Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thế giới hoan ca

10/04/201320:13(Xem: 4281)
Thế giới hoan ca

Phat_Thich_Ca_10Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2011

Thế giới hoan ca

Thích Huệ Giáo

Nguồn: Thích Huệ Giáo

Hạnh phúc thay chư Phật ra đời!
Xã hội Ấn Độ thời Đức Phật đản sinh, nằm trong một trạng thái đen tối và nhiều đau khổ. Sự u ám đó không phải phát sinh đơn thuần từ nghèo đói, bệnh tật mà chính là sự bế tắc từ tư tưởng con người. Biết bao học thuyết được dựng lên nhằm góp phần xóa tan nỗi khó khăn này bởi những nhà tư tưởng, tôn giáo, đạo học, tuy nhiên vẫn không chữa được căn bệnh mà con người đang vướng phải trong tâm thức của họ. Đó là sự bế tắc trong suy nghĩ, cuộc sống và trong thế giới con người họ đang cố vươn lên để tự khẳng định lấy mình, và trong hoài niệm một cõi hạnh phúc trần gian, chứ chưa nói đến một cõi thiên đường nào đó xa xôi.
Trước khi thái tử Tất Đạt Đa đản sinh và cho đến hôm nay, nền văn minh Ấn Độ vẫn được xem là một trong những chiếc nôi tạo nên nền văn minh của nhân loại. Nơi đây, một thời đã có rất nhiều triết thuyết đua nhau trổ hoa như vườn hoa đầy màu sắc, xuất hiện nhiều nhân vật lỗi lạc, minh triết làm tấm gương cho loài người soi rọi. Thế mà, cũng chính nơi đây, sự không bình đẳng trong giai cấp, giàu nghèo, địa vị, sang hèn, đen trắng có một khoảng cách quá lớn. Những hệ tư tưởng đó đã không mang lại nhiều ích lợi cho con người, không tháo gỡ được nỗi bất an trong cuộc sống, ngược lại những đau khổ, cuồng loạn cứ như bị chồng chất. Những hệ tư tưởng ấy được Đức Phật diễn tả đầy màu sắc bao gồm sáu phái triết học và những tôn giáo khác. Vậy mà, không có một sự đóng góp nào trong niềm khát vọng và ước mơ của con người, đó là được sống hạnh phúc bởi tạo dựng một thế giới hòa bình, xây dựng một đời sống an lạc và thịnh vượng là một niềm khát khao muôn thuở của nhân loại.
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để thực hiện ước mơ của mình, tạo dựng một thế giới an bình cho nội tâm và ngoại cảnh.
Thật vậy, Đức Phật đã từng tuyên bố: "Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn, máu cùng đỏ". Một lời tuyên bố như một sự khẳng định minh triết, một bản tâm ca đời sống của nhân loại. Vì con người không nhận chân được lòng tự quyết của chính mình và đã phủ nhận tánh linh cao thượng của người khác. Dẫu biết rằng, ai cũng có Phật tánh và ai cũng đều có thể trở nên cao thượng. Cao thượng hay thấp hèn, tất cả đều do quyết định của chính mỗi người. Không một Thượng đế ban phát, không một thần linh đặt để và không một thế lực bên ngoài nào có thể tạo ra sức mạnh cao hạ cho người khác, và cuối cùng không có một quyền năng siêu nhiên nào có thể mang lại hạnh phúc hay đau khổ cho loài người. "Chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm và chỉ có ta làm cho ta trong sạch" và "chỉ có ta làm cho ta hạnh phúc hay đau khổ".
Lời minh triết của Đức Phật đã tháo gỡ mọi xiềng xích, phá tung mọi ràng buộc, vướng kẹt của con người, tháo gỡ một hệ thống mà tư tưởng nội dung hàm ý Thượng đế là trên hết, thần linh là sáng tạo và cao cả.
Từ hệ tư tưởng "thần thánh" này bao phủ, con người cảm nhận mình trở nên nhỏ bé, và càng nhỏ bé thì hạnh phúc hay đau khổ - những vấn đề lớn của cuộc đời, con người không thể giải quyết được. Và cuối cùng là sự an phận, trong sự đen tối và tủi nhục, bởi sự thật thần thánh và Thượng đế không hề có sức mạnh, phép mầu như con người tưởng tượng ra.
