Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mèo biết niệm Phật

10/04/201318:45(Xem: 5415)
Mèo biết niệm Phật

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2009

Mèo biết niệm Phật

Sandy Lin

Nguồn: Người kể: Sandy Lin Báo Vajra Bodhi Sea số tháng 8, 2006, trang 32-34

Lời Ban Biên Tập: Có một câu chuyện khác về mèo biết niệm Phật, nhưng làm sao để có bằng cớ là câu chuyện đó có thật hay không? Sau khi mèo mất, được chôn ở vườn sau của chùa, mặc dầu gần đó không ao nước gì cả, nhưng trên mộ nhỏ của mèo lại mọc lên một đóa hoa sen. Điều này cho thấy súc sanh cũng có Phật tánh. (Câu chuyện này được tường thuật đầy đủ trên Nguyệt San của chúng tôi - Vajra Bodhi Sea - số 159, số tháng 8, 2006, trang 32-34)

Sandy Lin và Mèo Bobo
Con mèo quí Bobo của tôi, tôi mua nó vào năm 1990, lúc đó tôi chưa học Phật pháp. Trước khi mua Bobo, tôi chẳng thích gì mấy con thú vật, nhưng vì tôi rất thương Bobo nên coi nó chẳng khác gì đứa con gái của tôi.
Năm 1993 do một nhân duyên hiếm có, tôi quy y Sư phụ thượng nhân, trở thành tín đồ Phật giáo, và dần dần tôi hiểu được giáo nghĩa của đạo Phật.
Tôi bắt đầu biết đến thế nào là “Lục Đạo Luân Hồi” và cũng biết được sự đau khổ của con đường súc sinh, nên tôi cố tìm mọi biện pháp để có thể giúp cho Bobo trong tương lai được thoát khỏi con đường súc sinh.
Ngày quy y tôi có nhờ Pháp Sư thay tôi hỏi Sư phụ thượng nhân:
“Mèo có thể quy y thượng nhân được không?”
Thượng nhân trả lời:
“Nghiệp chướng của mèo rất nặng, nếu quy y phải tốn một triệu.”
Tôi thật sự không hiểu nên hỏi các Đạo hữu khác:
“Không hiểu ý Sư phụ nói là tiền Đài Loan (tiền NT) hay tiền Mỹ ?” Nếu như thế, thì tôi không có đủ tiền để cho Bobo quy y Sư phụ thượng nhân, tôi phải nghĩ cách khác.
Trời đã không phụ lòng kẻ thành tâm, vào ngày 1 tháng 5 năm 1993, với sự cố gắng của tôi cuối cùng Bobo đã được quy y “Tam Bảo”, trở thành một Phật tử mèo Pháp danh “Lâm Từ Ba.”

