật dạy chúng ta tránh bớt những chốn ồn náo, nếu bạn thích sống nơi này thì hãy nghĩ xem tâm bạn làm sao định được? Tất cả những điều Phật ngăn cấm không cho chúng ta làm, đều là chướng ngại định tuệ. Cho nên, Đức Phật dạy người tu hành cần phải ở nơi vắng vẻ, môi trường càng yên tĩnh thì càng tốt; đó mới thật là “thêm một việc không bằng giảm một việc, giảm một việc không bằng vô sự”. Vô sự là tương ưng với đạo. Đạo chính là định, tuệ.
2. Ít muốn biết đủ
Trong cuộc sống thường ngày, Đức Phật dạy chúng ta phải biết đủ. Người biết đủ thì thường an vui, hãy bỏ đi ý nghĩ ham muốn, mong cầu; bởi vì, ham muốn, mong cầu là căn bản luân hồi trong sáu đường. Ý nghĩ này chúng ta không bỏ được thì nó càng tăng trưởng rất khó thoát khỏi luân hồi trong sáu đường. Cho nên, thân tâm chúng ta phải thanh tịnh, hoàn cảnh cũng phải thanh tịnh; đây mới là trợ duyên rất tốt.
Chúng ta dùng phương pháp nào để đoạn trừ vọng tưởng? Điều này rất quan trọng, vọng tưởng là nguồn gốc luân hồi trong sáu đường là căn bản trong ba đường ác. Tông Tịnh độ dạy phương pháp niệm Phật để hàng phục tâm vọng tưởng. Vọng tưởng sinh khởi trong tâm chúng ta tự nhiên nó đến, muốn ngăn lại cũng không được, nó cứ tuôn ra như dòng thác chảy. Đức Phật dạy điều này là tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay. Vậy chúng ta phải làm thế nào? Phải nghĩ Phật, nghĩ kinh, học kinh thuộc lòng, thường suy nghĩ đạo lý trong kinh đã dạy, phải nghĩ như thế mới tốt; hoặc nghĩ trong kinh Đức Phật dạy thế giới Tây phương Cực Lạc y, chánh trang nghiêm, như thế cũng tốt.
Trong kinh Đại thừa thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Chúng ta thường nghĩ tưởng về thế giới Cực Lạc, cảnh giới này sẽ biến thành thế giới Tây phương Cực Lạc; thường nghĩ về Phật A-di-đà, thân hình chánh báo này sẽ biến thành Phật A-di-đà. Điều này rất có lý, không nên nghĩ sai, nghĩ sai thì hỏng rồi. Thấy sai, nghĩ sai thì quả báo thật không lường được.
3. Lánh xa danh lợi
Đức Phật dạy thời kỳ mạt pháp, hay nói cách khác là thời đại ngày nay của chúng ta, có một số Bồ-tát không có trí tuệ, những Bồ-tát này bao gồm Bồ-tát xuất gia và tại gia. Hiện nay, chúng ta thông thường thọ giới Bồ-tát rồi đều gọi là Bồ-tát hữu danh vô thực, lại đi lập đạo tràng. Trong đạo tràng náo nhiệt, ngày ngày làm Phật sự, gọi là “hoằng pháp lợi sinh”.
Chúng ta ở Đài Loan cũng thường nghe nói “khai phật điếm”, nghĩa là lập đạo tràng, đem nó làm doanh nghiệp để kinh doanh, đây gọi là khai phật điếm. Những người này Đức Phật bảo là “Bồ-tát ngu si”, Bồ-tát không có trí tuệ. Họ làm sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, mục đích là gì? Mục đích là kiếm tiền có lợi; hoặc là tín đồ cúng dường. Họ dùng nhiều cách, miễn tiền ngày càng nhiều thì vui mừng hớn hở; nếu không có tiền thì buồn rầu. Người có tâm như vậy mà làm Phật sự trong Phật giáo, thậm chí thuyết pháp cho người đều là sai lầm, đều tạo tội nghiệp.
Huống gì lại còn dùng nhiều thủ đoạn lôi kéo tất cả họ hàng, bạn bè, tín đồ để thuộc về mình, điều này chưa kể. Lại còn bảo chúng xuất gia và chúng tại gia phải cung kính, cúng dường ta, đối với ta phải tin tuyệt đối. Đức Phật bảo những Bồ-tát ngu si này vì tài lợi mà thuyết pháp cho mọi người. Nếu không có tài lợi thì sinh tâm mỏi mệt, đối với những nơi không có lợi dưỡng hay cúng dường ít thì họ không chịu đến, vì cảm thấy nơi đây chẳng có hương vị đạo.
Người luôn mong cầu cúng dường, muốn người khác hầu hạ, muốn mọi người tôn trọng; giống như người làm những việc kỳ lạ. Xưa nay mọi người thường nói: “Hòa thượng không làm việc lạ, cư sĩ không đến lạy”. Thực sự, họ chẳng làm lợi ích cho chúng sinh cũng không giúp chúng sinh thoát sinh tử ra khỏi ba cõi, và cũng không thể giúp cho chúng sinh thay đổi hoàn cảnh cuộc sống hiện tại; đây là Bồ-tát ngu si, không có trí tuệ, gây tạo tội nghiệp mà Đức Phật đã dạy. Quả báo sẽ đọa trong ba đường ác.
4. Thuyết pháp tâm không mong cầu
Nguyên nhân Đức Phật dạy cho chúng ta hiểu rõ trong kinh, hễ người nào có tâm mong cầu, cho dù thuyết pháp cho chúng sinh, nhưng pháp đó không thanh tịnh, pháp này giảng đúng sự thật cũng không đúng pháp, đã nói “không đúng pháp” là sai kinh điển, là họ giảng sai, không phải ý của Đức Phật. Câu nói “con nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai”, họ là “hiểu sai nghĩa chân thật của Như Lai”. Tội nghiệp này rất nặng.
5. Thuyết pháp không có tâm tham ô
Tuyệt đối Đức Phậtkhông nói người có tâm tham ô mà giáo hóa chúng sinh được thành tựu, tự mình không độ mình được, làm sao độ người khác? Đức Phật dạy tham là chỉ cho tham, sân, si. Ô là chỉ ô nhiễm. Hôm nay, chúng ta bị tâm lý ô nhiễm, tinh thần ô nhiễm, tư tưởng và kiến giải ô nhiễm. Bản thân ô nhiễm nghiêm trọng như thế, làm sao giúp đỡ người khác?
6. Không ham sự tôn trọng, cúng dường có lợi cho bản thân
Đức Phật không nói tôn trọng, cúng dường; ham muốn hưởng thụ ngũ dục, lục trần; chẳng những trong kinh Tiểu thừa không có mà trong kinh Đại thừa cũng không. Huống gì, chúng ta dùng nhiều thủ đoạn và dối trá để đạt được lợi dưỡng; điều này dứt khoát Đức Phật không cho phép. Chúng ta không nên làm những việc này. Chẳng những không làm mà trong ý nghĩ cũng không khởi tham điều bất chánh. Vì sao? Vì chúng ta có ý nghĩ tham thì chắc chắn không được vãng sanh; cho dù, một ngày chúng ta đọc một trăm bộ kinh, niệm một trăm vạn lần danh hiệu Phật, cũng là vô ích. Người xưa dạy: “Niệm khan cổ họng cũng uổng công”. Chúng ta cho rằng mình được vãng sanh chăng?
7. Lấy việc tụng kinh niệm Phật để hàng phục vọng niệm
Tụng kinh, niệm Phật là phươngpháp, mục đích làm cho tâm thanh tịnh. Chúng ta thực hành phương pháp này để trừ bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm cho tâm niệm trong sạch, tâm tịnh thì cõi tịnh; như thế mới được vãng sanh. Chúng ta không nên sinh khởi ý nghĩ sai lầm, cho rằng niệm danh hiệu Phật nhiều mới được vãng sanh, nếu vừa niệm Phật, vừa khởi tâm tham, sân, si, vừa tính toán như thế nào để lo cho người khác. Như thế có vãng sanh được không?
Cho nên chúng ta phải biết dùng phương pháp này để trừ bỏ niệm phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; giữ tâm thanh tịnh, tâm từ bi thì mới được vãng sanh. Vì thế, khi chúng ta khởi tâm động niệm, nói năng, hành động phải đối chiếu có đúng như trong kinh dạy không? Tại sao Phật, Bồ-tát dạy chúng ta thực hành khóa tụng sớm, tối? Ý nghĩa này chúng tôi đã nói với các vị rất nhiều lần, khóa tụng sớm tối là trị bệnh, là tu cho mình. Khi Phật còn tại thế cho đến khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc, đại chúng cùng ở một chỗ, cùng tu là để nghe kinh, nghiên cứu thảo luận; giống như lên lớp học. Tu hành là theo tu cá nhân của mỗi người, không ở một chỗ cùng tu, chỉ có đến nghe kinh, nghiên cứu thảo luận mới ở một chỗ.
Người khởi xướng cùng tu ở một chỗ, vị đầu tiên của tông Tịnh độ là đại sư Huệ Viễn. Đại sư ở núi Lô Sơn kiến lập niệm Phật đường, cùng các vị đồng đạo chung chí hướng tìm đến hợp lại một trăm hai mươi ba vị cùng tu. Nhưng các tông phái khác chúng tôi chưa nghe nói qua. Mỗi giáo phái đều phổ biến riêng, đề xướng việc cùng tu là từ giữa đời Đường trở về sau. Sự thật là hai vị đại sư Bách Trượng và Mã Tổ đề xướng xây dựng tự viện. Xây dựng tự viện là để cùng nhau tu họ; cho nên, quy luật trong tự viện là đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Mọi người sống chung cùng nhau tu hành thì có lợi ích gì? Đó là dựa vào đại chúng, tự mình có lúc lười biếng, nhờ ở chung với mọi người, sách tấn bạn tinh tiến tu hành. Mọi người cùng nhắc nhở nhau, cùng khuyến khích lẫn nhau thì không có ai dám lười biếng.
Cho nên, quy luật của tự viện đối chúng sinh thời mạt pháp có cái lợi, ở một người rất dễ lười biếng, thoái lui; nhưng mọi người cùng sống chung là tu hành thật sự. Do đó, mới có khóa tụng sớm tối, nội dung khóa tụng là thấy bệnh gì có hại cho chúng ta và dùng thuốc gì để chữa trị. Thời khóa tụng lúc xưa, hiện nay không thích hợp, cũng chính là nói nó có thể trị bệnh người thời đó, nhưng bệnh người ngày nay đã không trị được. Vậy phải làm thế nào? Phải kiểm tra mình mắc bệnh gì, cần dùng thuốc gì để đối trị.
