Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc lại bài thơ: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ...

11/04/201311:28(Xem: 8264)
Đọc lại bài thơ: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ...

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2012

Đọc lại bài thơ: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ...

Dương Kinh Thành

Nguồn: Dương Kinh Thành

tinh_me

Trước đây, khi viết bài này, trong tay tôi chưa có các phương tiện nghe nhìn tối thiểu , để có thể hỗ trợ mình hoàn thành mong ước, chuyển tải một cách nhanh nhất những điều mình cảm nhận hầu chia sẻ với mọi người. Vì vậy khi ấy tôi không biết bài thơ này nằm trong tập thơ “SÁU-TÁM” của nhà thơ Nguyễn Duy.
Dù sao, nay đọc lại vẫn còn nguyên xúc cảm thiêng liêng của TÌNH MẸ. Nhân dịp mùa Vua lan Báo Hiếu, xin một lần nữa đọc lại bài thơ này.


NGỒI BUỒN NHỚ MẸ TA XƯA, đó cũng là tựa đề bài thơ của Nguyễn Duy, người viết bài này sau nhiều năm tìm kiếm, chắp nhặt cho đến khi tròn vẹn một bài thơ. Tuy không phải là người có chuyên môn đọc, giới thiệu hay phê bình văn thơ, càng không phải là người yêu văn thơ, nhưng do ý nghĩa nhân văn sâu sắc của bài thơ, đã thật sự gieo vào tâm khảm người đọc về một ý niệm –giá trị tuyệt vời về người Mẹ, và chính những điều đó đã tạo nên sức cuốn hút của bài thơ. Lại nữa, khi vô tình nghe qua làn sóng phát thanh với giọng ngâm trầm ấm của nghệ sĩ Trần Thị Tuyết, đã thôi thúc cảm niệm ai hoài, lại nhân tiết hội Vu Lan rạo rực, nên tự nhận thấy không thể không giải bày xúc cảm này.
Nhà thơ Nguyễn Duy có lẽ đã đi từ ca dao được mẹ ru bên cánh võng thuở ấu thơ, nên trong tâm khảm đã bật ra bao nỗi lòng bằng chính các lời ru, và đã lấy đó làm tựa đề cho bài thơ:‘NGỒI BUỒN NHỚ MẸ TA XƯA- MIỆNG NHAI CƠM BÚNG LUỠI LỪA CÁ XƯƠNG”.
Bài thơ được bắt đầu bằng sự sâu lắng hết sức thiêng liêng, mênh mông, gợi lên cho ta một khoảng không gian rộng lớn, làm lộ rõ nét cô đơn của đứa con mồ côi vừa mất mẹ :
Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết Bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào.
Tại sao lại là “khói nhang”mà không là ánh nến hay một phương tiện huyền ảo nào khác, mới có thể “vẽ nẻo đường lên Niết bàn” ? Giữa khói nhang và Niết Bàn trong bài thơ đủ nói lên tập quán ngàn đời của dân tộc với chân lý Niết Bàn của Phật giáo, dù Niết Bàn trong Duy Thức Học, hiểu được nó không hề đơn giản. Theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm, thì Niết Bàn không xảy ra trong thế giới của nhận thức. Nhưng bằng con mắt tục đế, chúng ta dễ dàng hiểu được Niết Bàn trong thơ Nguyễn Duy. Có nghĩa là nơi đó là một vị trí- địa danh xứng đáng đối với những tấm lòng hiếu thảo của người con đặt để dành cho người Mẹ mình. Chúng ta chấp nhận được. Và có lẽ, như biết được ý nghĩa trên nên Nguyễn Duy phải nói “vẽ nẻo đường lên Niết bàn”? Nhìn thấy “Chân nhang lấm láp tro tàn”là một hình tượng tất yếu về một kiếp đời thọ nghiệp; nó còn nói lên cái hình bóng, công ơn lao nhọc cả cuộc đời của người Mẹ một cách cô đọng, thay vì tác giả phải kể lể bằng nhiều hình ảnh khác nhau như “Cánh cò lặn lội…”v.v…
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.
Từ trước đến nay, tuy tự nhận mình là một người ít khi tiếp xúc với thơ văn, nhưng trên cảm quan chung, tôi ít khi thấy một áng văn thơ nào ca ngợi- tả tỉ mỉ về một người Mẹ giàu sang, chân tay cắt móng gọn gàng, mắt mũi đầy ắp chất silicon đặc sệt; chỉ là những bà Mẹ nghèo tần tảo, chai sạm làn da với đôi quang gánh cơ hàn, đè nặng bờ vai lao nhọc.
Ai đã từng thấy được dây bí dây bầu, dây mướp leo với vô số tay quăng bám chặt và rẻ ngọn trăm hướng để giữ cho thân mình đủ sức mang nặng những đứa con - những trái đeo lủng lẳng, lúc nào cũng ghì nặng thân dây…mới cảm nhận được câu thơ của Nguyễn Duy đến nao lòng, và thầm thán phục sự ví von tài tình, tuyệt vời của nhà thơ.
Không phải đất nước ta vốn có truyền thống của nền văn minh nông nghiệp, mà khi nói về “nhuộm bùn”-tức là làm ruộng-làm nông; đó chỉ là một cách nói tiêu biểu, hàm súc về tình Mẹ Phương Đông, muốn tự mình nuôi dạy con cái, chịu đựng tất cả lao nhọc để cho con khôn lớn, không dựa dẫm vào bảo hiểm, nhà trẻ, cấp dưỡng hoặc phó mặc cho xã hội, nhà trường.
