Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn hiếu dưỡng

10/04/201320:30(Xem: 4574)
Tản mạn hiếu dưỡng

vulan_muabaohieu 2Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2011

Tản mạn hiếu dưỡng

Thích Huệ Giáo

Nguồn: Thích Huệ Giáo

Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
Một trong nhiều buồn khổ lớn của đời ông đó là giai đoạn khi cha mất, ông sống với mẹ, cảnh mẹ ông trở nên quá phóng túng, lãng mạn, thật hết sức đau đớn và tủi nhục nếu cứ sống mãi trong cảnh ngộ này. Arthur Schopenhauer quyết định trốn nhà ra đi và dắt theo đứa em gái đến ở nơi khác, để em gái ông không tiêm nhiễm tác phong của bà mẹ vô phước, có đời sống phóng túng lãng mạn.
Mạnh Tử là một triết gia phương Đông. Khi còn thiếu thời, mẹ của Mạnh Tử đã nhiều lần thay đổi, chọn chỗ ở, quyết tâm không để màu trắng tâm hồn con mình nhuộm đen thói xấu. Đầu tiên là phố chợ nơi diễn ra nhiều cảnh tượng gian lận, đấu tranh của người lớn, kế đến lò mổ heo nơi nuôi dưỡng lòng giết hại, ác tâm và cuối cùng con đường dẫn đến gần trường học, một môi trường xây dựng nhân cách con người tốt có động lực thúc đẩy nhân cách của ông. Từ những nỗ lực của mẹ, để cuối cùng Mạnh Tử có một tiếp cận tốt đẹp trong ông, nhân cách đạo đức, một luồng tư tưởng nói lên bản chất con người trong quan niệm: Bản tính con người là thiện.
Tình phụ mẫu tử hiếu dưỡng, huynh đệ hiếu thuận, xét cho đến tận cùng ngõ ngách trong vũ trụ này, chúng ta thấy rằng, nơi đâu cũng đều có những tấm gương hiếu hạnh, sự lựa chọn nuôi dưỡng vĩ đại. Bởi lẽ, trong con người ai cũng có trái tim và lý trí, đây là sự khác biệt giữa con người và các loài khác (nhơn vi tối thắng).
Nền tảng từ trái tim và lý trí của con người trong mối quan hệ tương duyên nhân quả, Đức Phật đã triển khai và định hình hai thuộc tính ấy lên đỉnh cao tuyệt đối hóa thành tình thương và sự hiểu biết. Dưới con mắt trí tuệ, Đức Phật đã chỉ ra rằng, con người không thể sống tách biệt bởi một cá thể, nói rộng ra, không có một pháp nào tồn tại độc lập, chúng đều đồng trụ và phát triển trong mối tương duyên trùng trùng.
Con cái không thể không có sự chăm sóc chu đáo của cha mẹ, chúng khôn lớn trưởng thành không thể thiếu tình thương và sự hiểu biết của người lớn. Anh chị em có hòa hiếu với điều kiện không thể vắng mặt lòng thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Cũng thế, cha mẹ thiếu con cái, thiếu sự hiếu đễ của các con dành cho chắc hẳn cha mẹ đó sẽ thiếu hạnh phúc, gia đình ấy không an toàn. Tóm lại, không có sự hiểu biết chủ động trong sợi dây tình cảm thì một gia đình sẽ không trọn vẹn có một hạnh phúc tương đối khả dĩ được thiết lập.
Nhìn ra xã hội rộng lớn cũng thế, nếu không có ân tình, ân nghĩa làm chủ đạo trong giao tiếp thì xã hội sẽ lọan ly, môi trường ấy chỉ là cạnh tranh và giết chóc, không có một xã hội gọi là văn minh - tiến bộ - an lạc hạnh phúc, nếu con người chỉ biết sống cho mình, ích kỷ, vong thân, mất gốc.
Từ tình thương và sự hiểu biết, Đức Phật khẳng định trong đạo làm người, Hiếu là căn bản. Trong kinh Đại Tập có dạy rằng: "Sanh đời không có Phật, khéo thờ cha mẹ là thờ Phật". Và cũng thế, một trong năm tội lớn nhất, nhà Phật gọi là tội ngũ nghịch nếu ai phạm vào sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục Vô gián khó có thể thoát khỏi được, đó là: Bất hiếu với cha mẹ. Kinh Nhẫn Nhục ghi rằng: "Cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu".