Ngày nay,chúng ta tu Tịnh độ nương theo kinh A-di-đà rất tốt, rất ngắn và rất thâm diệu. Có lẽ các vị sẽ nói kinh A-di-đà rất dễ hiểu, không có gì sâu sắc thì nên đọc chú giải của đại sư Ngẫu Ích, hay xem chú giải của đại sư Liên Trì, chúng ta sẽ giật mình kinh ngạc mới hiểu là rấtthâm diệu, sâu sắc hơn kinh Vô Lượng Thọ. Cho nên hôm nay chúng tôi chọn khóa tụng kinh Vô Lượng Thọ, học thuộc lòng kinh, là để chúng ta thường nhớ đến trong kinh Đức Phật dạy chúng ta làm thế nào, chúng ta có làm được không?
Khoá tụng sáng tối là để phản tỉnh, hôm nay chúng ta làm được việc tốt thì tự khuyến khích mình, ngày mai phải làm tốt hơn; nếu chưa làm được việc tốt phải nghĩ cách làm cho được, tu hành đúng theo lời Phật dạy; đó là khóa tụng sáng tối. Chúng ta thực hành đúng mới có công đức thật sự. Không phải sáng sớm chúng ta tụng một biến cho Phật, Bồ-tát nghe; tối đến lại tụng một biến cho các ngài nghe mà hành vi sinh hoạt hàng ngày chẳng mảy may liên quan đến kinh dạy, tội nghiệp này rất nặng, đều đọa vào địa ngục A-tỳ. Khi chúng ta gặp vua Diêm La còn hỏi:
- Mỗi ngày thảo dân đều tụng đủ thời khóa sáng tối, vì sao bệ hạ còn bắt thảo dân xuống địa ngục A-tỳ?
Vua Diêm La nói:
- Nhà ngươi sáng sớm dối Phật, Bồ-tát một lần; tối đến lại dối gạt lần nữa, lừa dối cả một đời; ngươi không đọa địa ngục thì ai đọa địa ngục?
Chúng ta phải biết, nếu không hiểu ý nghĩa khóa tụng sáng tối thì đó là nghiệp nhân địa ngục A-tỳ. Chúng ta lừa dối Phật, Bồ-tát, các ngài không còn ở đời, chỉ là hình tượng xi măng, gỗ chạm mà chúng ta nhẫn tâm dối các ngài, tâm của chúng ta thật tàn nhẫn.
Thời gian trôi qua rất nhanh, chúng tôi giảng hôm nay là ngày cuối cùng; lần sau sẽ tổ chức pháp hội Phật thất ở đây. Chúng tôi hân hạnh mong các vị đến tham gia. Ba ngày qua chúng ta cùng nhau thảo luận việc tu học làm cho tình đồng đạo càng thân thiết hơn.
Chương 6
Chánh pháp tương ứng tuyệt đối và lợi ích thật sự
Trước tiên, chúng ta phải công nhận con người sống trong thời đại này tu hành rất khó khăn, cũng chính là những điều mà Đức Phật đã nói trong pháp hội Lăng Nghiêm có ma chướng rất nhiều. Những điều chúng ta thấy, nghe trái với tâm thanh tịnh đều thuộc về ma chướng; cho nên, trong kinh Đức Phật dạy rất hay. Khi Ngài giảng kinh thuyết pháp ở đời, cũng có một số nguyên tắc, những nguyên tắc này đương nhiên là chỉ dạy Bồ-tát, chúng tôi hy vọng kẻ hậu học đều tuân theo.
Đức Phật dạy tất cả pháp tương ứng tuyệt đối và lợi ích cho mọi người, cũng chính là nói Phật trợ giúp cuộc sống hiện tại của chúng ta được có lợi. Nếu như nói đời này được có lợi mà đời sau lại không có lợi thì kẻ hậu sinh cũng không được lợi. Vậy, Đức Phật nói lợi ích này không thật. Lợi ích thật sự là đời nay được có lợi, đời sau, đời sau nữa, nhiều đời đều được có lợi; như thế gọi là “lợi ích thật sự”. Đức Phật và Bồ-tát tuyệt đối không nói sai lời.
Ý nghĩa câunói này rất thâm diệu; bởi vì, ngoài Đức Phật ra, còn ở xã hội hiện đại này, giống như kinh Lăng Nghiêm đã dạy: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Tà sư đã giảng tất nhiên không đúng chánh pháp. Vì sao có rất nhiều người tin theo họ? Có rất nhiều người ủng hộ họ? Trong đó đương nhiên có đạo lý.
Nếu như trên đây nói có lợi ích, có lẽ những tà sư này có thể giúp bạn được lợi ích đời này; nhưng tuyệt đối không thể bảo đảm cho bạn được lợi ích đến đời sau. Chúng ta hãy bình tĩnh quán sát kỹ, rất dễ hiểu. Hiện tại có thể làm cho bạn được danh tiếng, lợi dưỡng là bạn chạy theo phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi, bạn cũng rất hài lòng, vì bạn muốn tham thì được tham.
Chúng tôi nói thật, nếu như vận mạng của chúng ta không có những thứ quý giá này và không có những danh lợi thì những tà sư có giúp đỡ chúng ta được không? Nói cho các vị biết, nhất định không được. Nếu như họ giúp được chúng ta thì năng lực của họ vượt trên nhân quả, họ có thể đảo lộn định luật nhân quả. Chư Phật đều không làm được thì làm sao họ làm được?
Do đó có thể biết, cho dù họ có dùng nhiều cách, dường như họ giúp chúng ta được, nhưng kỳ thật trong vận mạng của chúng ta vốn đã có, đúng như chân tướng sự thật “vừa cho vừa lấy, đều có định sẵn trước”. Những sự thật này, mọi người định tĩnh suy nghĩ một chút thì có thể nhìn thấy được. Những tín đồ, tín chúng họ có được, không phải người nào cũng được danh lợi mà sự thật rất ít người đạt được. Có những người được, có những người không được; như thế chưa chắc là thật. Người đạt được là nhờ cơ duyên, nghiệp nhân của họ thành thục, quả báo hiện tại làm việc mới được như thế. Do đây, có thể biết chẳng phải năng lực của họ. Họ có năng lực biết quả báo của chúng ta khi nào sẽ hiện rõ. Họ có chút thần thông biết vận may của chúng ta khi nào đến, biết chúng ta khi nào sẽ được thăng quan, khi nào sẽ được phát tài, dựa vào nhân duyên của chúng ta mà họ đến gia trì, phù hộ. Chúng ta làm theo họ, đời sau nhất định đọa vào trong ba đường. Cho nên những người này chẳng có lợi ích và không tương ứng với lợi ích thật sự.
Đức Phật dạy chúng ta muốn cầu giàu sang ở thế gian, không phải cầu không được. Đạo Phật thường nói : “Phật ở trong nhà, có cầu ắt ứng”. Câu nói này là thật, chúng ta phải cầu pháp nào? Nhất định phải đúng lý đúng pháp, nó có lý luận và phương pháp chính đáng.
Nói theo lý là tâm chí thành, tâm thanh tịnh, tâm đại từ bi. Nói theo sự là Đức Phật dạy chúng ta bố thí. Chúng ta đem của cải bố thí là trồng nhân, được giàu sang là quả báo. Vì thế chúng ta muốn được giàu sang, nhất định phải tu, đem của cải bố thí. Chúng ta muốn được thông minh trí tuệ thì phải hiểu pháp bố thí. Chúng ta mong muốn mạnh khỏe sống lâu, thì phải biết tu bố thí vô úy.
Đức Phật dạy chúng ta tu nhân thế nào thì được quả như thế đó. Như thế là tương ứng, chẳng những tương ứng với lợi ích mà pháp cũng tương ứng; đúng lý, đúng pháp, không cầu thì không được. Nếu như chúng ta đã cầu mà không được toại nguyện. Đây là nguyên nhân gì? Đó là do mình có nghiệp chướng gây trở ngại, cho nên cầu mà không được như nguyện.
Lúc này, chúng ta phải làm thế nào? Phải tìm ra nghiệp chướng, làm tiêu trừ nghiệp chướng, có cầu ắt có ứng. Tất cả các kinh, Đức Phật đưa ra những lý luận này là sự thật và phương pháp mong cầu cũng nói rất nhiều. Nếu các vị đọc kinh Vô Lượng Thọ thì sẽ thấy rất đầy đủ. Sau khi đọc thuộc, chúng ta có cơ hội sống chung với các bạn đồng tu cùng nghiên cứu thảo luận nghĩa lý trong kinh thế nào thì đem ứng dụng trong cuộc sống thế ấy. Cuộc sống thường ngày của chúng ta phải làm thế nào để vận dụng những nguyên lý, nguyên tắc này thì mới là thật sự tu hành.
Cho nên phải tương ứng lợi ích với pháp và tương ứng với phương pháp lý luận, điều quan trọng nhất phải đoạn trừ phiền não. Những pháp ma nói tuyệt đối không có thật. Ma không dạy chúng ta đoạn trừ phiền não, ma khuyến khích chúng ta nổi tham, sân, si, mạn. Phật, Bồ-tát dạy chúng ta xa lìa phiền não, đoạn sạch phiền não. Xa lìa phiền não là công phu tu hành của chúng ta được hiệu quả; đoạn sạch phiền não thì mới có thể chứng quả, cũng chính là nói chúng ta đạt đến viên mãn, được tự tại.
Ở thời kỳ mạt pháp, tức là thời đại ngày nay, chư Phật, Bồ-tát thị hiện ở đời, cũng chính là nói các ngài tái sinh. Con người có tái sinh không? Không phải không có, nhưng không nhất định là một thân phận, có lúc thân phận pháp sư xuất gia, có khi thân phận trưởng giả, cư sĩ tại gia. Chắc chắn là khuyên bạn niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ. Vì sao? Vì đây là lợi ích cứu cánh viên mãn.
Nếu như đời này không được vãng sanh, bất luận chúng ta tu pháp môn nào, cũng không có cách nào thoát khỏi sáu đường luân hồi; cũng chính là nói chúng ta không có năng lực đoạn Kiến hoặc và Tư hoặc phiền não. Chúng ta không thoát được luân hồi, tuyệt đối là thời gian dài ở trong ba đường ác, thời gian ngắn trong ba đường thiện; điều này chúng ta không thể không cảnh giác.
Đức Phật dạy đệ tử bằng thân giáo, là bài thuyết pháp sống động hùng hồn cho tất cả đại chúng, chúng ta giữ vững nguyên tắc này. Khi Đức Phật còn tại thế, những người tu học căn cơ không giống nhau; có người căn tính nhạy bén, có người căn tính chậm hiểu; cho nên Đức Phật thuyết pháp có nhiều pháp môn giúp họ tu học thành tựu; đây chính là lý do để lại đời sau rất nhiều kinh điển.
