Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân mùa Vu Lan đọc lại thiên huyền sử Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất

10/04/201317:44(Xem: 4716)
Nhân mùa Vu Lan đọc lại thiên huyền sử Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất


bo tat muc kien lien-9

Nhân mùa Vu Lan đọc lại thiên huyền sử
Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất

 Thẩm Thệ Hà


Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất là đôi bạn tâm giao, thời niên thiếu cùng học đạo Bà La Môn, vì không tìm được chân lý ở đạo này nên cả hai ông đồng quy y Phật giáo. Chỉ 7 ngày sau quy y Phật, Mục Kiền Liên đắc quả A La Hán, được Thế Tôn khen là thần thông đệ nhất trong hàng mười đại đệ tử lớn của Phật.

Đức Thế Tôn thường xuyên răn đệ tử không nên thi thố thần thông với ngoại đạo, nhưng đối với Mục Kiền Liên, Thế Tôn không ngăn cấm vì Ngài biết tôn giả khéo léo phối hợp thần thông với trí huệ để hàng yêu, phục ngoại đạo giáo hóa chúng sinh.

Một buổi sáng, thành Xá Vệ tưng bừng náo nhiệt, rực rỡ cờ hoa. Dân chúng nhộn nhịp tổ chức lễ tuyên dương 96 giáo phái xuất gia, với sự chủ tọa của vua Ba Tư Nặc, sự hiện diện của Thái tử và quần thần văn võ. Muốn vào thành dự lễ, phải qua sông A Kỳ; mà sông A Kỳ hôm nay nước bỗng dân cao, sóng tràn lớp lớp, gió thổi ào ào, không thuyền bè nào qua sông được. Phái đoàn ngoại đạo dừng bước bên bờ sông, lo sợ không đến dự lễ kịp; vừa lúc ấy Phật và các đệ tử đến nơi. Thấy mặt nước mênh mông, hàng hàng đệ tử ngoại đạo ủ rũ bên bờ sông, Mục Kiền Liên vận thần thông chỉ ngón tay về phía trước, tức thì hiện ra một chiếc cầu thất bảo bắt ngang sông. Vừa thấy chiếc cầu báu bỗng nhiên xuất hiện, bọn ngoại đạo mừng rỡ reo to : "Trời giúp chúng ta rồi". Nhưng từ trên không có tiếng pháp âm vọng xuống :"Đó là cầu báu nghênh đón Phật". Mặc dù tiếng vang thông báo như sấm động bên tai, bọn ngoại đạo vẫn tranh nhau lên cầu, bỗng một tiếng nổ vang, chiếc cầu gãy làm hai, bọn ngoại đạo rơi xuống nước, vùng vẫy, kêu cứu. Khi đức Phật đến bờ sông thì chiếc cầu hiện lại như cũ, Phật và đoàn đệ tử chậm rãi bước lên cầu, thấy dưới sông bọn ngoại đạo đang loi ngoi trong dòng xoáy, trên những đợt sóng. Thế Tôn động lòng từ bi vận thần thông cứu hết mọi người lên cầu, cho đi theo sau Phật qua sông. Khi tất cả lên bờ, chiếc cầu bỗng nhiên biến mất.
Phái đoàn Phật giáo đến hội trường trước, được nhà vua và quần thần đón rước long trọng, cung nghinh vào hàng thượng khách. Bọn ngoại đạo theo sau, ướt mem, phờ phạc, chẳng khác nào một đám tàn binh. Đại hội trọng thể cử hành, Phật giáo được tuyên dương như vầng thái dương rực rỡ chiếu sáng khắp trần gian, đưa nhân loại đến bờ giải thoát. Bọn ngoại đạo cảm thấy hỗ thẹn vì sự thua kém của mình, một số đông giác ngộ tìm về chánh đạo, xin quy y với Đấng vô thượng Chánh đẳng Chánh giác Thích Ca Mâu Ni.