Sự ra đời của Đức Phật đáp ứng được ước mơ của con người thời đại ấy và cho đến hôm nay, về sau, Ngài đã mang đến cho chúng ta một thông điệp an bình là cho đến khi nào con người còn biết rằng trong ta và trong mỗi người đều có sức mạnh chuyển hóa. Chuyển hóa từ sự nhận thức tầm thường của dục vọng, từ sự tham muốn thúc đẩy của dục ái, và từ sự tham muốn dứt khoát xả bỏ tư duy giữa cái ta và cái của ta, thì lúc ấy con người đã nắm lấy được thông điệp của Ngài và đi đến bên bờ hạnh phúc.
Đức Phật đã dạy cho chúng ta rằng, từ sự nhận thức và hành động có chủ đích của chúng ta trong hiện tại cũng như trong quá khứ như thế nào thì cánh cửa hạnh phúc hay đau khổ sẽ đón nhận chúng ta như thế đó. Chẳng một ai khác có thể cho chúng ta và nhận lãnh cho chúng ta điều này, đừng bao giờ hão huyền, lầm lẫn. Xác định vững chắc như thế, thì chúng ta đã thấy được một thế giới mà trong đó tâm tưởng và hình hài của chúng ta được xây dựng một cách hoàn hảo, hay bóp nát chính từ ngay chúng ta chứ không ai khác.
Bản An bình ca được thâu tóm như một lời minh triết của Đức Phật trao đến lòai người, đã làm bùng nổ, tan vỡ một hệ tư tưởng ràng buộc đã ăn sâu trong tâm trí của con người, và đã đưa chính họ vào ngõ cụt, không cửa thoát trong vòng tròn ưu phiền của đời sống và luân hồi sinh tử. Sự giải thoát ra khỏi hệ lụy của một hệ tư tưởng thần thánh đã mang đến nhiều hạnh phúc cho nhân loại, không những ở trước ngay thời điểm Đức Phật đản sinh, của những người con Ấn Độ thầm lặng mà cho đến tất cả mọi người trên thế giới bất kể đó là nam hay nữ, màu da, giai cấp và địa vị ngày hôm nay. Nếu chúng ta hiểu biết về sự bình đẳng, và mang chúng sống trong thế giới tương quan tương duyên này thì một điều chắc chắn hiện ra là không có sự đau khổ dằn vặt, mâu thuẫn giữa con người và con người với nhau.
Nhận thức được sự cao quý từ bên trong con người, sự bình đẳng đã có của mỗi người, quyền được sống ấm no, quyền được tái tạo gia đình và xã hội, quyền được cất lên tiếng nói tự đáy lòng thì chúng ta sẽ thấy được sự tham sống và mưu cầu hạnh phúc của kẻ khác, chiến tranh sẽ chấm dứt, khát vọng làm não hại con người sẽ được loại trừ, và tình yêu thương đồng loại sẽ được tăng trưởng.
Tình yêu thương đồng loại là một thuộc tính luôn có trong trái tim của con người, nó đồng hành với sự căm thù, và vô số thuộc tính khác, tuy nhiên con người không dám mạnh dạn loại bỏ những thuộc tính tiêu cực và phát triển sự yêu thương đó. Ngược lại, con người lại mong muốn trong ý thức hay vô tình gây tai họa cho đồng loại, muốn cường bá và muốn hơn thua cao hạ để khẳng định cái ta, một cái ta ảo ảnh mà cứ lầm tưởng đó là sự thật, và đó là trên hết. Nhưng thật sự, cái ta con người vin vào ấy chính là tập hợp của vọng tưởng điên đảo tạo thành, của kết tinh sự tham lam, sân hận, tập khí của ngu si, kiêu hãnh dựng nên để rồi chúng ta lầm lẫn bám víu vào chúng làm đời sống thật của mình để cuối cùng làm đau khổ cho nhau, cho đồng loại cộng tồn.
Vì không nhận thấy được lòng yêu thương vô bờ bến có sẵn bên trong của chúng ta, do đó chúng ta cứ sẵn sàng sử dụng mặt tiêu cực của tâm để gây chiến và phá hủy, trong đó môi trường, sự an sinh xã hội, sự nghèo đói lan tràn, đầy dẫy bệnh tật là hệ quả kéo theo bắt nguồn từ việc sử dụng mặt trái tiêu cực của mỗi con người. Và cuối cùng đã đưa thế giới chúng ta đang sống đến ngõ cụt trong sự bất an vẫn là bất an.