Trong kinh Đại Tập, Đức Phật khai thị cho người đời sau. Thời kỳ chánh pháp giới luật thành tựu. Chánh pháp là sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng một nghìn năm. Thời kỳ tượng pháp Thiền định thành tựu. Phật giáo truyền đến Trung Quốc chính là thời kỳ tượng pháp; cho nên, thiền định thành tựu ở Trung Quốc thực sự vẻ vang xán lạn. Phật pháp ở thời kỳ mạt pháp Tịnh độ thành tựu. Hiện nay, bất luận là sự ghi chép từ lịch sử Trung Quốc; hoặc là phương pháp tính toán của người nước ngoài. Sau khi Đức Phật nhập diệt hai nghìn năm là thời kỳ mạt pháp. Thời kỳ mạt pháp tu Tịnh độ dễ thành tựu, đây là lời Đức Phật dạy. Cho nên tất cả chư Phật, Bồ-tát vì nguyện lực tái sinh ở thế gian đều nhất định khuyên mọi người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ.
Chương 7
Bốn loại biện tài là điều chư Phật ngăn cấm
Trong kinh Lăng Nghiêm ghi: “Ngày nay tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Chúng ta phân biệt tà chánh từ nơi đâu? Đức Phật dạy có bốn nguyên tắc phản diện chính là ma thuyết.
1. Không tương ứng với lợi ích.
Đây là ma nói. Hay nói cách khác những pháp học này thực sự không có lợi ích; không có lợi ích thì có tổn hại. Tổn hại những điều gì? Chúng tôi không cần nói, các vị nghĩ thử thì sẽ thấy được.
2. Tương ứng với phi pháp.
Trái với pháp Đức Phật dạy, trái ngược lại điều Phật giảng.
3. Nhất định tương ứng với phiền não.
Chúng ta tu học pháp môn khác, chẳng những phiền não không thể tiêu trừ mà ngày càng tăng trưởng. Tăng trưởng tham, sân, si, ganh tị; tăng trưởng tạo tội nghiệp.
4. Tương ứng với sinh tử.
Cũng chính là nói ma không chủ trương thoát khỏi luân hồi. Họ dạy mọi người sau khi chết, sẽ nhanh chóng tái sinh làm người. Sau khi chết, chúng ta muốn làm người, có được thân người không? Không được. Đức Phật dạy là sự thật. Phật nói ví dụ, con người sau khi chết, đời sau làm được lại thân người, như đất trong móng tay; không được làm thân người, như đất trên mặt đất. Cho nên, con người khi mất thân này, đời sau làm lại được thân người, thật là hiếm có; không phải ai cũng có thể làm được.
Vậy mọi người phải làm thế nào? Trong kinh Đức Phật giảng rất nhiều. Đời này giữ năm giới, mười điều thiện là rất tốt. Năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Mười điều thiện: thân ba, khẩu bốn, ý ba. Ở đây chúng tôi không cần nói tỉ mỉ, các vị tự nhớ lại. Trọn đời này, chúng ta có thể thực hành năm giới và mười điều thiện được tám mươi phần trăm thì đời sau chắn chắc không mất thân người. Nếu như không có phần trăm nào thì đời sau không có hi vọng.
Vì vậy, ma thuyết pháp tương ứng với sinh tử, sáu đường luân hồi, không dạy chúng ta ra khỏi sáu đường. Chúng ta đối xử với tất cả chúng sinh, bạn bè thân thuộc, người quen biết cũng nên thuyết pháp cho họ, khuyên họ đoạn ác tu thiện, khuyên họ niệm Phật vãng sanh là tương ứng bốn nguyên tắc của Đức Phật. Nếu chúng ta nói đúng chánh pháp mà không tương ứng bốn điều này là tà pháp. Điều này chúng ta phải ghi nhớ kĩ.
Chương 8
Thuận hạnh và nghịch hạnh
Chúng ta thường đọc trong kinh Đại thừa, các Bồ-tát thị hiện ở thế gian có nhiều hạnh không giống nhau. Có vị thị hiện tùy thuận hạnh pháp tính thì chẳng có vấn đề gì để nói vì chúng ta không nghi ngờ và rất tôn trọng, làm theo lời các ngài dạy. Nhưng cũng có vị thị hiện tùy thuận nghịch hạnh làm cho chúng ta khó mà phân biệt được. Điều này chúng ta không thể không lưu ý.
Bồ-tát thị hiện nghịch hạnh như phá giới, cố ý thị hiện làm những việc tội ác. Bồ-tát thị hiện nhất định có nhân duyên đặc biệt để độ một số đối tượng đặc biệt, không phải người bình thường dễ dàng tùy tiện thị hiện được; nếu như chúng ta muốn biết rõ việc này thì cần phải có trí tuệ.
Sự thị hiện này từ xưa đến nay, chúng ta thường nghe thấy rất nhiều; nếu có cơ duyên cũng có thể thấy được. Về điều này, Đức Phật dạy rất đặc biệt, ngài nêu ra thí dụ, như chúng ta đọc năm mươi ba vị Bồ-tát trong kinh Hoa Nghiêm thì thấy có những vị thuận theo phiền não. Những Bồ-tát này, Đức Phật gọi là Bồ-tát hạnh, chẳng phải Bồ-tát sơ học. Bồ-tát sơ học không có năng lực như thế; bởi vì, Bồ-tát sơ học chưa đoạn hết tập khí tham, sân, si, mạn. Nếu như chúng ta tạo các ác nghiệp thì nhất định đọa trong ba đường.
Bồ-tát hạnh là người như thế nào? Trong kinh Kim Cang giảng Bồ-tát phá bốn tướng là ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng. Và bốn kiến là ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến và thọ giả kiến; các ngài hoàn toàn đoạn hết. Đây là người như thế nào? Trong kinh Đại thừa thường nói là pháp thân Đại sĩ, không giống người bình thường. Bồ-tát thị hiện các loại ác hạnh, nhưng trong tâm các ngài không có, vì độ chúng sinh nên các ngài khai mở phương tiện, chẳng chút vướng bận. Tâm các ngài thanh tịnh, chân thật không mảy may dính chút bụi trần; các ngài có năng lực như vậy.
Phần đông người Trung Quốc đều biết xưa kia có trưởng lão Tế Công. Chúng ta thấy ngài hành trì như người không giữ giới luật, cũng không giữ thanh quy chốn thiền môn; đặc biệt lại thích ăn thịt chó. Sự thật trưởng lão Tế Công không giống nhân vật viết trong tiểu thuyết. Vậy ngài có làm những việc như thế không? Có. Trong Cao Tăng Truyện có ghi chép sự thực. Ngài ăn thịt chó, uống rượu. Truyện Tế Công trong Cao Tăng truyện rất dài, so với truyện ký Pháp Sư khác có dài hơn, hình như có bốn, năm quyển, đó là sự thật, không phải tiểu thuyết; ghi chép lại sự thật cuộc sống của ngài. Ngài là A la hán ứng hóa đến, chẳng phải người phàm.
Đối tượng ngài độ là những người bình thường, nhưng họ không biết. Hằng ngày, chúng ta theo khuôn phép trì giới, tụng kinh, niệm Phật để giữ mình. Còn ngài thành tựu vô lượng công đức, tâm ngài thanh tịnh chẳng bị phiền não trói buộc, ngài có năng lực siêu phàm như vậy. Người như ngài, chúng ta học không được chỉ khâm phục, cung kính, ca ngợi. Nếu như chúng ta học theo ngài sẽ bị đọa vào ba đường, ngài không chịu trách nhiệm.
Thời cận đại, năm đầu Dân Quốc cũng xuất hiện một vị giống như trưởng lão Tế Công, đó là pháp sư Diệu Thiện ở chùa Kim Sơn, Trấn Giang, Giang Tô. Mọi người gọi là“Kim Sơn Phật sống”. Hành động của pháp sư giống như ngài Tế Công đời Tống, sự thị hiện này là nghịch hạnh. Chúng ta thấy ngài từ sáng đến tối chẳng có khóa tụng nào, chẳng đọc kinh, cũng không tụng giới; suốt ngày, ngài chơi đùa với nam, nữ cư sĩ, cùng ăn uống với họ.
Nhưng ngài dạy mọi người rất khâm phục, họ tôn xưng ngài là Phật sống và rất cung kính. Ngài mặc y phục mỏng manh, xuân, hạ, thu, đông đều chỉ mặc một bộ đồ; mùa đông không thấy lạnh; mùa hè không cũng thấy nóng, thật kì lạ. Y phục của ngài cũng không giặt, cả đời chưa hề tắm giặt một lần, nhưng thân thể ngài vẫn không hôi, trên thân ngài lại tỏa ra mùi thơm; đây không phải là người bình thường. Chúng ta học không được, đó là sự thật.
Xã hội ngày nay, có rất nhiều người mạo nhận mình là thánh nhân. Họ cũng không bị trói buộc, nhưng bạn nhìn kỹ mùa đông họ có mặc áo lạnh không? Nếu như mùa đông họ mặc y phục mỏng manh thì nhất định là thánh nhân thật; còn nếu mùa đông họ mặc áo lạnh, e rằng không phải thánh nhân thật. Mùa hè họ có mặc áo lạnh được không? Ăn uống có còn phân biệt không? Không phân biệt ngon, dở, tất cả đều ăn. Nếu như họ không có đủ những điều này thì họ mạo xưng rồi. Những người như vậy, chúng ta phải nhìn kỹ, phải cẩn thận thì học Phật không bị họ lừa gạt.
Hình thức lừa gạt người rất nhiều, họ dùng lời nói để gạt người, viết thành sách cũng gạt được người; cho nên chúng ta phải cẩn thận. Thời đại ngày nay, ngôn luận tự do, xuất bản tự do, chẳng có hạn chế, không giống như trước đây. Chúng ta thấy thời đại trước đời Thanh, chúng ta viết sách muốn xuất bản, trong Phật giáo phải qua xét duyệt của quốc gia, không phải chúng ta tùy tiện lưu hành. Bậc cao tăng, đại đức thời đó xét duyệt không có vấn đề gì, mới dâng lên vua phê chuẩn; sau đó mới được in lưu hành, không giống như ngày nay tự do in ấn.
Tự do có cái lợi của nó, nhưng bất lợi thì nhiều hơn, tà tri, tà kiến tràn ngập xã hội; nếu người không có trí tuệ hiểu rộng thì dễ bị họ mê hoặc; đây là khuyết điểm tự do dân chủ. Ngày xưa, thời đại phong kiến, nhà vua thật sự bảo vệ nhân dân tâm thanh tịnh, bảo vệ bạn không bị ô nhiễm. Vua có trách nhiệm và sứ mệnh với nhân dân.
Thời xưa ở Trung Quốc, tất cả quan nắm chính quyền, cũng chính là thủ trưởng hành chính nói theo thông thường ngày nay. Thị trưởng huyện ở địa phương, họ cũng tuân thủ ba điều răn “làm vua, làm cha mẹ và làm thầy”. Đây chính là trách nhiệm và sứ mệnh của người làm quan.
