Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vu Lan tôn kính Mẹ

10/04/201317:46(Xem: 5020)
Vu Lan tôn kính Mẹ

mevaconTuyển tập bài viết về Vu Lan - 2008

Vu Lan tôn kính Mẹ

Hạnh Cơ

Nguồn: Hạnh Cơ

Hôm nay là ngày Rằm Tháng Bảy, ngày tự tứ của mười phương tăng chúng, ngày hoan hỉ của chư Phật, ngày hội Vu Lan để mọi người con Phật làm lễ Tôn kính và Tưởng nhớ công ơn Cha Mẹ.
Đức Phật dạy: “Công ơn Cha Mẹ sâu dầy vô tận. Dù vai phải cõng Cha, vai trái cõng Mẹ mà đi hàng trăm nghìn kiếp, người con vẫn không thể nào đền đáp nổi công ơn ấy!”
Còn công ơn nào to lớn hơn công ơn Cha Mạ! Bởi thế cho nên, dù Phật có dạy rằng: “Được sinh làm người là điều rất khó, nhưng đã sinh làm người mà được gặp Phật Pháp lại còn khó hơn!”, thế mà Ngài vẫn bảo rằng: “Nếu sinh nhằm đời khnôg có Phật, nhưng người con biết thờ Cha Mẹ cho trọn đạo hiếu, thì công đức cũng lớn như thờ Phật vậy!”
Ơn đức sâu dầy của Cha Maẹ được gói trọn trong bốn chữ SINH, THÀNH, DƯỠNG, DỤC. Bốn chữ thật giản dị, nhưng đã nói lên cái công trình vĩ đại, lâu dài, được thực hiện bằng tình thương yêu bao la của Cha Mẹ đối với con cái. Cho nên đã là người thì không ai là không mang nặng công ơn sinh thành dưỡng dục ấy; vì không ai là không có Cha Mẹ.
Cách đây hơn 25 thế kỉ, tôn giả Mục Kiền Liên, tuy bấy giờ đã trrưởng thành, đã xuất gia và tu chứng thánh quả A-la-hán, có thần thông siêu việt, nhưng vẫn không quên Mẹ, dù Bà đã quá vãng từ lâu. Nhờ có thần thông, tôn giả đã tìm thấy Mẹ đang chịu đau khổ cùng cực nơi chốn Ngạ-quỉ. Một bên là thánh tăng, một bên là ngạ quỉ, nhưng không vì thế mà có sự xa cách; vì ngạ quỉ ấy vẫn là Mẹ của con, và thánh tăng kia vẫn là con của Mẹ. Kiếp ngạ quỉ đã là quả báo đau khổ do nghiệp chướng quá nặng nề mà Bà đã tạo ra bởi tham sân si trong lúc còn sinh tiền, nhưng không vì thế mà tôn giả lẩn tránh Bà; bởi vì tôn giả trước sau vẫn là con của Bà. Mẹ thì bao giờ cũng thương yêu con, cho nên con bao giờ cũng thương yêu Mẹ; giản dị chỉ có thế. Cho nên nhân ngày tự tứ của chúng tăng vào Rằm tháng Bảy, tôn giả đã thiết lễ Vu Lan để cứu Mẹ giải thoát khỏi kiếp ngạ quỉ. Và kể từ đó, ngày Rằm tháng Bảy hằng năm đã trở thành NGÀY CỦA MẸ.
*
Thưa Mẹ kính yêu!
Hôm nay là NGÀY CỦA MẸ. Noi gương đức Mục Kiền Liên, con làm lễ Tôn Kính Mẹ, tưởng nhớ Mẹ, và báo hiếu Mẹ bằng cách cúng dường chư tăng nhân ngày tự tứ của các ngài. Nhờ tâm ý hoàn toàn thanh tịnh sau giờ phút tự tứ, sự chú nguyện của các ngài sẽ tỏa ra oai lực vô biên để mang phúc báo đến cho Mẹ.
Nhưng không phải chỉ có ngày hôm nay con mới tôn kính Mẹ, tưởng nhớ Mẹ, và báo hiếu Mẹ; mà ngày ngày con đều làm như vậy. Trong tâm niệm con lúc nào cũng có Mẹ. Làm sao con quên được Mẹ trong khi con vẫn đang ăn, đang ngủ, đang làm việc, đang sống trọn vẹn trong tình thương yêu dịu ngọt của Mẹ! Tình thương yêu của Mẹ bao phủ khắp cuộc đời con. Mẹ đã che chở, đùm bọc con ngay từ những ngày đầu tiên con được tượng hình trong bụng Mẹ. Mẹ đã giữ gìn từng bước đi, cẩn thận từng miến ăn, dè dặt từng lời nói...; thậm chí Mẹ đã nhẫn nhịn trước tất cả các lời sỉ nhục, vì Mẹ sợ cơn nóng giận râấ có thể gây ảnh hưởng xấu cho cái bào thai yếu đuối ở trong bụnh mình! Không lúc nào là Mẹ không nghĩ tới con và vì con. Chín tháng mang thai con là cả một thời gian dài đằng đẵng chịu đựng khó nhọc của Mẹ!
