Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vu Lan xa xứ

08/08/201606:12(Xem: 6212)
Vu Lan xa xứ

cha me-2

Vu Lan xa xứ

                                                    Gửi những người làm con nhân mùa Hiếu Hạnh Vu Lan

Quảng Anh Ngọc Hân

 

 

Mùa Thu, những cơn mưa sụt sùi của tháng Bảy cứ đều giọt trên mái nhà từ chiều đến tối làm cho hàng cây bên vệ đường cúi đầu ủ rủ. Cơn mưa sướt mướt của tháng Bảy mưa Ngâu, như nước mắt tao ngộ trên nhịp cầu Ô Thước của hai tâm hồn ly biệt! Mà nào chỉ có Ngưu Lang Chức Nữ mới chọn mùa mưa sụt sùi nầy để gặp gỡ nhau! Những oan hồn phiêu bạt cũng đợi mùa tháng Bảy Vu Lan, khi các cửa địa ngục mở toang, để lần mò về chốn cũ, nơi mà bao ước nguyện ngày xưa chưa tròn, bao ân tình chưa chu tất, bao nghiệp duyên nơi trần thế hãy còn mờ mờ nhân ảnh.

 

Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác mưa sa,
Lòng nào lòng chẳng thiết tha?
Cõi dương còn thế huống là cõi âm.

            (Nguyễn Du, Văn tế thập loại chúng sinh)

 

Cõi dương đã tang thương trong nỗi thống khổ triền miên của kiếp người thì cõi âm cũng thê lương, cô khổ, đọa đày. Người sống và kẻ chết đã “gặp” nhau qua các trai đàn chẩn tế hay các buổi siêu độ vong linh.

 

Thương thay thập loại chúng sinh, 
Phách đơn, hồn chiếc, lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Phận mồ côi lần lữa đêm đêm;
Còn chi ai khá ai hèn,
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu!
Tiết đầu thu dựng Đàn giải thoát,
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi.
Muôn nhờ Phật lực từ bi,
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương.

                      (Văn tế thập loại chúng sinh)

 

Nguyễn Du, nhà đại thi hào dân tộc đã làm cho người xa xứ nhớ về quê hương mỗi khi nghe câu thơ Kiều trỗi lên đâu đó và trong cái khí vị văn chương của tiết tháng Bảy, người ta không thể nào không nhớ đến bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của ông. Tuy vậy, sinh hoạt truyền thống nhân gian trong tiết tháng Bảy, chủ yếu vẫn là mùa Báo Hiếu Vu Lan, mùa của những đóa hồng hiếu hạnh. Vu Lan trên xứ người - nơi vùng đất ở tận cùng phương Nam của địa cầu - không có mưa Thu sụt sùi lất phất, mà chỉ có những cơn gió lạnh cuối Đông. Vu Lan tại Úc trở về với những cơn gió rít dữ dội như gió hú từ đồi cao và trong cái lạnh se da, lạnh mặt người. Đó là lúc mà mọi người cùng nhớ về những người thân yêu đã quá khuất, lòng ray rức bồi hồi, muốn làm điều gì đó để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục cho cha mẹ hiện tiền hay đã khuất, nhất là Mẹ, vì như trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật đã dạy Ngài A Nan rằng:

 

Đàn ông xương trắng nặng hoằng,

Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.

Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?

Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra

Sanh con ba đấu huyết ra

Tám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con

Vì cớ ấy hao mòn thân thể

Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.

 

Các bà mẹ là như thế đấy! Đặc biệt hơn nữa, có những bà mẹ Việt Nam trên những con thuyền tị nạn, lênh đênh trôi dạt giữa biển khơi thì làm gì có sữa  nuôi con nhưng lòng mẹ bao giờ cũng là đại dương yêu thương không bờ bến, vì thế mà mẹ đã xẻ thịt da mình lấy máu nuôi con. Gần đây hơn, có những bà mẹ trong trận cuồng phong kinh hoàng Nargis ở Miến Điện hồi tháng Năm năm nay, đã chết trong tư thế quỳ khom người lại để che cho đứa con được vòng tay bà ôm trọn trong lòng và kỳ diệu thay, đứa bé đã sống sót trong khối gạch đá đổ nát của cơn bão Nargis!