Làm vua là lãnh đạo nhân dân, còn người làm thị trưởng huyện thì phải lãnh đạo dân chúng ở huyện mình.
Làm cha mẹ là người làm quan phải đem tâm của bậc làm cha mẹ mà quan tâm dân chúng, nên gọi là “cha mẹ của nhân dân”. Quan như cha mẹ, chúng ta phải phụ giúp họ, làm cho cuộc sống của họ được tốt hơn.
Làm thầy là chúng ta phải hướng dẫn, giáo dục mọi người. Cho nên ba điều răn (ba sứ mệnh) của quan cầm quyền là vua, cha mẹ và thầy.
Ngày nay thời đại dân chủ không đề cập đến ba điều này. Thời đại dân chủ quan cầm quyền là đầy tớ của nhân dân. Chúng ta là người chủ, họ là người đầy tớ. Bạn muốn họ làm thế nào thì họ làm thế ấy. Bạn nghĩ thử xem, quan cầm quyền phải làm cha mẹ của chúng ta tốt hơn? Hay quan cầm quyền làm đầy tớ tốt hơn? Cha mẹ quan tâm chúng ta tỉ mỉ chu đáo. Người giúp việc trong nhà bạn, chưa chắc bạn tin cậy. Cho nên có nhiều người hỏi chúng tôi: “Pháp sư! Thầy tán thành thời đại dân chủ, hay chế độ phong kiến?”. Chúng tôi nói tán thành chế độ phong kiến, không tán thành thời đại dân chủ. Chúng tôi biết cái hay, ưu điểm của chế độ phong kiến hơn dân chủ nhiều và điều xấu xa cũng ít hơn dân chủ. Nếu như các vị đọc kỹ lịch sử thì hiểu rõ, không còn cho rằng làm vua là được tự tư. Chúng tôi nói thật, tự tư là cái hay của nhà vua; ở đâu vua cũng chú ý, chỗ nào vua cũng quan tâm cẩn thận lo cho dân được lợi ích; nếu như lơ là thì nhân dân sẽ nổi lên lật đổ nhà vua. Vì thế, vua phải nghĩ cách làm cho nhân dân ủng hộ. Một ông vua tốt thật sự lo cho đất nước, phục vụ nhân dân thì nhân dân mới ủng hộ, nhà vua mới có thể truyền ngôi nhiều đời, hay mười mấy đời, hoặc mấy trăm năm; cho nên chế độ phong kiến không phải không có cái hay. Ngày nay nhiệm kỳ tổng thống là bốn năm, chúng tôi cảm thấy không có trách nhiệm bằng vua.
Nói về Bồ-tát sơ học. Đức Phật dạy chúng ta đều là Bồ-tát sơ học. Việc quan trọng thứ nhất là chúng ta phải biết tai họa danh lợi, tuyệt đối không được đắm nhiễm. Nhưng danh lợi rất dễ mê hoặc người, có bao nhiêu người xả bỏ nó được? Nếu như chúng ta không thể quay đầu lại mà muốn đời này thành tựu thì rất khó.
Đức Phật dạy mọi người ít muốn biết đủ, người ít ham muốn thì dễ thấy đủ. Khi Đức Phật còn tại thế, mỗi ngày Ngài chỉ dùng vào bữa trưa. Chúng ta ngày ăn ba bữa no nê, mặc y phục ấm áp, có nhà ở để che mưa gió, đời sống vật chất đầy đủ, ít lo lắng, chuyên tâm tu đạo. Nếu như ham muốn lợi dưỡng nhiều thì nhất định tăng trưởng tâm tham, sân, si, mạn, nghi; tăng trưởng phiền não là mất chánh niệm.
Đức Phật dạy tất cả thiện pháp, chẳng những chúng ta không làm được, thậm chí những ý nghĩa này chúng ta cũng không hiểu. Ngài dạy ruộng phước thù thắng, chúng ta không thể không hiểu. Ruộng phước thù thắng chính là tam học- giới, định, tuệ. Sáu độ là bố thí, trì giới v.v…là mười đại nguyện vương của bồ-tát Phổ Hiền. Mặc dù chúng ta nói được, nhưng trên thực tế chúng ta xem thường lời Phật dạy, không muốn làm, tự mình khởi tâm động niệm, làm việc gì đều tương ứng với ma. Như thế làm sao thành tựu được? Cho nên Phật dạy Bồ-tát sơ học, nhất định phải xa lìa danh lợi.
Giảng đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến đại sư Liên Trì. Đại sư là một trong bốn Đại sư ở cuối đời Minh, chấn hưng Phật pháp rất mạnh mẽ. Người đời sau, mỗi khi nhắc đến đại sư Liên Trì không ai mà không tôn kính, ngưỡng mộ. Chính Đại sư kể lại: Đại sư tu học còn rất trẻ, rất ngưỡng mộ một vị cao tăng lúc đó, là Lão hòa thượng Biến Dung. Đại sư cung kính chí thành, đi ba bước lạy một lạy, lạy đến trước mặt hòa thượng, chí thành như thế mới thỉnh cầu được Lão hòa thượng chỉ dạy. Ngài dạy Đại sư chỉ một câu: “Ông hãy nhớ kỹ đừng bị danh lợi làm hại”. Hòa thượng dạy xong thì bảo Đại sư đi. Thính chúng ở bên cạnh thấy như vậy đều cười, cho rằng Đại sư từ xa đi ba bước lạy một lạy đến đây, nhất định Lão hòa thượng khai thị diệu pháp; nhưng khi đến chỉ nói một câu.
Đại sư Liên Trì chí thành, cung kính tiếp nhận lời dạy. Đại sư nói với mọi người: “Lão hòa thượng xứng đáng được mọi người tôn kính”. Đây là lời nói thật, không phải lời nói nịnh hót, lừa gạt kẻ hậu học. Từ đó, Đại sư tuân theo suốt đời. Đại sư thành tựu hiệu quả là nhờ câu nói cảnh tỉnh của Lão hòa thượng, cả đời tránh xa danh lợi.
Lão hòa thượng Biến Dung nói phù hợp với Đức Phật chỉ dạy người sơ học. Những điều này, trên đây chúng tôi đã nói qua: “Tương ứng với lợi ích, tương ứng với pháp và đoạn trừ phiền não”. Người như thế là thật sự thiện tri thức.
Một người ít muốn biết đủ, ưu điểm của người đó rất nhiều, lầm lỗi rất ít. Chúng ta biết chẳng những là người thế gian mà ngay trong đạo Phật, người xuất gia phạm lầm lỗi rất nhiều. Từ đâu sinh ra? Từ tham dục sinh ra.
Chương 9
Ba cương lĩnh pháp môn tu hành
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy cho chúng ta ba cương lĩnh pháp môn tu hành:
1. Khéo giữ khẩu nghiệp, không chê lỗi người khác.
Ở đây bao hàm ý nghĩa ba nghiệp là thân, khẩu, ý sâu sắc vô cùng. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật đặt khẩu nghiệp đầu tiên. Bởi vì, tất cả chúng sinh rất dễ tạo tội từ khẩu nghiệp; cho nên, chúng ta phải hiểu rõ tầm quan trọng của khẩu nghiệp. Phần trên chúng tôi đã kể câu chuyện cho các vị nghe rồi, một pháp sư khác bịa đặt gây chuyện, phá hoại hai vị pháp sư giảng kinh, ly gián hai vị này và thính chúng nên ông ta bị đọa địa ngục A-tỳ một nghìn tám trăm vạn năm mới thoát khỏi địa ngục. Sinh làm người bị mù bẩm sinh suốt năm trăm đời, vẫn còn không biết bao nhiêu đời phải chịu cảnh bần cùng, thấp kém; sau đó mới được thân người bình thường. Qua câu chuyện này, chúng ta mới biết tạo khẩu nghiệp thật đáng sợ.
2. Khéo giữ thân nghiệp, không phạm luật nghi.
3. Khéo giữ ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm.
Ba câu nói này là cương lĩnh chung của pháp môn tu hành, chúng ta phải nhớ kỹ trong tâm. Tất cả kinh, luận đều nói rất kỹ ba điều cương lĩnh này dạy chúng ta trong cuộc sống thường ngày, trong công việc, trong giao tiếp phải làm thế nào để thực hành ba cương lĩnh này.
Trào lưu tư tưởng con người hiện đại là đi tìm cái mới, tìm sự sáng tạo cho nhanh chóng; đây là trào lưu thời hiện đại. Tư tưởng này trong Phật pháp có không? Trong Phật pháp Đại thừa có, nhưng thích hợp thì không dễ dàng. Nếu như Bồ-tát sơ học cũng có quan niệm này, muốn tìm cái mới, muốn tìm đổi khác, muốn tìm sự nhanh chóng thì rất dễ đi trên con đường sai lầm mà tự mình không biết. Vậy người nào mới có thể làm được? Trong kinh Đức Phật dạy là Bồ-tát hạnh, pháp thân Đại sĩ làm được, vì tâm các ngài thanh tịnh, trí tuệ thông suốt.
Tâm chúng ta không thanh tịnh, trí tuệ mờ mịt, sống trong phiền não mà theo quan niệm tìm cái mới, tìm sự sáng tạo tu hành cho nhanh chóng chắn chắn là có hại. Vì thế, Bồ-tát sơ học tốt nhất là đi theo con đường các vị đại đức xưa kia đã đi. Chúng ta phải biết rõ, Phật giáo truyền đến Trung Quốc hai nghìn năm; trước hai nghìn năm đã lưu hành ở Ấn Độ một nghìn năm. Trong ba nghìn năm, bất cứ người nào đi theo đường cũ, thực sự vâng theo lời Phật dạy, không ai mà không thành tựu. Những người chạy theo những điều mới lạ lừa bịp, chúng tôi thấy chẳng có người nào thành công. Điều này thật sự để chúng ta nghĩ kỹ phản tỉnh.
Phật pháp và thế gian pháp không giống nhau, lý luận và phương pháp cũng khác nhau. Rốt cuộc đời này chúng ta có muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi không? Đây là điểm then chốt chúng ta tự tu hành, thật sự muốn thoát sinh tử, ra khỏi sáu đường luân hồi, chúng ta phải xem trọng lời Phật dạy, muốn cầu giải thoát, muốn thực hành, phải thực sự nỗ lực làm bằng được thì đời này chúng ta mới có hi vọng thành tựu.
Điều nào Đức Phật dạy chúng ta làm thì phải làm nghiêm túc; điều nào Phật cấm chúng ta không nên làm thì tuyệt đối không làm; đó mới là đệ tử của Phật, là đệ tử ngoan của Ngài. Nếu chúng ta làm đệ tử Phật mà làm vì danh tiếng thì cũng là hữu danh vô thực.
Chương 10
Thực hành pháp môn quantrọng
Người đệ tử Phật, trong cuộc sống hằng ngày có ba việc cần phải làm, mỗi ngày đều không thể thiếu.