Một hôm, đức Phật bảo Mục Kiền Liên :" Tại biên giới Ấn Độ, có một nước lớn mà toàn thể dân chúng đều theo ngoại đạo Phạm Chí, một số người đã đắc ngũ thông. Ông hãy đến đó, dùng thần lực cảm hóa họ, giúp họ cải tà quy chánh".
Mục Kiền Liên vâng lệnh, cỡi gió bay về biên giới phía Bắc. Đến nơi, Ngài thấy bọn ngoại đạo đang bao quanh một ngọn núi lớn, dường như chúng đang dùng thần thông di chuyển hòn núi. Mục Kiền Liên nhẹ nhàng đáp xuống đỉnh núi, biến thân mình cao lớn tận hư không, đôi chân trụ bộ trên ngọn núi. Chúng ngoại đạo tận dụng hết thần thông mà hòn núi không thể lay động, họ kinh hoảng nhìn lên, thấy một sa môn cao lớn như người khổng lồ, thân sừng sững trên không, chân đạp ngọn núi. Thì ra vị Sa môn ấy dùng thần thông chống thần thông, làm cho hòn núi không di chuyển được. Bọn ngoại đạo vừa ngạc nhiên vừa kính phục, lễ phép hỏi :
- Tôn giả là ai? Sao lại có thần lực vĩ đại như vậy?
Mục Kiền Liên vui vẽ đáp:
- Ta là Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật.
Bọn ngoại đạo sợ hãi khẩn cầu:
- Hòn núi này ngăn trở giao thông, nhà vua ra lệnh cho chúng tôi phải phá tan nó đi vì lợi ích của bá tánh. Xin tôn giả giúp chúng tôi hoàn thành xứ mệnh.
Mục Kiền Liên cười nói:
- Việc ất dễ thôi, ta vui lòng giúp các ông. Các ông hãy xem đây...
Dứt lời, Tôn giả nhấn mạnh gót chân hòn núi hùng vĩ biến thành bình địa.
Mục Kiền Liên biến hóa trở lại người bình thường, từ không trung hạ xuống như một vị thiên thần.
Các Phạm Chí vô cùng kính phục:
Tôn giả thật thần thông quảng đại, Phật pháp hẳn huyền nhiê?, cao siêu. Xin Tôn giả cho chúng tôi quy y Phật.
Mục Kiền Liên hân hoan hướng dẫn bọn ngoại đạo về tịnh xá Trúc Lâm quy y Phật. Đức Thế Tôn khen ngợi Mục Kiền Liên biết khéo léo dùng thần thông để hàng phục ngoại đạo. Tôn giả đã làm tròn trách nhiệm một cách vẻ vang. Một buổi sáng xuân quang đãng, Tôn giả đi khất thực về, ngang qua một vườn hoa, tiết Xuân phân trăm hoa đua nở, muôn hồng nghìn tía khoe sắc đua hương. Từ trong vườn, một mỹ nhân bước ra, mình mai yểu điệu, dung nhan diễm lệ, khóe mắt lóng lánh gợi tình, môi hồng xinh tươi như đóa hoa vừa chớm nở. Giữa vườn hoa, nàng rực rỡ hơn cả muôn hoa. Bên cành biếc, nàng uyển chuyển thướt tha như cành liễu rũ. Nàng đến trước Mục Kiền Liên, cất giọng oanh vàng thỏ thẻ :
- Xin mời Tôn giả bước vào vườn hoa, tiện nữ xin dâng lễ vật cúng dường.
Thoạt nhìn qua, Mục Kiền Liên biết ngay đây là một kiều nữ do ngoại đạo sai đến để quyến rủ người tu hành. Nhưng nhan sắc kiều mị làm sao cám dỗ được bậc chân tu ! Mục Kiền Liên nghiêm giọng nói:
- Này cô nương ! Tôi đã nhận rõ chân tướng và ý đồ của cô rồi.
Phải chăng ngoại đạo phái cô phái cô đến để làm sa ngã kẻ tu hành ? Phải chăng vì tiền bạc mà cô cam tâm làm điều ô nhục ?