Tuy nhiên, chúng ta nhớ rằng không phải vì sợi dây ràng buộc nhân quả của hiếu hạnh, mà chúng ta phải chấp nhận tất cả mọi thứ phi lý để trọn vẹn chữ hiếu. Hiếu không thể thiếu trí tuệ, tình cảm không thể thiếu lý trí. Không phải vì quá thương con, theo lòng tham khát của chúng mà những bậc làm cha mẹ đành phải hy sinh nhân phẩm, địa vị, quên luôn cả tội lỗi của hành động mình gây ra để cưng chiều, đáp ứng đòi hỏi sai trái của chúng. Cũng thế, không vì nghiệp chướng, tập khí của cha mẹ mà kẻ làm con phải lặng thinh để phục vụ những thèm khát ích kỷ, tà kiến của cha mẹ cho tròn chữ hiếu. Những thương - thảo - hiếu - nghĩa như thế, Đức Phật bác bỏ vì đó chỉ là những tình thương thiếu hiểu biết, những việc làm chỉ mang lại hậu quả xấu không những trong đời này mà chôn vùi lẫn nhau trong nhiều đời kế tiếp.
Kinh Phật dạy rằng, cha mẹ biết thương con là những bậc biết hướng con xa lìa nẻo ác, đến với nẻo thiện, biết hướng con vào mục đích sống có lợi cho mình và cho người chứ không phải lợi mình mà hại ngưòi. Làm con chí hiếu không những cung phụng đủ vật thực cần thiết để đền đáp công ơn nuôi dưỡng, những tháng năm khó nhọc tần tảo nuôi con mà cần phải biết tạo điều kiện để cha mẹ gần với việc thiện nếu cha mẹ đang đi trên nẻo ác. Cụ thể là biết quy hướng cha mẹ đến với Tam bảo nếu cha mẹ chưa gặp được Phật pháp để có một tánh linh trong sáng.
Arthur Schopenhauer dám mạnh dạn vượt qua tình cảm thiêng liêng, rời bỏ người mẹ kính yêu của mình ra đi, lý do đơn giản là để cho người em gái của mình khỏi trông thấy cảnh vẫy vùng nghiệp lực của mẹ mình, và hơn thế nữa để người em gái không vì gương ấy mà tiêm nhiễm, có nguy cơ hủy hoại cuộc đời của em mình trong tương lai, bởi lẽ hành động của cha mẹ là tấm gương phản chiếu, quyết định chiều suy tưởng của con cái sau này.
Người mẹ của ngài Mạnh Tử vì tình thương vô biên dám hy sinh đời sống yên ổn của mình, sẵn sàng di chuyển nhiều nơi, để tìm một chỗ xứng đáng khả dĩ là môi trường tốt, hoàn cảnh thuận lợi để con mình có cơ hội tiến thân, phát triển thiện tâm, không bị tạp khí ô nhiễm, tính xấu bên ngoài tác động.
Dưới cái nhìn của Đức Phật, chúng ta là những người con Phật có thể rút ra được nhiều bài học quý báu trong những gương hiếu hạnh từ xưa cho đến hôm nay. Cụ thể hai sự kiện trên có thể học được cách hiếu dưỡng cho đúng với tinh thần tri ân - báo ân thiêng liêng của con người bất biến với thời gian. Nếu làm người mà thiếu vắng đi suy tưởng ân tình nghĩa trọng, thiếu đi tấm lòng nhân nghĩa, mất đi tâm niệm đền ơn đáp trả, thì chính ngay lúc ấy con người đã đánh mất đi địa vị làm người của mình. Hơn thế nữa, hiếu nghĩa đã là một đạo lớn, đạo lý của loài người dù Đông Tây Nam Bắc,ở khắp phương trời nào chăng nữa cũng không thể xem thường.
Mùa Vu lan lại về, nhắc nhở chúng ta những người làm con chạnh lòng nhớ nghĩ đến các bậc sanh thành, ân tình với đồng loại cộng tồn dù hữu hình hay vô hình, để có những hành động thiết thực, đời sống phù hợp với một thế giới phát triển khoa học, mà trong đó nguồn sống tâm linh thật sự là chủ đạo.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2014(Xem: 9191)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
29/07/2014(Xem: 25112)
Hồng đỏ cài lên đẹp tuyệt vời Phải nên trân trọng nhé người ơi! Những ai còn mẹ còn hồng đỏ Màu đỏ thắm tươi vẻ rạng ngời
24/07/2014(Xem: 4641)
Tối nay ngồi vẽ Mẹ. Một người Mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt Mẹ đã xạm đen vì dãi dầu. Đôi mắt Mẹ đã trĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi Mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện.
24/07/2014(Xem: 4460)