1. Đọc tụng
Đọc kinh, đúng theo bản kinh gọi là đọc. Chúng ta đọc phải thuộc lòng, không cần cầm bổn mà vẫn thuộc lòng; thuộc lòng gọi là tụng.
Mục đích đọc tụng để làm gì? Là không quên lời Đức Phật dạy, luôn luôn nhớ đến lời Phật dạy dành cho mình, cũng chính là nói những điều nào nên làm, những điều nào không nên làm.
2. Tu hành
Tu hành là chúng ta khởi ý nghĩ chạy theo vọng tưởng, ý nghĩ này Đức Phật không cho phép, nhưng luôn sinh khởi cả đời; chúng ta hãy mau sửa đổi nó. Tu là sửa đổi. Hành là hành vi. Tư tưởng, kiến giải, lời nói, hành động của chúng ta luôn bị sai lầm. Từ lỗi lầm này, chúng ta lấy lời Phật dạy làm tiêu chuẩn, sửa đổi lỗi lầm gọi là tu hành. Cho nên tu hành là thường xuyên tỉnh giác khi khởi tâm động niệm, lời nói, hành động phải biết sự sai lầm của mình.
Đạo Phật thường nói “khai ngộ”. Có rất nhiều người cho khai ngộ là điều rất sâu xa, kỳ diệu, không thể nghĩ bàn; kỳ thật đều là lừa dối mọi người. Thế nào gọi là khai ngộ? Chúng ta tự biết lỗi lầm của mình, biết khuyết điểm của mình, là chúng ta giác ngộ; đó là khai ngộ. Chúng ta không biết khuyết điểm của mình, là bị mê hoặc, điên đảo. Khi chúng ta biết sửa đổi khuyết điểm, lầm lỗi của mình; đó gọi là “tu chân thật”. Đây mới là tu hành.
Cung kính người thiện, ưa thích việc tốt là người tốt; đây gọi là người có đức. Tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, đại từ đại bi; gọi là người đắc đạo, đều ở trong cuộc sống thường ngày. Có gì huyền diệu? Có gì mà kỳ lạ? Cho nên chúng ta phải cẩn thận phản tỉnh, kiểm điểm, sửa đổi hành vi, mỗi ngày phải làm, luôn luôn nên làm.
3/ Diễn thuyết cho người
Diễn là biểu diễn, cũng chính là chúng ta thường giảng dạy cho người và tự mình học tập. Phật, Bồ-tát là tấm gương sáng, mẫu mực tốt nhất cho chúng sinh trong chín cảnh giới. Các ngài làm tấm gương, mẫu mực cho chúng ta. Các ngài biểu diễn cho chúng ta thấy. Biểu diễn điều gì? Không phải bảo bạn biểu diễn trên sâu khấu mà ngay trong cuộc sống chính là biểu diễn, làm việc là biểu diễn, đối nhân xử thế, giao tiếp cũng là biểu diễn; lời nói, hành động cũng đều là biểu diễn. Chúng ta làm tấm gương tốt để cho người khác họ nhìn thấy sinh tâm kính ngưỡng, học tập theo chúng ta; đây là diễn.
Thuyết là giảng kinh, thuyết pháp. Phạm vi giảng kinh, thuyết pháp rất rộng. Trong kinh thường dạy không nhất định bảo bạn đọc tất cả kinh, một câu hay nửa bài kệ trong kinh cũng được. Nửa bài kệ là hai câu, bất cứ lúc nào hễ gặp mọi người thì chúng ta khuyên họ. Người thiện căn thành thục thì khuyên họ niệm Phật; người thiện căn chưa thành thục thì khuyên họ đoạn ác tu thiện, tự cầu nhiều phước.
Ví dụ khi bạn bè gặp mặt nhau, chúng ta hỏi họ có muốn phát tài không? Chúng tôi biết cách phát tài, bạn muốn nghe không? Điều này họ rất thích, làm cho tinh thần họ phấn khởi, lập tức hỏi chúng ta ngay: “Phát tài như thế nào?”. Là tu bố thí tài thì được giàu sang. Phạm vi bố thí tài rất rộng, không phải bảo chúng ta đem tiền của đến các chùa dâng cúng, như thế là sai rồi mà chúng ta đem tài vật đóng góp vào việc thiện, có thể làm lợi ích xã hội, lợi ích mọi người. Đó chính là bố thí thật sự.
Ba điều này, Đức Phật thường giảng trong tất cả các kinh “thọ trì, đọc tụng và giảng nói cho người”. Chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của Đức Phật, phải hiểu thế nào để thực hành, mới có thể lợi ích Phật pháp thật sự. Còn có một việc quan trọng nữa là “chúng vụ” mà trong kinh Đức Phật thường giảng, chúng ta hiểu sai điều này rất trầm trọng.
Chúng vụ là gì? Người ưa thích làm việc, thích sự nghiệp kinh doanh cho nhiều. Phật dạy đây là việc sai lầm mà trong kinh thường nói đến. Đức Phật nêu ra một ví dụ: Nếu có Bồ-tát (Bồ-tát này ngu si không có trí tuệ) kinh doanh sự nghiệp rất nhiều. Chúng tôi nêu ra ví dụ, giống như xây tháp báu, ý nghĩa này cùng xây đạo tràng gần giống nhau. Người xưa thường nói xây tháp cúng Phật, phước báo vô cùng. Đức Phật bảo: “Người này tu phước, cho dù xây tháp bảy báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, Ta gặp Bồ-tát này vẫn không sinh tâm hoan hỉ, họ cũng chưa cúng dường Ta thật sự, cũng không cung kính Ta”.
Chúng ta đọc đoạn kinh văn này, chợt nhớ đến thời đại vua Lương Võ Đế. Khi tổ Bồ-đề-đạt-ma đến Trung Quốc- ngài chính là Tổ sư Thiền tông Trung Quốc. Lương Võ Đế là Bồ-tát tại gia đã thọ giới Bồ-tát. Vua thích làm việc xây chùa tiếp độ chúng tăng, ông đi đến đâu cũng xây chùa, tổng cộng có bốn trăm tám mươi ngôi chùa, đều là những ngôi chùa rất nổi tiếng. Nam Triều có bốn trăm tám mươi ngôi chùa. Vua cũng thích khuyên mọi người xuất gia. Nhà vua độ người xuất gia tổng cộng vài chục vạn người. Ông ta nhờ làm vua và giàu có nên đủ điều kiện xây chùa và cúng dường người xuất gia.
Khi tổ Đạt-ma gặp mặt vua. Vua Lương Võ Đế cảm thấy mình đáng kiêu ngạo, được khoe khoang, liền khoe với Tổ sư làm rất nhiều việc như thế và hỏi:
- Thưa thầy! Công đức của trẫm có nhiều không?
Tổ Đạt-ma là người trung thực, đúng như trong kinh dạy: “Tâm thanh tịnh thuyết pháp cho chúng sinh”. Tổ trả lời một câu rất đúng sự thực:
- Tâu bệ hạ! Ngài không có công đức nào cả.
Vua Lương Võ Đế nghe Tổ nói rất buồn như ca nước lạnh tạt vào mặt. Thế là hết, vua không hộ pháp cho Tổ nữa. Tổ đành đến chùa Thiếu Lâm ngồi thiền xây mặt vào vách suốt chín năm đợi Huệ Khả đến truyền pháp.
Nếu như lúc đó, tổ Đạt-ma thuận theo nhân tình mà nói: “Công đức của bệ hạ rất lớn” thì Lương Võ Đế sẽ không thay đổi, trở thành vị hộ pháp đắc lực cho Tổ sư phải không? Nhưng một người tu đạo chân chánh, tuyệt đối không vì danh lợi mà nói pháp thành phi pháp. Tổ nói đúng chánh pháp, nên Lương Võ Đế xây bốn trăm tám mươi ngôi chùa đều không có công đức. Trong kinh Đức Phật dạy: “Dù xây tháp bảy báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, cũng không có công đức”.
Đạo lý ở đâu? Là chúng tôi vừa giảng “không có lợi ích thật sự”. Việc làm này không có lợi ích thật sự, không đúng pháp, không thể thoát khỏi sinh tử cũng không thể chứng Niết-bàn. Những việc này nói nghe hay có chút phước báo, nhưng phước báo hữu lậu trong sáu đường chúng sinh chẳng có liên quan đến công đức. Vì thế, Đức Phật dạy pháp Bồ-tát nhất định phải tương ứng với Ba-la-mật, cho đến thọ trì bốn câu kệ. Điều này trong kinh Kim Cang ghi: “Thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người”. Công đức họ được hơn cả xây tháp bảy báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Trong kinh Kim Cang so sánh thí dụ như thế rất nhiều.
Kinh Vô Lượng Thọ nói rất hay: “Nếu người cúng dường hằng hà sa thánh nhân cũng không bằng phát tâm dũng mãnh cầu Chánh Giác”. Thánh nhân Tiểu thừa là A-la-hán, thánh nhân Đại thừa là bồ-tát Địa thượng, bồ-tát Đẳng giác, chư Phật Như Lai. Chúng ta cúng dường những vị này nhiều như số cát sông Hằng, nhưng Đức Phật bảo không bằng niệm Phật cầu sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Bởi vì, niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc là lợi ích chân thật, lợi ích mãi mãi; sanh về Cực Lạc chứng viên mãn tam bất thoái[3]thì chúng ta thành Phật.
Không cần nói thành Phật mà khi sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc làm Bồ-tát thì bạn là bồ-tát A Duy Việt Trí. Bạn có trí tuệ, có thần thông, có năng lực độ chúng sinh có duyên ở khắp hư không pháp giới. Bạn trợ giúp Đức Phật, hầu hạ thánh chúng nhiều như cát sông Hằng. Nếu như bạn chỉ tu một chút phước thì trí tuệ, đức năng của bạn có thể không có ngay hiện tại; chẳng những bạn không thể độ chúng sinh mà độ mình cũng không được. Câu này đại sư Lục Tổ nói rất hay: “Việc lớn sinh tử, phước không thể cứu”. Cho dù phước báo lớn cũng không giúp bạn thoát sinh tử vẫn ở trong luân hồi.
Chúng ta muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi phải tu nhiều công đức mới được. Công đức thù thắng đứng đầu vẫn không bằng niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ; cho nên, chúng ta không phát được tâm nguyện thù thắng. Vì sao chúng ta không phát được? Vì tập khíphiền não còn rất nặng vẫn chưa đoạn được, tâm không thanh tịnh. Đây chính là tập khí nghiệp chướng của chúng ta từ vô thỉ kiếp quá nặng, nó gây chướng ngại cho chúng ta.