Rồi còn đau đớn nào bằng cái đau đớn của Mẹ trong giờ phút sinh ra con. Nỗi đau đớn của Mẹ như cắt da xẻ thịt, và sự nguy hiểm mà Mẹ phải trải qua còn rùng rợn hơn sự nguy hiểm của người vưọt đại dương trong cơn giông tố bão bùng. Vậy mà, vừa nghe được tiếng khóc chào đời của con, trên môi Mẹ đã nở ngay nụ cười sung sướng. Hạnh phúc tuyệt vời của Mẹ đấy.Tình thương vô biên của Mẹ đã biểu lộ hồn nhiên trong nụ cười thiêng liêng ấy. Và từ đó, ơn đức của Mẹ, công lao của Mẹ cứ chồng chất mãi trên người con, đến suốt cả cuộc đời; không phải tính bằng năm tháng ngày giờ, mà phải tính bằng sát na giây phút.
Con có thể quên đi mọi lời ca, nhưng câu hát “Lòng Mẹ bao la như biển Thái-bình rạt rào ......” thì không bao giờ con quên được. Tai con lúc nào cũng như văng vẳng tiếng ru của Mẹ ngày nào:
“À ơi,
“Công Cha như núi Thái-sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra...”
Nước nguồn thì không bao giờ hết được; vì nếu nư1ơc nguồn mà hết, thì sông biển sẽ cạn khô. Tình thương của Mẹ cũng bất tuyệt như nước nguồn.
Thưa Mẹ kính yếu! Con là con của Mẹ. Từ lúc còn là bào thai, con đã là con của Mẹ; mà mãi cho tới lúc tuổi già sức yếu, đầu bạc răng long, con cũng vẫn là con của Mẹ. Đã là con của Mẹ thì bao giờ con cũng được gội nhuần ơn đức của Mẹ. Dù Mẹ là bậc toàn thiện, hay do nghiệp lực chúng sinh mà trong đời Mẹ đã có phút nào gây nên lầm lỗi, thì Mẹ vẫn là Mẹ của con. Dù Mẹ đang sống bên con, hay đang chia cách, hoặc mai sau Mẹ có mãn phần, thì Mẹ vẫn là Mẹ của con. Ơn đức sinh thành dưỡng dục của Mẹ như trời cao biển rộng, không có thước nào để đo, không có cân nào để lường, không có lời nào để diễn tả cho cùng. Bởi vậy mà bao giờ con cũng tôn kính Mẹ, tưởng nhớ Mẹ, báo hiếu Mẹ.
Nhân Ngày Của Mẹ, kính lạy mười phương Chư Phật chứng giám, con luôn tự nhắc nhở, con đang hưởng hạnh phúc có Mẹ hiện tiền, con luôn hiếu dưỡng và thương kính Mẹ để khỏi ân hận về sau lúc Mẹ qua đời; còn Mẹ đã qua đời thì con luôn luôn cầu nguyện cho Mẹ, phải noi gương Mẹ mà sống ở đời, phải tu thiện tích đức để hồi hướng công đức ấy cho Mẹ được hưởng phước báo nơi cảnh giới an lạc.
Con kính yêu Mẹ đời đời.
NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4699)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4443)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5881)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 4953)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4597)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4712)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4276)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5154)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5390)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4468)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]