Cho đến khi nào con người biết vận dụng triệt để sự bình đẳng và lòng yêu thương này trong cái nhìn thật sâu sắc, có tư duy trong hành động dưới sự giám sát của tâm thức an tĩnh, bất hại trong cuộc sống ở đó là một sự tương quan của đồng loại không thể tách rời hay lọai trừ, thì lúc ấy ước mơ của con người được sống trong một thế giới thịnh vượng, hòa bình mới có thể khả dĩ được kiến tạo. Còn ngược lại, chúng ta chỉ tạo thêm nhiều đau khổ với nhau. Sự rêu rao hòa bình chỉ nằm trong sách vở, tâm tưởng và nằm trên bàn tròn của những kẻ tham vọng không bao giờ được hành động, có chăng là tấm lòng của những người được học những bài học tình thương sâu sắc, và ý thức được sự sinh tồn-yên ổn không bệnh tật, di căn của nhân lọai trong thế giới hiện tại và cho lớp người mai sau, mà họ đã quên mình xông pha vào chốn nguy hiểm, trong đó mạng sống chỉ là tơ chỉ.
Kỷ niệm ngày Phật đản sinh, chúng ta hãy cùng nhau đọc lại Thông điệp An bình của Đức Phật, và hãy hành động đưa thông điệp này vào trong mỗi con người, gia đình, quốc gia, và hãy làm cho thông điệp ấy được sáng tỏ như là cương lĩnh sống và hành động của tất cả mọi người, thì chúng ta sẽ thấy rằng trí tuệ siêu tuyệt của Đức Phật xuyên suốt thời gian đã đi cùng với ước mơ muôn thưở của loài người.
Nơi đây, thế giới sẽ cất tiếng vang ca lời hạnh phúc, yêu thương mà Đức Phật, một vị Thầy dẫn đường đã chỉ cho chúng ta thấy được cách đây hơn 2.500 trước, cho đến thời điểm này lời dạy ấy càng vang vọng trầm hùng đến độ nào, con người vẫn còn khao khát ước mơ đến chúng và luôn mong mỏi cho tất cả mọi người thực hiện chúng. Đây mới chính là niềm vui lớn, một niềm hạnh phúc cao cả chân thật vì chính chúng không bị chi phối bởi dục vọng của chúng ta. Niềm vui Đức Phật đản sinh. Niềm vui ánh sáng của Ngài đến với nhân loại. Niềm vui có những người luôn âm thầm thực hiện chúng. Niềm vui chúng ta biết nghĩ và biết biết sống trong tình thương không biên giới vô giai cấp. Một niềm vui xuất phát trong tâm thế bình đẳng.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4231)
Cứ mỗi lần mùa hiếu hạnh trở về là mỗi lần gợi lên trong mỗi chúng ta cảm xúc trào dâng về mẹ và cha. Vu Lan báo hiếu đã nghiễm nhiên trở thành lễ hội văn hóa của cả dân tộc, lễ hội văn hóa của tình người, của lòng từ bi ban vui và cứu khổ. Có thể nói, ngày lễ Vu Lan có tác dụng rất lớn đến quan điểm về cuộc sống của nhân sinh.
10/04/2013(Xem: 4204)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời trải dài xuống, cho đến hôm nay. Trong lòng nao nao, nhiều cảm khái, xúc động. Thật sự, có được thân người rất là khó và tự nhiên, lại nghĩ nhiều đến công ơn sinh thành, dưỡng dục cưu mang của cha mẹ…
10/04/2013(Xem: 5110)
Mẹ tôi có ba người con : Con trai lớn là Huỳnh lê Tiến, cô gái út là Huỳnh thị Mỹ Dung, tức văn sĩ Huỳnh Dung, và chúng tôi là Huỳnh trung Chánh. Trong ba anh em, nếu kể đến lòng hiếu thảo và thương yêu mãnh liệt có lẽ tôi không sánh bằng anh em tôi, nhưng tôi là đứa con có cơ duyên gần gũi với bà, chia sẽ đắng cay với bà vào những giây phút hiểm nguy trên cuộc đời như lần đi xuồng chèo trên giòng Cửu Long giữa cơn binh lửa từ Trà Vinh về Cao Lãnh năm 1945, lần gay go vượt biển đến trại tị nạn Mã Lai năm1977......