Chúng ta muốn tâm thanh tịnh, muốn tương ứng với Phật, nhưng thực hành thì không được. Thực hành không được vậy tại sao lại gặp pháp môn này? Tại sao lại gặp bộ kinh này? Nói cách khác, chúng ta gặp được pháp môn này, gặp được bộ kinh này là nhờ nhân duyên, phước đức, thiện căn của chúng ta đã thành thục. Sau khi, chúng ta gặp được rồi muốn thực hành mà không được là do nghiệp chướng của mình rất nặng. Tuy rằng ở đây được thiện duyên, nhưng vẫn có chút chướng ngại, chỉ cần trừ bỏ chướng ngại này thì chúng ta sẽ thành công.
Chúng ta dùng cách nào để trừ bỏ chướng ngại? Đọc tụng. Nếu như chúng ta sống chung với các bạn đồng tu cùng chí hướng, thường nghiên cứu thảo luận thì nhất định không sợ khó khăn vì tình cảm. Họ chỉ lỗi cho mình, phát lộ sám hối. Vài, ba người bạn tốt, hai bên thật sự kiểm điểm những khuyết điểm lẫn nhau. Mọi người cùng thảo luận bàn bạc để khắc phục tập khí phiền não.
Nếu đời này nhân duyên, phước đức, thiện căn của chúng ta thành thục, gặp một chút chướng ngại liền trừ nó đi là thành công, then chốt ở đây. Vì thế, chúng ta phải nhớ kỹ ba câu Phật dạy: “Thọ trì, đọc tụng và giảng nói cho người”. Chúng ta không hiểu công đức này mà muốn làm theo Lương Võ Đế cả đời xây bốn trăm tám mươi ngôi chùa để được công đức cho thật nhiều thì không được. Trong kinh Đức Phật dạy: “Nếu có người nào xây tháp bảy báu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới thì họ cũng không bằng người thọ trì, đọc tụng và giảng nói cho người”.
Đức Phật dạy câu này là sự thật, bản thân chúng tôi cũng luôn sửa đổi, vì ai cũng mắc sai lầm, là tập khí rất nặng, muốn sửa đổi lại rất khó sửa được. Cái lợi của chúng tôi có nhiều cơ hội, hằng ngày giảng kinh cho mọi người là để xét lại mình. Nếu như không giảng nói cho người, bạn ít có cơ hội xét lại mình và khuyên người khác, đương nhiên cũng là khuyên mình; đây là đạo lý nhất định. Cho nên chúng tôi mong muốn mọi người tuân theo phương hướng này, mục tiêu này, chăm chỉ nỗ lực tu hành. Chúng ta cùng tập hợp trong ba ngày rất có ý nghĩa, cùng giúp đỡ nhau tiêu trừ chướng duyên hiện tại rất nhiều, và biết thực hành thế nào đạt được công đức thật sự, đúng như Đức Phật dạy cho chúng ta.
Chương 11
Người nội trợ gia đình tu đạo Bồ-tát như thế nào trong cuộc sống hàng ngày
Mỗi ngày, chúng ta làm công việc giống nhau thì nhất định sẽ cảm thấy buồn chán tẻ nhạc, đặc biệt là các cô nội trợ gia đình cứ loay hoay mãi công việc không tên suốt ngày, vì không giải thoát được nên có rất nhiều người đều cảm thấy buồn chán. Nếu như mọi người biết chuyển đổi quan niệm này thì làm việc sẽ rất vui vẻ. Theo quan niệm phàm phu vì chấp có cái ta; ta làm việc, ta rất cực khổ, vì sao suốt ngày mình làm tôi mọi cho mọi người, càng nghĩ càng buồn phiền. Nếu mọi người học theo đạo Bồ-tát phát đại thệ nguyện độ khắp chúng sinh thì cách nghĩ, cách nhìn sẽ không giống nhau.
Người thực hành đạo Bồ-tát,trước tiên là phải tu bố thí Ba-la-mật. Bồ-tát nội trợ trong gia đình phục vụ cho cả nhà chính là bố thí Ba-la-mật. Bố thí có ba loại: tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí có nội tài và ngoại tài. Ngoại tài là chỉ cho người đi làm kiếm tiền bên ngoài đem về cung cấp sinh hoạt cho cả gia đình. Nội tài là đem sức lực, trí tuệ của mình phục vụ cho cả nhà. Ở nhà chúng ta làm ba việc bố thí viên mãn. Chúng ta sắp xếp việc nhà gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ làm cho người nhà dễ chịu, hàng xóm khâm phục; đây là trì giới Ba-la-mật; trì giới chính là giữ phép tắc. Chúng ta làm việc bằng tâm nhẫn nại, làm không mỏi mệt; tức là nhẫn nhục Ba-la-mật.
Mỗi ngày chúng ta thường xuyên sửa đổi, hi vọng ngày mai làm tốt hơn ngày hôm nay, đây là tinh tấn Ba-la-mật. Mặc dù mỗi ngày chúng ta làm rất nhiều việc nhà không tên, nhưng tâm thanh tịnh không nhiễm bụi trần, tức là thiền định Ba-la-mật. Tâm thanh tịnh thì phát sinh trí tuệ, pháp hỉ sung mãn là “Bát nhã Ba-la-mật”. Khi giác ngộ rồi thì chúng ta làm việc lau bàn, quét nhà, giặt giũ, nấu ăn đều thành tựu viên mãn sáu pháp Ba-la-mật của Bồ-tát. Đây chính là Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm thể hiện học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát.
Chúng ta làm tốt việc nhà là làm tấm gương cho tất cả thế gian, mẫu mực cho mọi người trong gia đình. Việc này có thể độ được người hàng xóm, rộng ra ảnh hưởng đến xã hội, quốc gia, thế giới, cho đến khắp hư không pháp giới. Lúc này, chúng ta mới hiểu được hạnh Bồ-tát là thực hành ngay trong nhà là lau bàn, quét nhà, giặt giũ, nấu ăn vốn là đại nguyện, đại hạnh, làm việc độ tất cả chúng sinh khắp hư không pháp giới. Đây là học Phật, là chánh niệm, là thật tướng các pháp. Nếu chúng ta quán được như vậy thì pháp hỷ sung mãn, làm sao khởi phiền não được. Tu học Phật pháp nhất định phải đạt được ngay trong cuộc sống thực tại, chúng ta không đạt được ngay trong cuộc sống hàng ngày thì vô ích. Nếu chúng ta hiểu rõ điều này thì suy ra các điều khác, làm trong công ty cũng là tu sáu Ba-la-mật. Bồ-tát thị hiện trai, gái, già, trẻ làm các việc; nhiều thân phận không giống nhau. Tu học là bổn phận sinh hoạt, bình đẳng không hai.
Tinh hoa pháp mười niệm
Mọi người đề nghị chúng tôi đem những điều thuyết giảng tóm tắt thành pháp mười niệm, vì người học theo Tịnh độ từ nay về sau là tự tu và cùng tu chung như thường lệ. Điều này sẽ nói rõ ở phần sau:
A. Tự tu: Trong một ngày, chúng ta niệm mười tiếng danh hiệu Phật đủ chín lần. Nghĩa là sáng sớm thức dậy niệm một lần và trước khi đi ngủ niệm một lần, ngày ăn ba bữa, mỗi bữa ăn niệm một lần, buổi sáng bắt đầu làm việc niệm một lần, đến khi nghỉ niệm một lần, buổi chiều bắt đầu làm việc niệm một lần, đến lúc nghỉ niệm một lần; tổng cộng là chín lần. Mỗi lần xưng niệm mười tiếng, bốn chữ hoặc sáu chữ danh hiệu Di-đà. Chúng ta nên có định khóa thường ngày theo đó mà thực hành.
B. Cùng tu: Mọi người tập hợp lại, khi nghe giảng kinh, cùng chấp tác, cùng ăn chung không theo nghi thức riêng biệt. Lúc bắt đầu ở chung làm việc, nên thực hành pháp mười niệm này; cũng chính là cùng đại chúng chắp tay đồng niệm mười tiếng Nam mô A-di-đà Phật. Sau đó bắt đầu hoạt động, làm các việc như tụng kinh, chấp tác, dùng cơm v.v…
Làm theo pháp mười niệm này, tự tu và tu chung, mọi người được lợi ích đặc biệt, chúng tôi thử nêu như sau:
1. Pháp này đơn giản dễ thực hành,ít tốn thời gian mà được hiệu quả, thực sự rất quan trọng, có thể phổ biến rộng rãi lâu dài.
2. Làm phương pháp cụ thể hiệu quả trong gia đình Phật pháp. Thực hành ngày ba bữa ăn trong gia đình thì thành viên cả nhà dù tin hay không tin đều phải giữ gìn không bỏ; lại có lợi ích rất nhiều, Phật hóa bạn bè, thân thuộc, làng xóm rộng đến khắp xã hội.
3. Nhờ đơn giản dễ thực hành, một ngày chín lần, từ sáng đến tối, niệm Phật không dừng. Nếp sống sinh hoạt mỗi ngày, niệm Phật liên tục, ngày lại ngày trôi qua. Lâu dần được như vậy thì phong cách, tâm tính của người thực hành sẽ dần dần hiện ra thanh tịnh, tín tâm và pháp lạc phát sinh, phước nhiều vô cùng.
4. Nếu như có người tùy thuận theo người thân mà xưng niệm mười tiếng danh hiệu Phật cũng trừ bỏ được tạp nhiễm, lắng tâm thanh tịnh, tâm thần được định, chuyên tâm làm việc và làm dễ thành tựu, được Phật phù hộ gặp điều an lành, công đức không thể nghĩ bàn.
5. Mọi người tự tu và cùng nhau tu giúp đỡ hòa hợp với nhau, đầy đủ tư lương thì nhất định được vãng sanh, làm sự nghiệp vĩ đại của Bồ-tát giống nhau, cùng nhau thành tựu.
6. Pháp này có thể gọi là hai pháp:
a. Tịnh nghiệp gia hành pháp mười niệm. Chúng tôi đã nói thực hành tu thời khóa nhất định. Vì pháp này vốn có trong khóa nghiệp gia hành.
b. Tóm tắt pháp mười niệm, là chỉ nói thích hợp hiện nay và về sau, người học hành nghiệp thanh tịnh, phần đông không có thời khóa cố định. Bởi vì, xã hội ngày nay thay đổi, bận rộn không có thời gian, tình hình trở ngại khó khăn nhiều. Nhưng pháp này dễ tập hợp tư lương Tín, Hạnh, Nguyện đầy đủ dễ hiểu. Làm tiêu chuẩn “đều nhiếp sáu căn, niệm thanh tịnh liên tục”, cũng rất phù hợp.
Vì mỗi lần niệm Phật thời gian ngắn, dễ nhiếp tâm và không lười biếng; lại đem công hạnh chín lần niệm Phật chia đều nhau suốt cả ngày, thân tâm cả ngày buộc phải niệm Phật, cũng tức là cả ngày sinh hoạt niệm Phật hoá, niệm Phật sinh hoạt hoá.