Cái màu nâu còn là màu của đất. Mà đất thì được tắm mát bởi nhân duyên của bốn mùa miền nhiệt đới vốn hằng gian khổ. Người học Phật còn “đi sâu” vào lòng đất hơn bằng tư tưởng tuyệt vời của Tâm Địa Quán: nó sinh ra tất cả và nó ôm ấp tất cả (Chúng sanh chi tâm du như đại địa, ngũ cốc-ngũ quả tùng đại địa sanh). Kể cả cái Tâm của Tam Giới cũng chính là ba cái tên của đất (Dĩ thử nhân duyên tam giới, duy tâm tam danh chi địa…) Phải chăng do các yếu tố chân lý đó nên chư Tổ Sư truyền thừa xứ ta xưa kia đã khéo chọn màu nâu cho y phục tăng lữ, như ẩn ý nhắc nhở về một duyên sanh, một ứng dụng tùy duyên cho đạo Phật Việt nam chúng ta.
Cái cò- sung chát- đào chua
Câu ca Mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời Mẹ ru
Những lời tiêu biểu trong các bài hát ru, nó còn là những kỷ niệm tuổi thơ dại, đưa vào miệng bất kể thứ gì nắm được trong tay, và còn mãi tiếc nuối, nên thay vì “Cây cải về trời”, như thể lời ru rất thiêng liêng phải được bay về trời. cao vút, cao mãi. Vì thế mà bàn chân ta dong ruỗi với gói hành trang mang theo là những lời Mẹ ru; lỡ mai ta nằm xuống thì vẫn còn đó, còn hoài với đạo lý thế nhân. Đó chính là những lời ru.
Bao giờ cho đến mùa thu
Trái hồng, trái bưởi đánh đu giữa rằm.
Nhà thơ Nguyễn Duy chắc lúc tuổi thơ được thừa hưởng những kỷ niệm vui buồn dưới tàn cây ăn quả trong vườn nhà, mùa nào trái nấy, cho nên luôn nhìn được những trái quả trên cành mà Mẹ dành chờ qua rằm cúng Phật, cúng ông bà Tổ tiên, hoặc hái đem đi bán đổi gạo. Riêng tôi, những “Trái hồng-trái bưởi đánh đu giữa rằm” ấy là kỷ niệm về một cách lễ nghĩa mẹ dạy “Để mẹ hái cúng Phật, cúng Ông bà, xong rồi Mẹ cho ăn”, vì thế “đánh đu” của tôi có nghĩa là thèm thuồng bởi những trái cây cúng Phật, Ông bà thường được Mẹ chọn lựa trái to nhất, ngon nhất.
Bao giờ cho đến tháng năm
Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm
Bờ ao đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi.
Những ý thơ này chắc rằng ai ai cũng đều có diễm phúc tận hưởng. Dưới ánh mắt và trí tưởng tượng của tuổi thơ, nhìn vạn vật đều có thật một cách rất dễ dàng và gần gũi. Sao trên trời làm sao mà đếm được? Nhưng tuổi thơ đếm được ( một ông sao sáng hai ông sáng sao…) dù đó chỉ là vòng tròn không có kết thúc, dễ đưa ta vào…giấc ngủ! Để rồi các thế hệ nối thay nhau mà tiếp tục đếm; đếm hoài cho đến khi qua tuổi trưởng thành rồi nhường lại cho đàn con để ta ngồi vào vị trí của người Mẹ, cho nên:
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn
Dù trong nhận thức đã từng hiểu được giá trị đích thực của những chuẩn mực đạo đức cần thiết nơi mỗi con người, thế mà sao tôi vẫn phải giật mình khi đọc đến hai câu này! Quả thật, trong kho tàng hát ru của dân tộc, có câu nào mà không mang nặng một ý nghĩa nhân văn nào đó, kể cả những điều nhỏ nhất.
Ở người mẹ Việt nam, sữa và hát có đủ đầy nuôi bao thế hệ khôn lớn, vỗ an bao nghĩa đậm tình sâu nặng và đúc kết nên bản thiên trường ca tình Mẹ bất tử. Ngày nay có không ít em bé được lớn lên, được nuôi dưỡng từ sự ỷ lại và phó mặc; ru con bằng máy cassette mà trong đó vọng ra toàn là những giai điệu Pop-Rock-Disco-Hip hop…để rồi các em bé này lớn lên khi bập bẹ đã thốt ra những thanh âm ban đầu thay vì Ba-Mẹ thì là “Bai”-“Ok”..Lớn lên chút nữa thì “Ta là Triển hộ vệ đây”. “Ta là Ninza đây”. Cho nên chính nhà thơ đã phải lo lắng:
Bà ru Mẹ, Mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng ?
Chỉ có những đứa con được lớn lên mang trong mình cả xác lẫn hồn mẹ cho, dù có phiêu bạt góc bể chân trời vẫn không quên được nơi nào quê mẹ và vị trí đặt nôi võng khi xưa ta nằm. Ấy vậy mà niềm thương yêu trọn vẹn đó vẫn luôn da diết, ai hoài:
Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Để rồi nhà thơ chọn câu ca dao để kết thúc bài thơ như trả về cho đạo lý dân tộc một gia tài nguyên vẹn; lại nữa như muốn gợi ý với thế nhân rằng: dù thơ ca có hay đến thế nào đi nữa cũng không bằng chính lời ru mộc mạc khi nao, xem như sự kết thúc cũng là sự bắt đầu. Với tôi, đó còn là lời nhắn nhủ với những ai đã chóng quên cội nguồn, mà thiếu vắng nó không còn là một giá trị văn hóa-nhân bản của một dân tộc:

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.

Giác Đạo – Dương Kinh Thành



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2020(Xem: 6525)
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật! Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni! Kính thưa quý vị Phật tử! Nhân mùa Vu-lan năm 2020, con xin đảnh lễ, kính chúc chư Tôn đức Tăng Ni thêm một tuổi đạo, thành công hơn nữa trong các Phật sự, nhằm mang lại lợi ích và phúc lạc cho nhân sinh. Con kính chúc các bậc làm cha mẹ thêm một tuổi đời, làm nền tảng đạo đức và hạnh phúc cho con cháu trong gia đình và họ tộc. Con kính chúc tất cả các anh chị, các cháu thanh thiếu niên, đề cao đạo lý hiếu kính cha mẹ ông bà, thể hiện tinh thần tự lập, xa lánh các thói hư tật xấu, các thói quen nghiện ngập, hưởng thụ ăn chơi, để sống một cuộc đời hữu ích, và làm cho cha mẹ được hạnh phúc hiện tiền. Nhờ đó, có một tương lai tươi sáng.
02/09/2020(Xem: 7425)
Lễ Vu Lan PL 2564 (2020) tại Thiền Viện Minh Quang Sydney, thứ Tư 02/09/2020 (15/07/Canh Tý), Viện Chủ HT Thích Minh Hiếu.
02/09/2020(Xem: 3522)
Hạnh Phúc Đã nhiều năm bôn ba Khắp thế giới bao la Vẫn chưa nhận biết ra Chân hạnh phúc đâu là Bỗng trong một sắc na Ngắm ánh trăng trắng ngà Lá vàng rơi là đà Chợt bừng tỉnh hiểu ra Hạnh phúc chẳng đâu xa Mỗi khi quay về nhà Vui sống cùng mẹ cha Thật hạnh phúc đó là Hạnh phúc chẳng đâu xa Chính trong tầm tay ta Sống trung thực hiền hòa Luôn mở lòng vị tha Biết đủ không xa hoa Chiến thắng được nội ma Nhận thấy Phật trong ta Chân hạnh phúc rõ là. An tịnh tự tâm ta Ao sen rộ nở hoa Một lòng niệm Di Đà Hạnh phúc thật không xa. Bắc Úc, Mùa Vu Lan 2020 28/08/2020
01/09/2020(Xem: 3536)
Thắng Hội Vu lan trải đất trời Đang mùa dịch bệnh khắp nơi nơi Thương nhiều đói lạnh kêu không thấu Xót lắm phiền đau nói chẳng rồi Thành thị người thưa nhà phố lẻ Quê làng ruộng lỡ cảnh đời côi Quì hương khấn lễ mong qua khỏi Kiếp nạn còn vương sớm dứt rời. 1/9/2020 Minh Đạo
01/09/2020(Xem: 3959)
Mẹ ơi hôm nay ngày của mẹ. Viết tặng bài thơ Con dâng Mẹ. Nơi Con xứ khách trời se lạnh. Chạnh lòng Con nhớ tiếng ầu ơ. Thời gian hờ hững chẳng đoi chờ. Chợt giật mình Mẹ đã già nua. Mãi mê quay với dòng đời cuốn. Bóng Mẹ già mình hạc sương mai Hướng về Mẹ Con xin cầu nguyện. Con mong mẹ an lạc bên Phật Và Vu Lan cũng tưởng về Cha. Ngày xưa mưa nắng Cha dãi dầu. Gian nan khổ Cha đâu nán lòng Tóc Cha mây trắng phủ giang đâu. Con mong Cha mãi vui an lạc. Cha mãi làm đuốc sáng đời Con. Thích Nữ Diệu Liên