Mèo Bobo, pháp danh: Lâm Từ Ba
Mùa xuân năm 1994, tôi có dịp may cùng với hai Đạo hữu đến bái kiến thượng nhân tại Burlingame. Tôi có bạch cùng sư phụ rằng tôi là người xin cho mèo được quy y vào lúc tôi quy y trước đây .
Lúc đó sư phụ nói với tôi rằng chỉ cần tôi cố gắng tu hành, tôi có thể độ nó, nó không cần quy y với ngài.
Sau khi Sư phụ thượng nhân viên tịch, tôi có thỉnh rất nhiều băng khai thị và băng giảng kinh do ngài thuyết giảng.
Tôi bắt đầu cho Bobo cùng với tôi nghe kinh, và để Bobo trước bàn thờ Phật -- trước pháp tượng của thượng nhân-- cầu xin sám hối, đồng thời trong nhà thường xuyên mở máy niệm Phật, hy vọng Bobo có thể cố gắng theo máy niệm Phật mà niệm hồng danh Phật.
Một hôm có môt Đạo hữu đến nhà thăm viếng thấy Bobo, họ cũng cất tiếng chào bằng câu “A Di Đà Phật!”. Bobo cũng ngẩng đầu lên hồi đáp bằng tiếng “mèo” “A Di Đà Phật!”
Sau khi Bobo được 10 tuổi, cứ khoảng 3 đến 4 tháng tôi lại đưa Bobo đi khám sức khỏe, vì 10 tuổi của mèo tương đương với 56 tuổi của người, sau đó mỗi năm của mèo bằng 4 năm tuổi của người.
Khi tuổi Bobo dần dần già đi, tôi thường xuyên nhắc nhở nó cố gắng niệm Phật, lúc lâm chung mới có thể vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.
Đầu năm 2005, bản báo cáo sức khỏe của Bobo cho biết nó mắc bệnh thận suy mãn tính, tôi luôn luôn cảnh tỉnh Bobo là nhất định phải cố gắng niệm Phật.
Bây giờ hồi tưởng lại, hình như Bobo đã biết trước nó gần đến lúc vãng sanh; vào những lúc nửa đêm khi tôi thức dậy, đều thấy nó nhìn tôi chăm chú, nhất là vài tháng trước khi nó vãng sanh.
Trong năm nay (2006) vào buổi sáng ngày 6 tháng Giêng, Bác sĩ Thú y gọi điên thoại đến bảo tôi cấp tốc làm thủ tục đưa Bobo vào bệnh viện thú y, vì tình trạng bệnh thận của Bobo đã nặng hơn trước kia nhiều.
Trên đường đi đến bệnh viện thú y, tôi luôn luôn nhắc nhở Bobo, nếu như nó không muôn lưu lại thế giới Ta bà nầy, nó có thể an tâm mà ra đi, cũng đừng lưu luyến gì đến tôi, phải cố gắng niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương Tịnh độ.
Tôi cũng yêu cầu bệnh viện thú y để máy niệm Phật kế bên Bobo; như thế, bất cứ lúc nào Bobo cũng nghe được danh hiệu Phật.
Bobo ở trong bệnh viện thú y được hai ngày rưỡi, vào buổi trưa ngày 8, Bác sĩ đột nhiên gọi điện thoại thông báo cho tôi biết, thận của Bobo mất chức năng, không thể bài tiết nước tiểu, bệnh trạng rất nghiêm trọng.
Bệnh thận của nó từ mãn tính trở thành cấp tính, khó cứu vãn, Bác sĩ thú y đề nghị cho nó “chết an lạc” giúp nó giảm bớt đau đớn; tôi không chút do dự liền từ chối ngay đề nghị của Bác sĩ, tôi lập tức đến bệnh viện, làm thủ tục cho Bobo xuất viện, đưa Bobo về nhà.
Tôi ở bên cạnh Bobo, luôn nhắc nhở nó phải nên buông xả tất cả, phải cố gắng niệm Phật, cầu sanh Tây phương Tịnh độ.
Bobo về đến nhà khoảng 6 giờ chiều ngày 8, và ra đi vĩnh viễn vào lúc 1 giờ 42 phút sáng ngày 9, Bobo ra đi rất an lạc, hoàn toàn không có những tình trạng xảy ra như Bác sĩ thú y đã cảnh cáo trước đây.
Bobo rất may mắn, tôi luôn luôn ngồi bên cạnh để trợ niệm cho nó; suốt cuộc đời tôi, đây là lần đầu tiên, tận mắt thấy được sự sống chết vô thường từ đầu đến cuối, trong tâm tôi hoàn toàn không có sự chuẩn bị, không thể dùng những từ ngữ nào có thể hình dung nổi sự tiếc nuối và đau xót trong tâm tôi.
Trong đời tôi lúc này là lúc đau khổ nhất và vui mừng nhất: đau khổ nhất là “sanh ly tử biệt”, mừng nhất là thấy Bobo được an lạc vãng sanh.
Bobo hỏa táng vào sáng ngày 19 tháng giêng năm 2006. Ngạc nhiên nhất là sau khi hỏa táng có rất nhiều xá lợi lưu lại, điều này cũng cho ta thấy được sự từ bi của Phật Bồ Tát cứu độ hàng súc sanh.

Xá lợi của Mèo Bo Bo Lâm Từ Ba
Không riêng gì con người hay súc sanh, chỉ cần ta có lòng thành tâm niệm Phật, Đức Phật A Di Đà nhất định sẽ đến tiếp độ ta.
Phật tử Mèo Lâm Từ Ba, kiếp nầy may mắn biết bao, tuy là súc sanh nhưng được Sư phụ, một vị cao tăng khai thị và giáo hóa, rốt cuộc làm cho nó phát đại bồ đề tâm và tinh tấn niệm Phật.
Nhờ Bobo mà cũng đươc học hỏi thêm, chúng ta phải biết trân quý cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta, và lúc nào cũng đừng quên tinh tấn dụng công tu hành. Cầu mong qua câu chuyện này sẽ giúp cho tất cả mọi người cùng tinh tấn tu hành.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4548)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4301)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5702)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 4824)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4471)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4615)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4182)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5067)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5287)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4385)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]