Kiều nữ vẫn thiết tha, khêu gọi:
- Tôn giả ơi ! Tuổi xuân giá đáng ngàn vàng, sao nỡ sống vô tình cho uổng phí ngày xanh. Xưa nay anh hùng không qua khỏi ải mỹ nhân, thần thông khó qua khỏi ải nhan sắc. Không lẽ Tôn giả là gỗ đá vô tri, không động tâm trước thuyền tình sóng sắc ?
Mục Kiền Liên nhìn nàng thương hại:
- Cô nương hãy mau tỉnh ngộ, cuộc đời là vô thường, nhan sắc cũng chỉ là hư vọng. Bậc chân tu chọn thuyền Bát nhã thoát khỏi trầm luân chớ không chìm đắm trong bể ái thuyền tình. Mong cô hãy hướng thiện, cải tà quy chánh, để khỏi phải chịu quả báo ghê rợn sau này.
Kiều nữ lộ vẻ buồn rầu:
- Tôn giả ơi ! Tiện nữ vì quá truân chuyên khổ não nên lạc lối lầm đường, dẫy đầy tội lỗi liệu có thể ăn năng hướng thiện được chăng ?
- Đời cô nương truân chuyên, khổ sở như thế nào ?
Nước mắt tuôn trào, kiều nữ ngậm ngùi bày tỏ :
- Thưa Tôn giả, tôi tên là Liên Hoa Sắc, quê ở Đứ? Xoa Thi La. Năm 16 tuổi, tôi xuất giá vu quy. Chẳng bao lâu biến cố xảy ra, cha tôi chết, mẹ tôi tư thông với chồng tôi. Thật là trái luân thường đạo lý, tôi đau khổ vô cùng. Tôi bỏ nhà ra đi, để lại một đứa con gái. Thời gian trôi qua, để khỏa lấp u buồn, tôi tái giá. Không ngờ chồng sau này có tánh phóng đãng, lấy vàng mua vợ bé. Chừng tôi biết được, truy ra mới biết nàng tiểu thiếp ấy là con gái tôi. Oan nghiệt thay số phận hồng nhan đa truân, nỗi khổ đau cứ dập dồn chồng chất. Tôi sinh ra hận đời, muốn trả thù đời. Từ đấy tôi sống buông thả vào con đường tội lỗi, làm gái buông hương để làm tan nát bao gia đình đầm ấm. Tôn giả ôi ! Càng ngày tôi càng bị lúng xâu vào bùn, không ngoi mình lên được nữa. Tôi lại sa vào vòng tà đạo, muốn hãm hại cả bậc chân tu. Giờ đây tôi chỉ còn muốn chết để dứt nợ trần gian không còn thiết gì với cõi đời này nữa.
Nói xong, nàng khóc thảm thiết. Mục Kiền Liên từ hòa an ủi:
- Cô nương đừng quá bi thương, phẫn chí. Bây giờ có chết đi, cô cũng không dứt được nợ trần đâu, vì luân hồi kiếp sau cô phải tiếp tục bị quả báo. Tốt hơn hết là cô nên thành tâm sám hối, quy y Phật pháp, hành tu thập thiện, mới mong an bình trong kiếp này và giải bớt nghiệp chướng ở kiếp sau.
Đôi mắt Liên Hoa Sắc bỗng sáng lên niềm tin tưởng, nàng phủ phục sát đất, cầu xin cứu độ. Thế là nhờ vận dụng thần thông và trí huệ, Mục Kiền Liên đã chứng minh "thần thông thắng sắc đẹp" và đưa được một kẻ chán đời, tuyệt vọng ra khỏi bể khổ trầm luân.
Một năm nọ, vào tháng bảy, Mục Kiền Liên đi khất thực bên bờ sông Hằng, chợt thấy một đàn ngạ quỷ xuống sông uống nước. Có quỷ bụng to như cái lu, tay chân như cây sậy, cổ họng nhỏ như cây kim, thấy thực phẩm ngon mà không ăn được. Có quỷ đầu to như cái đấu, lưỡi dài khắp châu thân, máu trong huyết quản cứ vận ngược từ dưới lên trên làm đau đớn vô ngần.