31/08/2020(Xem: 7695)
Hôm nay 30/8/2020, để tưởng nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của hai đấng sanh thành: Cha và Mẹ. Tứ chúng chùa Việt Nam, đồng tụng kinh Báo Hiếu để hướng nguyện về Cha Mẹ. Cầu cho Cha Mẹ hiện tiền thân tâm an ổn và phước thọ tăng trưởng. Cha Mẹ, Ông Bà và Tổ Tiên cửu hiền thất tổ quá cố ác đạo xa lìa, được sanh Tịnh Cảnh. Ngỏ hầu đáp đền một trong muôn phần thâm ân cao dày của hai đấng sanh thành của chúng ta. Và Lễ Quy Y Tam Bảo được diễn ra thanh tịnh và trang nghiêm. Cũng như lễ Cúng Thí Thực Cô Hồn trong sự thương tưởng đến người quá Cố của chúng ta bằng lời kinh, tiếng mõ thật trầm ấm. Nam Mô Vu Lan Duyên Khởi Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát.
31/08/2020(Xem: 7050)
Lễ Vu Lan PL 2564 (2020) tại Chùa Quốc Tế, Darwin, Bắc Úc (Thứ Bảy, 29/8/2020, nhằm ngày 11/7/Canh Tý)
30/08/2020(Xem: 12072)
Dâng dòng thơ Đạo an vui Nhiệm mầu pháp giới Mẹ cười mỉm chi Câu kinh gửi gắm trang dài Âm ba vi diệu một ngày Mẹ nghe Chuyện xưa ân nghĩa dâng về Rộn ràng xúc cảm, vắng hoe nỗi buồn Chữ Hiền, chữ Nhẫn, chữ Thương Thi ca bát ngát Mẹ thường gửi trao Từng câu ai điếu nghẹn ngào Từng lời từ ái dạt dào cho con Muôn vàn hương sắc ngời loang Là muôn vàn ý mãi còn đọng lưu Dâng dòng thơ ẩn chữ Tu Mẹ cười một nụ thiên thu nhẹ nhàng.
30/08/2020(Xem: 6532)
Lễ Vu Lan PL 2564 (2020) Tại Tổ Đình Pháp Hoa, Nam Úc Chủ Nhật 30/08/2020 nhằm ngày 12/07/ Canh Tý. Trụ Trì TT Thích Viên Trí.
30/08/2020(Xem: 4428)
Là người Việt Nam, ít ai không thuộc dăm ba câu trong Truyện Kiều, cũng ít ai không biết tác giả áng văn tuyệt tác viết bằng thể thơ lục bát đó là thi hào Nguyễn Du. Rất nhiều đoạn, nhiều câu, nhiều tình huống trong truyện Kiều đã trở thành văn học dân gian vì những tâm trạng, những hoàn cảnh đó quá gần gũi với môi trường thực tế trong xã hội, cả thời xưa cho đến ngày nay. Ngoài Truyện Kiều đã quảng bá khắp dân gian, thi hào Nguyễn Du còn là tác giả của một tác phẩm mà không mùa Vu Lan nào không được nhắc đến. Đó là bài “Văn tế thập loại chúng sinh”. Tự thân Nguyễn Du đã nhận chịu quá nhiều đau thương buồn tủi từ thuở ấu thơ nên tâm hồn rất nhạy cảm trước nỗi đau nhân thế. Những tác phẩm của tiên sinh thường bàng bạc tinh thần Phật Giáo qua luật nhân quả, vòng sinh tử luân hồi, vay trả mà chưa phân minh thì sau khi thác sẽ thành những oan hồn uổng tử, vất vưởng khắp chốn u tối mịt mùng. Những oan hồn đó chỉ trông chờ vào mùa mưa Tháng Bảy, m
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]