Nói tóm lại, pháp này đơn giản và nhẹ nhàng, chẳng chút vướng mắc cực khổ khó khăn. Thực hành pháp như thế thì người tu học hành nghiệp thanh tịnh thật là may mắn! Chúng sinh tương lai thật là may mắn! Chư Phật hoan hỉ.
Nam mô A-di-đà Phật.
Năm 1994, ngày chư Phật hoan hỉ, hội học bốn chúng Tịnh độ ở nước Mỹ cùng nhau kính khuyên.
Đại sư Ấn Quang khai thị
1. Bệnh dịch, tai nạn, bệnh nan y đều từ nghiệp sát hại.
Vận kiếp của thế giới ngày nay, chúng ta đang chịu nhiều tai họa đều do ác nghiệp quá khứ gây ra, dẫn đến cảm thọ quả khổ hiện tại.
Trong các ác nghiệp chỉ có sát sinh là nặng nhất.
Do nghiệp sát trói buộc dẫn đến xảy ra nhân họa chiến tranh và những thiên tai lụt lội, hạn hán, đói khát, bệnh dịch, gió lốc, động đất, sóng thần, nước dâng v.v… đều liên tục giáng xuống con người.
Mọi người phải biết tai họa chiến tranh đều do nghiệp sát đời trước đã chiêu cảm.
Bệnh nan y đều do ác nghiệp đời trước mà đời này phải chịu.
Con người đừng tạo nghiệp sát, đã tạo nghiệp sát rồi thì nhất định phải chịu quả báo sát hại.
2. Kết quả nghiệp sát là do ăn thịt rất là thảm ác.
Kết quả nghiệp sát, chỉ vì ăn thịt mà gây ra thảm cảnh.
Tai họa ăn thịt vô cùng khốc liệt, không những hại đời này mà còn liên lụy đến nhiều đời sau.
Những tai họa chiến tranh, giặc cướp, lụt lội, hạn hán, tật bệnh liên miên đều do sát sinh ăn thịt mà ra.
Vì do sát sinh nên gây ra những thiên tai như thời tiết thay đổi thất thường, trời hạn hán, lụt ngập, bệnh dịch, sâu rầy phá hoại mùa màng là kết quả của nghiệp sát; lại còn xảy ra nhân họa hai bên đánh nhau. Rốt cuộc cũng do nhân đời trước sát sinh ăn thịt dẫn đến tai học đời này.
Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều là cha mẹ quá khứ, chư Phật tương lai. Mọi người nên nghĩ cách cứu giúp, che chở còn sợ không kịp, huống gì để thỏa mãn bao tử của mình mà đi giết hại thân mạng kẻ khác?
Mỗi ngày chúng ta ăn thịt, tức là mỗi ngày sát sinh. Nếu không giết hại nhất định không có thịt .
Người ăn thịt, mặc dù mình không giết hại con vật, nhưng cũng khó thoát khỏi nghiệp sát. Nếu không giết thì không có thịt bán, người đem tiền mua thịt thay cho người giết hại.
Chúng ta giết các loài chúng sinh để thỏa mãn bao tử của mình. Lẽ nào thú vật là cây, đá, không biết đau đớn, không muốn sống, bằng lòng để người giết chết ăn thịt? Bạn đã giết nó ăn thịt, đời sau nhất định nó sẽ giết lại bạn ăn thịt. Một đời người ăn không biết bao nhiêu là sinh linh. Tội gì đem tiền mua tai họa (ăn thịtthì mắc nợ sát hại, nên nói là mua họa).
Người đời ăn thịt đã thành thói quen, nên biết bất kỳ thịt gì cũng đều có chất độc. Vì khi bị giết tâm con vật nổi sân hận, tuy bạn ăn vào không mất mạng ngay, nhưng tích chứa lâu ngày thì chắc chắn làm khối u thành bệnh. Người tự biết thương mình hãy nên đề phòng.
3. Đạo Phật giải quyết nghiệp sát bằng cách niệm Phật, không sát sinh, ăn chay, phóng sinh.
Xã hội ngày nay đang luôn chịu nhiều tai hoạ, nên khi tai họa ập đến thì không cách gì tránh kịp. Nếu thường ngày chúng ta niệm danh hiệu Đức Phật Di-đà và bồ-tát Quán Âm thì nhất định được Phật từ bi che chở, gặp dữ hóa lành, tai nạn không còn, cũng được tiêu trừ nghiệp chướng, trí tuệ sáng suốt, chướng ngại không còn, phước đức đầy đủ.
Muốn diệt nghiệp sát quá khứ và hiện tại, chúng ta phải ăn chay không sát sinh, lại chí thành niệm Phật Di-đà và bồ-tát Quán Âm thì nhất định tiêu trừ nhanh chóng, lại được tăng trưởng công đức và trồng căn lành.
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc, đạo đức suy đồi; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp. Nếu mọi người làm theo Văn Sao Gia Ngôn Lục đã chép, chí thành niệm Phật Di-đà và bồ-tát Quán Thế Âm thì chắc chắn sẽ được các ngài âm thầm gia hộ chuyển tai nạn có thành không; chuyển nặng thành nhẹ. Nếu người nào không chịu nghe theo không niệm Phật thì phải chịu tai ương.
Bậc Thánh hiền đều dạy không sát sinh, phóng sinh là cứu vãn tai họa sát hại để bồi dưỡng quả phước, chấm dứt chiến tranh là nền tảng sống an vui lâu dài.
Các tai họa bất ngờ như tai nạn, bệnh dịch, động đất, sóng thần, lụt lội, hạn hán v.v…luôn xảy ra liên tục. Người không sát sinh, phóng sinh rất ít gặp tai họa. Người biết bảo vệ mạng sống là tự giữ mình. Người không sát sinh thì thoát được các tai nạn như sét đánh, quỷ thần hại, giặc cướp giết và báo thù tàn hại nhau đời tương lai. Ăn thịt, ăn chay có liên quan với nhau, chính là đạo đức căn bản của chúng ta bị đoạ hay siêu thoát và thiên hạ trị loạn.
Nếu người nào muốn sống lâu, an lạc, không gặp tai họa bất ngờ thì nên không sát sinh, ăn chay là diệu pháp đầu tiên thoát khỏi thiên tai, nhân họa.
Chúng ta phải ra sức đề xướng không sát sinh, ăn chay làm pháp giải quyết căn bản.
Xưa nay, chúng tôi đề xướng sự lý giữ giới sát, phóng sinh, nhân quả, báo ứng v.v… để mong cứu vãn thiên tai, nhân họa.
Mọi người muốn cầu trong nhà mình bình yên, thân tâm mạnh khỏe, thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc thì hãy giữ giới sát, phóng sinh, ăn chay và niệm Phật, nếu bạn cầu thì sẽ được.
Việc phóng sinh vốn là gợi mở thiện tâm của con người chưa hiện ra, vì mong mọi người giữ giới sát, ăn chay làm cho khắp chúng sinh đều được an vui, hưởng trọn tuổi thọ. Gần thì dừng được nhân sát sinh, xa thì diệt được quả sát sinh, nhỏ thì tâm chúng ta hoàn toàn thuần nhân từ, lớn thì dừng được chiến tranh trên thế giới. Mọi người đừng cho là việc không cần gấp mà cứ thản nhiên.
Lão pháp sư Đạo Nguyên khai thị
Chúng ta hãy nghiên cứu kỹ giá trị tám chữ “không giết, phóng sinh, ăn chay, niệm Phật”. Tám chữ này không những đích thực là Phật pháp mà còn là thành tích của Phật giáo, cũng là tinh hoa của Phật pháp.
Phật pháp chú trọng tu hành. Thế nào gọi là tu hành? Đó là sửa đổi hành vi tội ác, sát sinh là hành vi tội ác nặng nhất.
Chúng sinh đều tham sống sợ chết, khi chúng nó bị giết chết đau đớn biết chừng nào? Chúng ta nhẫn tâm giết chết chúng nó là ba nghiệp thân, khẩu, ý đều ác, trái với bản hoài từ bi của Đức Phật. Chúng ta tạo nghiệp ác này nhất định đọa địa ngục, làm sao thành Phật?
Chúng tôi khuyên các vị đệ tử Phật. Bước đầu tiên thấp nhất là không sát sinh, tiến lên bước lên thứ hai cao hơn là phóng sinh. Tự mình không sát sinh, nhưng thấy chúng sinh bị giết liền khởi tâm từ bi tìm mọi cách để cứu nó thoát khỏi nỗi khổ bị giết.
Tự mình không tạo nghiệp sát hại mà sai người khác giết hại để mình ăn thịt có hợp lý không? Cho nên không ăn thịt chúng sinh mới là không sát sinh triệt để.
Ba thiện nghiệp không sát sinh, phóng sinh, ăn chay là phương tiện đầu tiên, vẫn không thể thoát khỏi sinh tử, đoạn nghiệp mới có thể thoát khỏi sinh tử. Thời kỳ mạt pháp chúng sinh nghiệp nặng khó đoạn, chỉ có một pháp niệm Phật, không cần đoạn nghiệp vẫn có thể đới nghiệp vãng sanh[4].
Ba nghiệp thiện trước đều là trợ hạnh, niệm Phật mới là chánh hạnh.
Trong mười pháp giới, niệm Phật là niệm Đức Phật, mỗi niệm niệm Phật là Đức Phật hiện ra. Lâu dần tâm mình và Phật nhất như thì chín cảnh giới còn lại đều không hiện ra. Vậy mà vẫn có đạo lý không thấy Phật, không sinh về Tây phương, không thành Phật?
Niệm Phật phải niệm chí thành, bắt đầu từ chỗ cạn thấp rồi đạt đến hiệu quả cao sâu. Nhất định ý chí phải vững chắc và đừng chạy theo tham vọng ảo ảnh.
Tự lực khó đoạn trừ được phiền não, phải nhờ Phật lực mới được đới nghiệp vãng sanh. Tự lực thì có rất nhiều ma đến quấy nhiễu, Phật lực làm cho ma lui. Nghĩa lý pháp môn tự lực rất cao sâu, căn cơ bình thường không dễ gì hiểu nổi. Pháp môn niệm Phật đơn giản, dễ thực hành, lại không đưa đến lầm lạc. Nương theo Phật lực thì chắc chắn, dễ dàng hơn tự lực.
Niệm Phật không phải niệm chín cảnh giới mà là niệm pháp thân của Đức Phật. Bất cứ ở nơi nào, lúc nào; khi niệm một danh hiệu Phật là toàn thể pháp thân hiện tiền, lúc đó tuyệt đối không có phiền não tồn tại.
Niệm Phật là thấm nhuần hương thơm pháp thân của Đức Phật, đem hương thơm pháp thân khai mở ánh sáng trí tuệ; đồng thời, đem hương thơm và ánh sáng huân tập vào lý thể bản giác của mình, gọi là hương thơm và ánh sáng trang nghiêm.