Tôn giả lấy làm xót thương, biết là do nhân quả báo ứng từ kiếp trước. Chặng nhớ đến mẹ già từ trần từ lâu, Tôn giả liền dùng thiên nhãn thông nhìn xuống âm phủ, Ngài thấy mẹ mình đang bị đọa trong ngạ quỷ, khổ sở, đau đớn vô cùng. Động lòng hiếu thảo, Ngài vận thần thông xuống thẳng địa ngục, mang bát đựng đầy cơm dâng mẹ. Bà mẹ nâng bát đưa lên miệng, cơm trong bát bỗng hóa thành lửa đỏ. Ngài buồn rầu muốn cứu mẹ, nhưng chưa biết làm cách nào.
Ngài trở về bạch với Phật mọi sự việc, xin Thế Tôn từ bi chỉ dạy. Đức Phật nghiêm trang giải rõ:
- Mục Kiền Liên ! Mẹ ông kiếp trước phỉ báng Tam Bảo, không tin luân hồi quả báo, kiếp này lúc sinh tiền làm nhiều điều tà ác, ích kỷ hại người, do đó bị đọa làm ngạ quỷ. Ông dù thần thông đệ nhất cũng không thắng được nghiệp báo.
Mục Kiền Liên khẩn khoảng cầu xin:
- Xin Thế Tôn chỉ dạy diệu pháp nào có thể cứu mẹ con thoát khỏi đường ngạ quỷ.
Đức Phật dạy :
- Mục Kiền Liên, ông hãy nghe cho kỹ hiếu đạo của ông tuy sâu, thần thông của ông tuy cao, nhưng thần lực cá nhân không giải trừ được ác nghiệp. Vậy ông phải nhờ oai lực của tập thể cao tăng mới giúp mẹ ông thoát khỏi khổ nạn. Đến ngày Rằm tháng Bảy là ngày giải hạ Tự tứ, ông phải thành tâm cúng dường chư cao Tăng, thánh chúng, nhờ sức thần tập thể mà giải thoát cho tội nhân. Nên nhớ cứ đến ngày này, ai có lòng thành thiết lập trai tăng cúng dường thánh chúng, nhất định cha mẹ đã chết sẽ được giãi thoát khỏi 3 đường khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), cha mẹ còn sống sẽ được an khang trường thọ phước lạc. Chẳng những cầu siêu cho cha mẹ, mà còn có thể cầu siêu cho tổ tiên bảy đời và lục thân quyến thuộc. Diệu pháp này gọi là Vu Lan Bồn.
Nghe lời Phật dạy, Mục Kiền Liên hoan hỷ tuân hành, giải thoát được mẹ khỏi khổ ngạ quỷ. Thấy sự ứng nghiệm nhiệm mầu, Ngài khuyến khích người thế gian nên noi theo gương Ngài để đền đáp ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Diệu pháp ấy được truyền bá đến nay thành lễ Vu Lan, cử hành trọng thể hàng năm ở các chùa vào ngày Rằm tháng Bảy âm lịch. Có điều lễ Vu Lan ngày nay không hội đủ các bậc cao Tăng đắc quả A La Hán, các vị Bích Chi Phật ở chốn thâm sơn, đồng nhất tâm thọ thực nên giảm đi phần ứng nghiệm diệu kỳ như thời Phật còn tại thế.
Mục Kiền Liên suốt đời nhiệt tâm tuyên dương Phật pháp, dùng thần thông trí huệ trấn áp ngoại đạo, tiếp dẫn chúng sanh. Bọn ngoại đạo rất căm thù Tôn giả, đợi cơ hội để ám hại.
