Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về Với Vu Lan

07/08/201909:16(Xem: 3881)
Về Với Vu Lan

hoa hong4

VỀ  VỚI  VU  LAN



Vu Lan không xuất phát từ thời Phật giáo Nguyên thủy mà Thiền sư Thông Lạc đã bài xich, theo người cho rằng do chư Tổ Trung quốc bày đặt, và cũng cho rằng Vu Lan báo hiếu là lừa đảo trong thời chế độ phong kiến…mà Phật giáo Phát triển lạc dẫn quần chúng vào con đường ngoại đạo, nghĩa là PG phát triển tức PG đại thừa là tà giáo ngoại đạo.

“thế gian pháp tức  Phật pháp”  “ Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch Bồ đề, cáp như cầu thố giác”, Nghĩa là có chứng đắc thì cũng từ thế gian này mà chứng đắc, lìa thế gian đi tìm sự giác ngộ như người đi tìm sừng thỏ, vì thế mới gọi thế gian pháp tức Phật pháp. Dưới tầm nhìn của bậc tu chứng thì thế gian vẫn là cỏi Tịnh độ; Do vô minh của chúng sanh mà thấy vạn sự sai biệt đưa đến trầm luân khổ nạn.

Thế gian đa bệnh thì phương dược cũng đa dạng; ngay cả thuốc Tây chữa trị  bệnh đau đầu không chỉ có một loại. Thế thì ngoài thuốc Tây còn có Đông dược, mỗi chủng tộc còn có những phương dược riêng. Ngay cả đồng bào thiểu số cũng được Tổ tiên lưu truyền những phương thuốc đặc trị. Tùy bệnh nhân mà thầy thuốc kê toa thuốc khác nhau. Tây y chữa dứt cơn đau cấp thời, Đông y tìm ngay căn nguyên bệnh tật mà trị. Lương y ngày xưa, nhìn sắc diện bệnh nhân, âm thanh, tuổi tác so với vận niên và thời khí để định bệnh và gia giảm toa thuốc theo “quân thần tá sứ”.

Bệnh thân đã là thế thì bệnh tâm không thể đơn giản chỉ dùng vài “phương dược” mà có kết quả. Theo luât học, Phật chế giới khi có người phạm giới, cũng thế, đương thời, đồ chúng đầy đủ túc duyên, trùng phùng thời Phật tại thế, chỉ cần thân cận một bậc chứng đắc, trường lực của ngài cũng đủ ảnh hưởng hoán chuyển tâm thức đương cơ. Vì thế, giáo đoàn trên một ngàn hai trăm năm mươi vị nhập định chứng thiền dễ dàng. Chư Tăng đương thời căn cơ nhạy bén, ngài chỉ dạy “tứ Thánh đế, bát Thánh đạo,Minh sát tuệ còn gọi là Vipassana…”

Phật pháp càng xa khi căn cơ chúng sanh càng nhiễm trược, nghiệp quả sâu dày, không những bệnh tật phát sanh đa dạng, thì nghiệp thức vì thế cũng ô tạp đa dạng; Chúng sanh có thiện căn với Phật pháp thì ít, tuy cảm tình viên đến vơi Phật giáo thì nhiều, nhưng để tu tập thì không bao nhiêu, nhất là  Thiền định “chỉ - quán”. Chư Tổ tùy bệnh mà lập phương cho hợp với căn cơ đương đại, do vậy, phương dược điều trị nghiệp quả trầm luân phát sanh đa dạng. Nếu không có pháp môn Tịnh độ để dìu dắt những căn cơ u trệ, họ biết bám vào đâu để tu tập? Thiền cũng thế, Tổ sư thiền, Đại thừa thiền, Phản văn văn tự tánh, Lăng nghiêm đại định tu chứng viên thông…vô số pháp môn, nhưng không ví thế ra ngoài giáo lý căn bản của nhà Phật, cơ bản là “vô thường, khổ, vô ngã” “nhân quả”…