10/04/2013(Xem: 4378)
Qua khoảng thời gian dài suy nghĩ đắn đo, Mẹ quyết định rời chốn cũ theo về cùng em gái. Có lẽ tình thương dành cho người còn lại, vẫn nặng hơn người miên viễn cách xa. Mẹ vốn yếu mà không đuối, vì có niềm vui khi sống một mình, không bám víu, trông chờ từ con cháu. Nhưng ngoài những ngày an vui, bình lặng, còn có nhiều ngày thân chẳng chiều tâm.
10/04/2013(Xem: 4577)
Sau ngày cha mất, lũ con chợt khám phá ra tình mẹ dành cho cha quá đậm. Như cây cổ thụ xum xuê một ngày bật gốc, để lại người nép bóng phận đời chới với. Ngày ngày đưa tay quơ tìm giữa khoảng không còn lại. "Má bầy trẻ" và "ba thằng Đ" là cách xưng hô hàng ngày. Có lần giữa bữa ăn, em gái út tinh nghịch hỏi: Hồi mới gặp, ba má gọi nhau bằng gì?
10/04/2013(Xem: 5069)
Người đàn ông lạ ở tuổi trung niên có chiếc hoa trắng cài trên áo nhìn Lam chăm chú và khó hiểu. Lam rụt rè nhìn lại cười xã giao rồi quay đi, thầm nghĩ: "Lạ lắm, người này ta đã gặp ở đâu rồi ?”.Cố moi ký ức nhưng Lam không nhớ nổi, lúc này đây, dường như Lam chỉ còn nhớ đến sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” trong tâm tưởng thôi...........
10/04/2013(Xem: 4708)
Tuntu mỉm cười một mình với đôi mắt rực sáng. Sau đêm nay, nó sẽ được chấp thuận trở thành một chiến binh. Ngồi dựa lưng phía sau lều, nó nhìn bao quát về cánh phụ nữ của bộ tộc đang bận rộn chuẩn bị bữa ăn chiều. Vài cô gái già vừa làm, vừa hát vừa tám chuyện. Mùi hương dễ chịu của đất và củi đốt tràn ngập không gian. Tuntu thấy hạnh phúc và hoàn toàn mãn nguyện.
10/04/2013(Xem: 4068)
"Mẹ sẽ không quên mang theo cái cối xay khoai chứ mẹ?" Tôi hỏi qua điện thoại sau khi thông báo với mẹ tôi phải chuẩn bị đi mổ vú. Ngay ở cái tuổi tám mươi hai và một khoảng cách xa ba ngàn dặm, mẹ vẫn biết tôi muốn nói gì: món xúp khoai tây nghiền.
10/04/2013(Xem: 4603)
Sau khi mẹ tôi qua đời, bố tôi đã rất cố gắng để chứng tỏ mình vẫn mạnh khỏe và năng nổ. Khi thời tiết chưa chuyển sang lạnh giá, mỗi buổi sáng, ông bơi một mạch quanh hồ. Mỗi ngày - bất kể ông cảm thấy cơ thể như thế nào- ông bơi nhiều hơn ngày hôm trước một vòng, chỉ để chứng tỏ rằng mình luôn luôn có khả năng tiến tới. Cứ mỗi vài ngày ông lại báo cáo một kỷ lục bơi mới cho tôi với giọng đầy tự hào. Tôi sẽ thiệt thà trả lời "Chao ôi, Bố, con không biết là con có thể bơi nhiều như vậy không nữa!"
10/04/2013(Xem: 4310)
“Mẹ kể cho con nghe về mẹ khi mẹ bằng tuổi con đi” Tôi nài mẹ một buổi chiều sau khi từ trường trở về nhà. Mẹ ngừng khâu ngước lên nhìn, chừng như ngạc nhiên vì câu hỏi của tôi. Một lúc khá lâu, bà trả lời. “Mẹ không bao giờ giống như con. Mẹ không bao giờ mơ trở thành luật sư, giáo sư hay bất cứ một thứ gì khác hơn là một người vợ, một người mẹ, một người bà. Mẹ là đứa con lớn nhất trong mười hai đứa, và mỗi một giây phút thức giấc là đầy ắp công việc với trách nhiệm để duy trì cho gia đình có cái ăn cái mặc. .......
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]