 

Lễ hội Vu-Lan-Bồn viết tắt là Vu-Lan có nguồn gốc từ Kinh Phật thuyết Vu-Lan-Bồn của Phật giáo đại thừa. Thuật ngữ Vu Lan Bồn là từ của Trung Hoa dịch âm chữ Phạn Ullambana. Ý nghĩa của chữ vu-lan-bồn được ngài Trí Húc dịch là "giải đảo huyền". Giải có ý nghĩa là cởi trói, giải thoát ai ra khỏi một cái ách nào đó. Đảo là ngược hay dốc đầu xuống đất, chân chỏng lên trời, nhằm ám chỉ cho hình thức nghiêm khắc và đau đớn tột độ của hình phạt. Huyền là "treo." Như vậy giải đảo huyền có nghĩa là "tháo bỏ các cực hình treo ngược",  cởi trói ách đau khổ cùng cực của chúng sanh trong các đường dữ. Theo tinh thần của kinh Vu Lan, cái khổ nguy khốn nhất của chúng sanh là bị sanh vào cảnh giới quỷ đói. Do đó, tháo gỡ cái cực hình treo ngược là tháo gỡ cái ách bị đày đọa trong cảnh giới ngạ quỷ và địa ngục.

 

Phật thuyết Vu-lan-bồn Kinh kể về nguyên nhân và phương pháp báo hiếu của tôn giả Mục Kiền Liên đối với thân mẫu của ngài bị tái sanh trong cảnh giới ngạ quỷ, đói khát, tiều tụy. Đại Mục Kiền Liên (Maha Moggallana) là một nhân vật lịch sử, sống cùng thời đức Thích Ca, Tôn giả là một vị giáo chủ có năm trăm đệ tử, sau đó quy y Phật, trở thành vị đệ tử "thần thông đệ nhất". Đức Phật đã khuyên tất cả những người con nên học theo gương hiếu hạnh của ngài Mục Kiền Liên để báo đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ hiện tại và cha mẹ bảy đời quá khứ.

 

Các nước thuộc văn minh Ấn Độ và Phật giáo Nguyên Thủy như: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào, Indonesia… không có ngày lễ Vu Lan, mặc dầu có thờ cúng ông bà, báo hiếu.

 

Lên chùa vào ngày Vu Lan, chúng ta sẽ được cài lên áo những bông hồng đỏ hay trắng để mừng cho diễm phúc còn cha mẹ hay để chia sẻ, cảm thông với nỗi buồn đã mất mẹ cha. Với tôi thì cái cảm xúc tiếc nuối, thiếu vắng và xót xa khi cài trên áo cành hoa trắng cho Ba tôi vẫn có sức công phá mãnh liệt hơn niềm hạnh phúc dịu dàng khi mang đóa hồng cho Mẹ. Bao kỷ niệm thời thơ ấu sống bên mẹ cha như con nước cuồn cuộn chảy về làm cho ta bồi hồi thổn thức. Mỗi người trong chúng ta đều có những kỷ niệm riêng để nhớ đời về Mẹ, về Cha và riêng với tôi, cái ấn tượng vẫn hằn sâu trong tâm khảm về Ba tôi, đó là câu trả lời của ông khi tôi lo lắng hỏi: Ba nghỉ làm công chức rồi lấy gì nuôi gia đình? - Ba sẽ đi buôn bán với bạn bè, làm công chức bạc bẽo lắm, tiền lãnh không bao nhiêu mà người ta nặng nhẹ đủ điều...