Tát cả chỉ là phương tiện để dẫn dắt, nhưng cái lỗi là do người sử dụng “phương dược”, biến phương tiện thành cứu cánh, đưa quần chúng từ mê lầm này sang mê lầm khác – tránh võ dưa lại gặp võ dừa. Đã là thế gian pháp tức Phật pháp thì cho dù bất cứ pháp nào cùng đều là phương tiện. Một viên sỏi tán vào gốc tre cũng giúp cho hành giả hoát nhiên đại ngộ.  Tà nhân hành chánh pháp, chánh pháp thành tà pháp, chánh nhân hành tà pháp, tà pháp là chánh pháp. Thế thì mọi pháp đều là phương tiện, pháp không có tội, chỉ có người hướng dẫn đúng sai mà thôi.

                                                        ***

Đồng ý Vu Lan báo hiếu không xuất phát từ giáo lý nguyên thủy, nhưng từ ngày Vu Lan biến thành truyền thống báo tứ trọng ân, đã giúp bao nhiêu người biết “uống nước nhớ nguồn”, chưa có người con Phật thuần thành nào đối xử tệ bạc, bất hiếu với đấng sanh thành. Phật giáo du nhập vào đất nước ta, hòa quyện với Nho giáo, làm đậm nét lễ nghĩa hiếu kính, dưỡng dục thâm ân; không những đối với ân sanh thành dưỡng dục, người con Phật còn biết tri ân Tổ quốc, ân đồng bào chúng sanh, ân thầy bạn. Đó không là nét đẹp văn hóa của Phật giáo, cho dù là Phật giáo phát triễn? Nếu là một Phật giáo theo ngôn từ của cố HT T.Thông Lạc là loại Phật giáo tà đạo thì vẫn đóng góp cho xã hội một nét văn hóa hữu ích, xóa nhiều tệ nạn trong những tội phạm không có tín ngưỡng, không tin vào luật “nhân quả”.Đó là một trong những cách Phật giáo đóng góp và đồng hành cùng dân tộc!

                                                ***

Cố HT Thông Lạc trả lời phỏng vấn của đệ tử về chủ đề Vu Lan báo Hiếu:

…….Một giáo pháp không có thế giới siêu hình, không có linh hồn người chết, không có đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, không có đấng Tạo Hóa,không có Thần linh và cũng không có ma quỷ..vì thế,câu chuyện Mục Liên Thanh Đề, ta thấy rõ là giáo pháp của ngoại đạo đang lồng trong giáo pháp của đạo Phật, mượn danh đức Phật để lừa gạt tín đồ Phật giáo theo đạo của mình mà không nghi ngờ, đó là cái khéo léo của Phật giáo phát triển…qua sự tích này đã biến ngày rằm tháng 7 trở thành một phong tục trong nhân gian, ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân…Đó là một thứ giáo pháp phi đạo đức, phi nhân quả,không công bằng và công lý…(vân đạo trưởng lão T.Thông Lạc)……

Người nghe HT trả lời, có cảm tưởng lý luận  của học thuyết “vô thần” hơn là tôn giáo tâm linh. Một tôn giáo không có tâm linh thì tu sẽ đi về đâu???Tóm lại, cho dù Vu Lan báo hiếu không xuất phát từ kinh điển nguyên thủy, không do Phật dạy, không có nghĩa những gì không từ kim khẩu của đức Thế tôn đều là vô nghĩa? Đức Phật không nói đến  tiện nghi khoa học ngày nay, chả lẽ mọi tiện nghi đều không thật? Phật đã nói, những gì ngài biết như lá trong rừng, những gì ngài dạy như nắm lá trong tay, thế thì những giáo lý hậu sanh giúp căn cơ trì trệ để bám vào tìm đường giải thoát cũng như giúp nhân sanh có đời sống đạo đúc không thể xem là tà ma ngoại đạo.Biết đâu, Phật sanh vào thời đại ngày nay, những lời dạy của ngài cũng không thể lìa 4.0…

Nếu tu mà không đem lại lợi lạc cho xã hội quần sanh, có nghĩa lánh xa trần tục mà vẫn sống nhờ trần tục thì thế nào?