Vu Lan là lễ truyền thống lâu đời có từ thời Đức Phật còn tại thế hơn 2,500 năm trước; đồng thời cũng là lễ tiết quan trọng phổ thông của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa mà tổ tiên chúng ta đã giữ gìn qua nhiều thế hệ. Lễ tiết Vu Lan hay Vu Lan thắng hội gắn liền với lễ giải Hạ - Tự tứ của Tăng đoàn Phật Giáo. Lễ Tự tứ có nghĩa là sau những tháng ngày tịnh tu Giới - Định - Tuệ, ba nghiệp của hành giả sâu lắng thanh tịnh; hai vị Tỳ kheo đối thú nhau chân thành bày tỏ khởi đi từ đạo tình cao quý nhẹ nhàng trong sáu tiếng: thấy tội, nghe tội, nghi tội, những mong đợi vị thầy đối diện chỉ bày cho ta thành tâm sám hối trước hội chúng và Tam Bảo, nguyện cải đổi không tái phạm, nếu xét thấy mình có tội. Thật là thành khẩn, cao đẹp trong hòa hài, từ bi, nhẫn thuận, bình đẳng. Nhẹ nhàng nhưng mang chất liệu tuệ giác tự thân và san sẻ với giác tha của người đối diện kết nên vòng nhân duyên thù thắng hầu tiến đến giác hạnh viên mãn.
24/07/2014(Xem: 4481)
Mỗi mùa Vu Lan đến Biết bao dòng lệ rơi Cho tình vô bờ bến Bày tỏ không nên lời Nghẹn ngào trong nước mắt Tưởng nhớ đến mẹ cha Ân tình cao chất ngất Suốt đời đã bôn ba
19/07/2014(Xem: 5080)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phật giáo chủ trương nhân quả theo nhau như hình với bóng, nghĩa là người gây nhân lành ắt sẽ hưởng quả tốt, ngược lại kẻ tham lam, vị kỷ, độc ác... chỉ biết lợi mình, không kể đến hậu quả làm phiền lụy khổ đau cho tha nhân, rộng ra là cả sinh linh vạn loại, đương nhiên sẽ gặp những phiền toái, chịu đựng những trách móc, oán hận của những nạn nhân, hay khi xả bỏ cuộc sống sẽ lãnh sự trừng phạt trong 3 ác đạo mà thế nhân hay tín ngưỡng nào cũng nghĩ bàn để khuyến miễn người đời phải lo tu thân hành thiện, làm đẹp nhân sinh. Mùa Vu Lan báo hiếu phát xuất từ đức Mục Kiền Liên kiếm tìm, thăm viếng rồi giải thoát mẹ ngài khỏi cảnh giới ngạ quỷ, có từ thời đức Phật còn tại thế; văn hóa thế nhân có từ khi loài người hướng về nẻo thiện. Gần chúng ta là văn hóa Á Đông, lấy nhân luân làm căn bản: Hiếu, đễ, tru
18/07/2014(Xem: 5011)
Nhờ năng lực của Tăng đoàn mà mẫu thân của ngài Mục Kiền Liên được thoát khỏi cảnh bi thống nơi chốn địa ngục. Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp là năng lực vô biên hóa giải được khổ đau từ cõi vô hình cho đến thế giới con người. Trọng tâm của Giáo hội chúng ta đặt ở sự hiệp lực này, trong ấy những Phật sự hằng năm của Giáo hội, tất cả tăng ni và thiện tín cùng nhau chung lo. Bốn phật sự thường xuyên của Giáo hội mà mỗi thành viên đều chung sức chung lòng đó là: Phật đản, An Cư, Khóa Tu Học Bắc Mỹ và Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ.
15/05/2014(Xem: 7158)
Hôm nay ngày giỗ của Ba tôi, tự dưng lòng tôi thèm viết một chuyện gì đó về Ba tôi…như nhà văn Võ Hồng thường khuyên mọi người nên viết lại những kỷ niệm sinh hoạt của cha, của mẹ mình, những kỷ niệm mà mình nhớ hơn hết, đáng nhớ hơn hết…để nhân ngày k?giỗ của cha mẹ, tập trung về, cùng đọc, cùng nghe, cùng xúc động, hồi tưởng công ơn. Con cháu sẽ có dịp sống lại không khí đại gia đình, con nhớ thương cha mẹ, cháu gần gủi, quý trọng ông bà!
16/10/2013(Xem: 19506)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
16/10/2013(Xem: 15443)
Kính lạy vong linh cha, Khác biệt với muôn ngàn trường hợp khi cầm viết đặt lên giấy. Con ghi lại vài nét – chỉ vài nét thôi về đời sống của cha – một người cha có lắm điều độc đáo, không những chỉ trong hàng con cháu mà bất cứ ai cũng công nhận là hãn hữu và cần rút tỉa những điểm son để soi sáng vào nếp sống của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]