Một hôm trên đường hoằng dương chánh pháp, Mục Kiền Liên đi ngang qua núi Ý Tư Xá Lê. Bọn lõa hình ngoại đạo thám thính biết rõ lộ trình, tụ tập nhau trên núi âm mưu phục kích. Khi Tôn giả vừa tới nơi mai phục, chúng từ trên núi xô đá xuống, đá rơi ầm ầm như sấm rền, thác đổ, che lấp cả lối đi. Nhục thân tứ đại của Tôn giả bị đá đập nát ngứu, máu tuôn đầm đìa. Thật là rùng rợn ! Thật là thảm thương ! Vậy mà bọn ngoại đạo lấy làm đắc ý, toại nguyện vì trả được mối thâm thù. Chúng không làm gì được Phật thì chúng sát hại đệ tử thượng thủ của Phật để làm cho Phật giáo mất quy danh.
Tin Tôn giả Mục Kiền Liên bị ám hại truyền đến tai Đức Thế Tôn và vua A Xà Thế. Nhà vua nổi giận hạ lệnh bắt hết cả ngàn hung thủ lõa thể ném vào hầm lửa, thần thức chúng bị sa vào địa ngục.
Mặc dù bọn hung thủ bị trừng phạt thích đáng theo luật người và luật quả báo, các Tỳ kheo đại chúng vẫn không ngăn được nỗi bi ai, tập hợp đến trước Phật, lệ thảm tuôn trào :
- Bạch Thế Tôn ! Tôn giả Mục Kiền Liên là đệ tử thượng thủ của Phật, là bậc A La Hán thần thông đệ nhất, suốt đời tận tâm phục vụ chân lý, chánh đạo, tại sao Ngài không dùng thần thông kháng ngoại đạo, để đến nỗi chết thảm thương như vậy ?
Đức Phật là bậc đại trí giác, biết trước mọi việc xảy ra nên Ngài không quá xúc động như đệ tử. Ngài ôn hòa khuyên nhủ :
- Các ông không nên quá bi ai. Ta đã từng nói : "Thần thông không thắng được nghiệp báo". Trước đây Đại Mục Kiền Liên không thể dùng thần thông để cứu mẹ thì nay Tôn giả cũng không thể dùng thần thông để cứu mình khỏi nghiệp lực.
Một Tỳ Kheo quá thương cảm, cất tiếng nghẹn ngào :
- Bạch Đức Thế Tôn ! Thế Tôn đã biết rõ nhân quả kiếp trước, kiếp này, sao Ngài không báo cho Mục Kiền Liên rõ để ông ấy dự phòng thảm nạn ?
Phật nghiêm trang nói :
- Này Tỳ kheo ! Ta không cần báo trước, Mục Kiền Liên cũng đã biết trước rồi. Tôn giả có thể dùng thần thông để bảo vệ mình nhưng đó không phải là biện pháp cứu cánh, vì nghiệp lực vẫn cứ đeo mang. Tôn giả biết trước mà vẫn an nhiên tiến đến cái chết vì Ngài muốn trả một lần cho dứt nghiệp hầu an nhàn hoàn thành Phật đạo ở kiếp sau. Cái cao quý nhất, tốt đẹp nhất là Mục Kiền Liên đã hy sinh tuẫn tử vì đạo pháp, nêu gương sáng cho mọi người, mọi thời. Các ông hãy noi gương ấy của Tôn giả.
Lời giáo huấn sâu xa của Đức Phật làm cho các đệ tử đều bình tâm tỉnh ngộ. Một Mục Kiền Liên hy sinh, bao nhiêu Mục Kiền Liên khác cũng sẽ nối tiếp hy sinh để chân lý được soi sáng, Phật pháp được trường tồn, nhân loại được giải thoát. Tinh thần tuẫn giáo của Mục Kiền Liên sẽ sáng ngời bất diệt ! Hình tượng thánh thiện của Mục Kiền Liên sẽ rực rỡ ngàn đời.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4698)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4443)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5879)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 4953)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4597)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4712)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4276)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5153)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5389)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4467)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]