Cõi này là nhơ ác rất khó tu hành. Tây phương thanh tịnh mới tu hành tốt.
Chúng ta được vãng sinh Tây phương; hoặc không được vãng sinh thì chỉ cần xem có tín nguyện chưa? Hay nói cách khác, chỉ cần có Tín và Nguyện thì bất luận niệm Phật nhiều hay ít đều được vãng sanh về Tây phương. Chúng ta đủ thấy hai chữ Tín và Nguyện vô cùng quan trọng.
Thực hành mười điều quan trọng
1. Hiếu dưỡng cha mẹ
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim còn biết báo ân nuôi mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng loài cầm thú hay sao?
Cha mẹ là ruộng phước lớn nhất đời này của chúng ta. Công đức hiếu dưỡng cha mẹ và hiếu dưỡng Đức Phật giống nhau, không hiếu dưỡng cha mẹ được là sai lầm lớn nhất của đời người. Người bất hiếu một chút tư cách cũng không có nói gì đến học Phật.
Ngoài ra, chúng ta còn khuyên cha mẹ có Tín, Nguyện, niệm Phật, cầu sinh về Tây phương mãi mãi thoát khỏi nỗi khổ sinh tử luân hồi, mới là người con hiếu đạo cứu cánh viên mãn.
2. Làm tròn bổn phận.
Làm người ở thế gian, ai cũng có bổn phận và trách nhiệm của mình. Người học Phật trên cương vị công việc của mình phải nỗ lực tinh tấn làm tấm gương mẫu mực cho gia đình, xã hội, quốc gia. Hiếu thuận với cha mẹ, giáo dục con cái, yêu thương gia đình, làm lợi ích cho xã hội, báo đáp tổ quốc mới là người học Phật thật sự. Tự mình trốn tránh trách nhiệm, không làm tròn bổn phận, học Phật mà nói khoác lác đều là dối mình lừa người thì không thể thành tựu được.
3. Tin sâu nhân quả.
Toàn bộ cốt yếu Phật pháp, chính là hai chữ “nhân quả”. Chúng ta trồng nhân thiện được nhân thiện, trồng nhân ác nhất định chịu quả ác, báo ứng nhân quả không sai tí nào, không phải là không có báo ứng mà thời gian chưa đến . Người học Phật phải tin s��u nhân quả, lấy giới làm thầy, mỗi ngày tự kiểm điểm luôn luôn sửa đổi. Ngoài ra, người niệm Phật tin sâu trồng nhân thiện niệm Phật, chắc chắn được quả thiện thành Phật. Đây là nhân quả rất thâm diệu.
4. Không sát sinh, ăn chay.
Người học Phật không làm các việc ác, nỗ lực đoạn trừ tất cả hành vi tội ác. Trong tất cả tội ác, tội ác nặng nhất là sát sinh, ăn thịt. Bởi vì, mạng của chúng sinh rất quý báu, không nên vì thân mạng mình mà giết, ăn thịt nó thì nó vô cùng căm hận, kết oán thù sâu nặng, đời sau nó sẽ giết lại chúng ta báo thù đòi nợ, máu trả nợ máu, quả ác rất là thảm khốc. Vì thế, chúng ta không làm các việc ác, không sát sinh, ăn chay là việc quan trọng.
5. Phóng sinh cứu mạng.
Người học Phật phải làm các điều thiện, bất cứ việc thiện nào, chỉ cần có cơ hội thì ra sức làm. Trong tất cả việc thiện, phóng sinh là đứng đầu. Bởi vì, phóng sinh là hành động cứu mạng cấp bách, công đức rất lớn, chẳng phải việc nhỏ mà đem so sánh. Thân mạng chúng sinh rất quý, chúng ta thả nó, cứu nó thì nó vô cùng cảm kích, kết thiện duyên tốt với chúng ta đời sau được quả báo thiện, phước đức không thể nghĩ bàn. Cho nên, trong các điều thiện lấy phóng sinh cứu mạng làm đầu.
6. Chí tâm thành kính.
Chí tâm thành kính là nền tảng thành tựu bất cứ sự nghiệp nào trong thiên hạ. Đại sư Ấn Quang chỉ dạy chúng ta phải dốc hết tâm lực, lấy hai chữ thành kính làm điểm quan trọng. Chúng ta có một phần thành kính thì có một phần công đức, có mười phần thành kính thì có mười phần công đức. Đây là bí quyết tuyệt vời học Phật thành công, mọi người tuyệt đối phải ghi nhớ kỹ trong lòng.
7. Phát tâm Bồ-đề.
Công đức nhiều ít của người học Phật theo tỉ lệ thuận với tâm lượng của mình, tâm lượng rộng lớn thì công đức được nhiều. Vì thế, người học Phật phải có tâm lượng rộng lớn, làm bất kỳ việc gì tuyệt đối không nên vì tự tư tự lợi, nhất định phải phát xuất từ tâm chân thành, chân thật vì lợi ích tất cả chúng sinh. Chúng ta trên cầu Phật đạo, phát tâm thành Phật, nếu có năng lực độ khắp chúng sinh, giáo hóa họ phát tâm Bồ-đề. Khi gặp cơ duyên nhất định phải đem trọng điểm tinh yếu của Phật pháp truyền bá cho đại chúng. Ngoài ra, tâm phải chí thành niệm Phật cầu sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc; đó là phát tâm Bồ-đề thật sự.
8. Lạy Phật sám hối.
Chúng ta từ vô thủy kiếp đến nay tạo nhiều tội nghiệp, nếu có hình tướng thì khắp hư không cũng chẳng chứa hết; bởi vì, chúng ta là phàm phu xấu ác nghiệp chướng sâu nặng. Do đó, người học Phật phải phát tâm hổ thẹn và chí thành sám hối, siêng năng lạy Phật. Bởi vì lạy Phật một lạy chí thành thì tội diệt như cát sông Hằng, lạy Phật sám hối là bày tỏ tâm chí thành cung kính của chúng ta. Phương pháp tốt nhất là hổ thẹn tự xét mình.
9/ Tín, Nguyện, Hạnh niệm Phật.
Pháp môn Tịnh độ là nương tựa Phật lực cứu giúp. Tín là tin thế giới Tây phương Cực Lạc có Phật A-di-đà. Nguyện là mong muốn mình mau sinh về thế giới Cực Lạc kia, chán lìa thế giới Ta-bà này. Hạnh là phải chí thành niệm, giữ một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật. Chỉ cần đầy đủ ba tư lương Tín, Hạnh, Nguyện thì sẽ nương theo đại thệ nguyện lực của Phật A-di-đà cứu giúp, ra khỏi sinh tử, vĩnh viễn đoạn trừ luân hồi là pháp môn Đức Phật dạy trong tất cả pháp môn vô cùng thâm diệu đặc biệt và rất thích hợp.
Nói theo lý, một câu A-di-đà Phật là nhờ Phật lực cứu vớt, chắc chắn bảo đảm vãng sanh về Tây phương. Nhưng vì sao ngày nay người niệm Phật nhiều mà người được vãng sanh thì rất ít? Đây là vấn đề rất quan trọng và nghiêm túc, điểm chính là họ niệm Phật nhưng không được vãng sanh là do “thiếu Tín, Hạnh, Nguyện, sợ chết, căn bản là không muốn vãng sanh”. Ngày nay, người niệm Phật chỉ cầu sống lâu, cầu mạnh khỏe bình an, cầu giàu sang, công việc thuận lợi, cầu lợi ích ở tất cả thế gian; nhưng không cầu vãng sanh về Tây phương.
Một chữ Chết thì có thể kiểm nghiệm người niệm Phật có đầy đủ Tín, Hạnh, Nguyện hay không? Hãy tự hỏi lương tâm, chúng ta có sợ chết không? Nếu như chết ngay lập tức thì Phật A-di-đà liền đón chúng ta vãng sanh về Tây phương, chúng ta có bằng lòng không? Một người niệm Phật thật sự là chán lìa cõi Ta-bà này thích cầu về cõi Cực Lạc thì nhất định cho sự chết là trở về. Bất cứ lúc nào, họ cũng mong sớm theo Phật A-di-đà về thế giới Tây phương Cực Lạc thì tuyệt đối không sợ chết, luôn mong muốn vãng sanh liền. Còn người niệm Phật giả tạo trong ngoài khác nhau, Tín, Nguyện không thật là người tham sống sợ chết, không muốn chết, không muốn vãng sanh, cầu sống lâu, có rất nhiều lý do ràng buộc. Chúng ta nên biết tâm người nào sợ chết, không muốn chết, không muốn cầu vãng sanh thì trái với tâm Phật A-di-đà, không đủ ba tư lương Tín, Hạnh, Nguyện thì làm sao họ thành tựu vãng sanh về Tây phương được?
Ngày nay, một nghìn người niệm Phật thì có chín trăm chín mươi chín người niệm Phật giả. Nếu người niệm Phật thật sự một chữ Chết thường ở trong tâm, tự mình luôn kiểm nghiệm, chỉ cần người niệm Phật không sợ chết, thích chết, bất cứ lúc nào cũng đón cái chết, luôn mong cầu sớm được vãng sanh về Cực Lạc; đây là người niệm Phật thật sự “chán lìa Ta-bà, thích cầu Cực Lạc” thì một nghìn người niệm Phật, nghìn người vãng sanh; vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh, tất cả mọi người đều sinh về Tây phương.
10. Nỗ lực thực hành.
Phật pháp quan trọng nhất là thực hành. Có bà cụ một chữ cũng không biết, hoàn toàn không hiểu kinh dạy, chỉ biết ăn chay, lạy Phật, chí thành niệm giữ một câu Nam mô A-di-đà Phật mà được vãng sanh. Người học Phật thành tựu thường hơn hẳn những nhà thông thái biện tài vô ngại, tinh thông tam tạng, quan trọng là có nỗ lực thực hành hay không. Người có tài năng, hiểu biết mà không thực hành, giống như bàn suông, nói ăn nhiều sơn hào hải vị, chỉ là buồn chán.
Nói tóm lại, chúng ta học Phật chỉ cầu chuyên nhất, sợ nhất là xen tạp; chỉ cần nắm chắc những điểm quan trọng nỗ lực thực hành thì nhất định đạt được lợi ích thực tế của Phật pháp.
Năm 1996 giảng ở Dallas
[1]Lục hòa:Sáu pháp hòa đồng, kính ái. Đó là: Thân hòa đồng trụ, Khẩu hòa vô tranh, Ý hòa đồng duyệt, Giới hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải, Lợi hòa đồng quân.
[2]Ba bộ kinh: kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà.
[3]Tam bất thoái: Vị bất thoái, Hạnh bất thoái, Niệm bất thoái.
[4]Đới nghiệp vãng sanh: Sau khi chết, mang túc nghiệp sinh qua cõi khác.
---o0o---
Trình bày: Tịnh Tuệ