 

Tôi thật ngỡ ngàng khi biết được điều nầy và lúc ấy, tôi đã quay lưng để dấu  những giọt nước mắt đang chảy xuống. Tôi thương Ba tôi quá khi nhìn thấy sự hy sinh, nhẫn nhục của cha mình để nuôi dưỡng chị em chúng tôi nên người. Lần thứ hai lòng tôi đau xót khi nhìn thấy Ba tôi cứ ngồi trầm ngâm, thỉnh thoảng lại thở dài. Ba tôi đang làm một bài toán để có một quyết định khó khăn khi mà sau ngày 30 tháng 4, phương tiện sinh nhai của gia đình đã bị tịch thu, bị “quốc doanh hóa” trong khi em tôi thì đang nằm bệnh viện Grall với căn bệnh ngặt nghèo. Đáp số của bài toán là Ba tôi quyết định bán hết tư trang còn lại trong nhà để trang trải y phí, tiếp tục chữa trị cho con mình dù biết rằng con mình không còn bao lâu nữa sẽ vĩnh viễn ra đi trong lúc tương lai của gia đình, của những người “sống” không biết sẽ ra sao trong hoàn cảnh thay chủ của đất nước. Nước mắt tôi một lần nữa lại chảy xuống trong đời trước tình thương trầm lặng nhưng cao ngất vững vàng như Thái sơn của Ba tôi. Nguyện cầu cho Ba nương nhờ Phật lực để gặp lại hai em của tôi ở một cõi an lành nào đó...

 

Đối với Má tôi, cái hình ảnh ngồi mút xương của bà vĩnh viễn không phai mờ trong tâm khảm tôi. Gia đình đông con, cực nhọc, khó khăn đủ điều, Má tôi lúc nào cũng chỉ quanh quẩn xó bếp và sống chui rúc trong nhà, ít khi có dịp chuyện vãn hay giao tiếp với bên ngoài nên tâm hồn bà thật đơn giản, lời nói của bà thật mộc mạc. Khi cả nhà quây quần bên mâm cơm, lúc nào bà cũng bận rộn bưng dọn và gắp thức ăn vào chén cho mọi người, đến khi con cái đã ăn xong, lúc ấy bà mới ngồi vào bàn. Thấy bà gắp cá chia hết cho các con, tôi thắc mắc: ủa! chia hết rồi lấy gì Má ăn. Bà xua tay trả lời: Má không thích, ăn dĩa rau luộc nầy được rồi. Trí óc non nớt của tôi lúc ấy đã nghe và tin như vậy. Cơm nước xong, chị em chúng tôi lên nhà trên học bài. Lát sau trở xuống bếp để lấy nước uống, tôi nhìn thấy Má tôi đang ngồi mút lại từng mẩu xương cá mà chúng tôi vừa thải ra! Có thể như thế được chăng? Sao con cái như chúng tôi lại vô tâm đến thế? Sự hối hận làm tôi buồn lịm trong lòng... Má tôi đã nhịn ăn để nhường phần ngon cho chúng tôi no đủ và khôn lớn. Bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày rồi? Chắc chắn là cả đời bà đã hy sinh như thế, hy sinh cả cuộc đời bà nữa chứ không chỉ phần cơm áo. Ôi sự hy sinh của cha mẹ làm cho ngôn từ của thế gian bị giới hạn, chúng ta là những nhánh sông con mà Mẹ là biển lớn đưa nước chảy vào làm đầy lòng sông. Bởi vậy trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật đã bảo đại chúng rằng:

 

“Ví lại có người, trải trăm ngàn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm ngàn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy xém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một."

                                                              *        *

                                                                   *

Chuông chùa tháng Bảy đã ngân vang, hãy cùng nhớ lại kỷ niệm ngày nào bên cha mẹ để thương cha, thương mẹ nhiều hơn vì có người trong chúng ta đang ở vào cảnh: Ba (hay Má) đâu còn nữa để về! Chúng ta hãy nhân ngày Rằm Tháng Bảy của mùa Vu Lan báo hiếu cũng là ngày Tự Tứ thêm tuổi đạo của chư Tăng Ni, với tự lực chân thành của chúng ta và với tha lực nương nhờ đạo lực thanh tịnh của chư Tăng Ni sau ba tháng an cư kiết hạ, để nguyện cầu cho cha mẹ hiện đời được an lành, hạnh phúc trong chánh pháp, tổ tiên quyến thuộc đã khuất được siêu thăng Tịnh độ. Vu Lan cũng là dịp để những người con Phật tỏ lòng thương yêu rộng lớn và nguyện cầu giải thoát đến tất cả chúng sinh còn đang đau khổ đọa đày trong cảnh địa ngục ngạ quỷ. Trong khói hương trầm tỏa bay trước trai đàn chẩn tế, xin mượn các câu thơ của thi hào Nguyễn Du thay cho lời cầu nguyện của chúng ta nhân mùa Vu Lan nầy:

Kiếp phù sinh như bào như ảnh,
Có chữ rằng: vạn cảnh giai không;
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

.......... Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không;
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.

(Văn tế thập loại chúng sinh)

 

                                                                                              

Sydney Mùa Vu Lan

Quảng Anh Ngọc Hân

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 3373)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 3763)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 4472)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 3370)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
10/04/2013(Xem: 3551)
Đức Phật thường được ca tụng như một bậc vĩ nhân. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, bởi vì vĩ nhân thường được hiểu như những bậc kỳ tài xuất chúng trong một lĩnh vực nào đó, hoặc có thể là nhiều lĩnh vực, mang lại lợi lạc cho con người trong một mức độ nào đó. Có thể là một vĩ nhân ở phương Đông nhưng chưa hẵn là kỳ tài ở phương Tây.
10/04/2013(Xem: 5553)
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: "Tín là gốc của Đạo, là mẹ đẻ của mọi thứ công đức, nuôi lớn hết thảy gốc của Thiện". Đối với tôn giáo nói chung, đức tin phần lớn là bước đầu tiên để con người phát sinh lòng mến yêu đạo. Trong đạo Phật, tín là một trong những điều kiện căn bản để thành tựu các công đức lành (Tín- Hạnh- nguyện). Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói: Tin ta mà không hiểu ta là hủy báng ta.
10/04/2013(Xem: 3610)
Trong tất cả công việc, trước khi tiến hành thì bao giờ cũng vậy, chúng ta thường nghĩ đến mục đích của công việc sẽ làm sau đó, đưa ra nhiều suy tính, cách làm nào để đạt đến mục đích ấy. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng lý tưởng, ước vọng công việc trong mỗi người ai cũng có, nhưng không phải ai cũng có thể thực hiện được. Có người đạt được mục tiêu trong thời gian ngắn, có người tốn kém nhiều thời gian, có người dễ dàng nhưng với người khác thì không thể trôi chảy. Cuối cùng vẫn có những người không bao giờ đạt được mục tiêu mà mình đã đề ra.
10/04/2013(Xem: 3748)
Để trở thành một người Phật tử, việc phát nguyện Quy y Tam Bảo và giữ gìn Ngũ giới là tâm nguyện, là việc cần làm đầu tiên. Do đó, chúng ta cần phải học và tìm hiểu, để thực hành hầu mang lại nhiều lợi lạc cho chính chúng ta, gia đình và khả dĩ kiến tạo một xã hội tốt đẹp.
10/04/2013(Xem: 3599)
Như chúng ta đã biết, Phật giáo Thái Lan là một trung tâm Phật giáo Nguyên thủy có tầm cỡ trong khu vực cũng như trên thế giới, về chất cũng như lượng. Ở Thái Lan, Phật giáo là quốc giáo, hơn 95% dân chúng Thái theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy. Bên cạnh đó, không kể một số lượng lớn người nước ngoài đến Thái Lan để tu tập, nghiên cứu và học hỏi về truyền thống Phật giáo này.
10/04/2013(Xem: 3925)
Phật sự viên thành là lời tán thán, cầu nguyện chúng ta thường nghe trong lễ hội, các buổi tụng kinh sau phần hồi hướng, ước nguyện thành tựu của những người con Phật luôn mong muốn trong sự thừa hành Phật đạo. Ý nghĩa cao cả của người Phật tử ở phần tự thân (tự giác) là giải trừ tam độc ở mỗi con người, diệt trừ mọi phiền não, nhằm hướng đến nhất tâm thanh tịnh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567