Truyền thống Vu Lan báo hiếu không còn là của Phật giáo phát triển, nó trở thành văn hóa truyền thống dân tộc, tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ quá vãng, song thân tại đường, tưởng nhớ thể hiện qua âm nhạc, hành xử, lễ nghi, bố thí, phóng sanh, cúng dường…Trong suốt tháng bảy, nhiều người ăn chay trọn tháng,  chay kỳ cũng được gia tăng, bấy nhiêu cũng đủ tránh nghiệp sát, nhiều sinh vật cũng được thoát nạn; tình thương từ đó được tăng trưởng, tránh nhiều tệ nạn vì họ tin tháng bảy là tháng báo hiếu cho cha mẹ ông bà.

Người Phật tử chưa đủ duyên tiến tu trên đạo lộ giải thoát, những phương tiện như thế lá cách giáo dục không thể thiếu, vì vậy, cho dù ai kia chưa là Phật tử, hãy đến với Vu Lan như mùa Hiếu hạnh, đáp đền một phần thâm ân của cửu huyền thất tổ sâu dầy qua nhiều kiếp trầm luân.

 

MINH MÃN

04/8/2019



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/07/2014(Xem: 11613)
Hoài Vọng Mẫu Thân (thơ) Trần Trọng Khoái, Trần Kim Quế
30/07/2014(Xem: 11466)
Hiếu Niệm (thơ) của Trần Trọng Khoái
30/07/2014(Xem: 13725)
Ân Đức Sanh Thành (thơ) của Lão Thi Sĩ Trần Trọng Khoái
29/07/2014(Xem: 6110)
Cũng như có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâu dày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đã chỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau.
29/07/2014(Xem: 4866)
Lòng mẹ bao la như biển Thái bình dạt dào, Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào … Giữa khuya, âm thanh trầm bổng, sâu lắng ngọt ngào của một giọng hát nữ vang lên rồi vọng vào chốn thiền môn tĩnh lặng như xoáy vào tim. Con giật mình tỉnh giấc bàng hoàng nhớ Mẹ da diết. Nỗi nhớ làm con hạnh phúc, khiến con nhận ra tình mẫu tử thiêng liêng vẫn tồn tại giữa Mẹ và con. Vậy mà cả một thời gian dài, cả một đoạn đường đời, tình cảm ấy đã bị những oán hận, buồn tủi và sự vô cảm, vô tình làm con quên lãng, làm con không thể nhận ra được tình cảm của Mẹ cũng như nỗi đau day dứt của Mẹ. Giờ thì con đã hiểu nên biết nhớ biết thương khi tiếng hát về Mẹ vọng lên giữa đêm trường.
29/07/2014(Xem: 7333)
Hiếu thảo là truyền thống đạo đức quý báu của người Việt Nam nói riêng và người Á Đông nói chung . Chữ hiếu trong dân gian Việt Nam Người Việt Nam khi nói đến chữ Hiếu, liền nghĩ đến việc “thờ cha, kính mẹ”, như bài ca dao vở lòng mà ai cũng thuộc: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”; hoặc trong Quốc văn Giáo khoa thư ngày trước:
29/07/2014(Xem: 8645)
Siêng năng cần mẫn nhọc nhằn Công ơn Cha Mẹ vĩnh hằng cao sâu Đẹp thay chín chữ Cù lao: Sinh ra đau đớn xiết bao nhiêu tình Cúc thời nâng đở hy sinh Phủ năng chăm sóc vỗ về vuốt ve Súc thường bú mớm no nê Trưởng nuôi thể xác, dưỡng mê thân hình Dục thời dạy dỗ thâm tình Cố luôn trông ngắm xem nhìn thiết tha Phục quấn quít không rời tay Phúc lo đầy đủ ẳm bồng không xa
29/07/2014(Xem: 4704)
MƯỜI CÔNG ĐỨC CỦA MẸ Ơn Cha Mẹ sâu dày không kể xiết Suốt cuộc đời gian khổ cũng vì con Bao đắng cay sức lực dẫu hao mòn Đức hy sinh vẫn chẳng hề nao núng
29/07/2014(Xem: 9189)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]