Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mùa Vu Lan nhớ nhà văn Võ Hồng

07/08/201309:38(Xem: 5687)
Mùa Vu Lan nhớ nhà văn Võ Hồng

Mùa Vu Lan nhớ nhà văn VÕ HỒNG

Thay_Vo_Hong_Thich_Giac_Tam
Năm nào cũng vậy mỗi khi sắp đến ngày lễ Vu Lan là tôi đọc lại Võ Hồng: Nghĩ về mẹ, Một bông hồng cho cha, Tiếng chuông triêu mộ, Áo em cài hoa trắng, Mái chùa xưa, Màu áo nâu sòng, Đi con đường khác, Hữu thân hữu khổ….
Đọc ông để ôn lại cách viết của ông, cách viết hết sức tình cảm ân nghĩa của ông, qua cách viết tràn ngập tình người, tình quê hương đất nước mà ông đã lay động không biết bao nhiêu trái tim hướng thiện, hướng về các đấng sinh thành. Có một năm nọ, nhân ngày lễ Vu Lan tôi có tặng cho một vị đi làm cách mạng nhưng đã về hưu một cuốn tùy bút “ Tiếng chuông triêu mộ”của nhà văn Võ Hồng. Đọc xong ông cảm ơn tôi và phát biểu: “ Tôi không ngờ đạo Phật dễ thương dễ cảm như vậy, nhiều chục năm nay tôi không để tâm đến vì nghĩ rằng đạo Phật mê tín dị đoan.

Đọc Võ Hồng tôi thích cách viết của ông với những câu:Bà con nông thôn gần gũi với chùa, thương kính ông Phật, không phải vì hiểu biết giáo lý Phật giáo. Những tiếng Tam quy, ngũ giới, Thập nhị nhân duyên... đa số không biết, không hiểu, mà chỉ biết nhìn theo các Thầy mà làm lành lánh dữ, cố gắng theo gương các Thầy mà bớt phạm sát sinh. Triết lý vốn sáng mà lạnh. Rất hay để nói, rất êm để nghe, mà phàm nói hay thì thường ít làm. Thì hãy cứ vui hồn nhiên như người đàn bà kia, tin rằng lễ Phật xong, đem tiền phát cho những người nghèo ngồi đợi xin ở bậc thềm trước chùa là lúc chết sẽ được Phật dắt về Tây phương Cực lạc”.

hoặc đoạn này: “ Mỗi lần chắp tay lắng nghe các Tăng Ni niệm bốn câu kệ, lòng tôi xúc động rộn ràng. Có hôm cơ hồ muốn rơi nước mắt khi nghe tụng tới câu PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ NGUYỆN ÐOẠN. Tôi muốn cất tiếng kêu lên: Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao”. và đoạn này nữa: “Tôi không là Phật tử. Không biết tụng kinh. Nhưng tôi lại dễ xao xuyến dạt dào mỗi lần nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc đó tôi tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở đời mà cuối nhìn xuống thân phận yếu đuối nhỏ mọn của mình. Chỉ một hơi thở thôi, cuộc đời chỉ có nghĩa là một hơi thở mà thôi, rất nhẹ và rất mong manh. Chỉ cần hơi thở ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả”.


Văn của ông như vậy đấy! Tâm của ông rất thiện lành, tình của ông chan hòa tất cả, một áng mây trời bay mông lung vô định, một tiếng chim chiều kêu vô vọng nơi thôn ấp xa, một giòng nước chảy dưới cầu Ngân Sơn , Tuy An , Phú Yên quê ông cũng làm lòng ông xao xuyến, và ông đã biết cách chuyển tải nỗi niềm xao xuyến, rung cảm của ông qua chúng ta, qua độc giả của ông, đời viết văn của ông, ông đã thành công là vậy.

Ông viết về Đạo Phật hay là vì ông được cái duyên sống gần Phật, ông có dạy ở Viện cao đẳng Phật học Hải Đức, có dạy ở trường Bồ Đề Nha Trang, tính ông hiền lành dễ gần gũi nên được các Thầy các Sư cô quý mến, Hòa thượng Trí Thủ và các vị cao tăng Phật giáo sống ở Nha Trang cũng rất thương quý ông. Tiếng niệm Phật, tiếng Đại hồng chung, tiếng chuông tiếng mõ, màu áo nâu sòng, sinh hoạt lễ hội của Phật giáo Nha Trang đã thầm lặng đi vào trong tâm ông mỗi khi mỗi ít, thấm đẫm lòng từ bi của nhà Phật mỗi ngày một chút, nên ông đã trở thành Phật tử lúc nào không hay, và viết về đạo Phật thâm trầm cảm động, tự nhiên như nhiên , như ta đã thấy qua các tác phẩm của ông. Về già là thế, còn những ngày còn trẻ tình yêu của ông lại càng dào dạt mông mênh hơn.

Lần đầu tiên đọc tác phẩm của ông là truyện dài Hoa Bươm Bướm cách đây gần 40 năm, tôi thích nhân vật Luân của ông ( cũng chính là ông)và tình yêu lãng mạn nhẹ nhàng của Luân với Quỳ (vợ ôngsau này):Trên chuyến tàu đêm từ Suối Cát về Tháp Chàm, Luân cầm tay Quỳ và nói như trong một giấc mơ. Rồi chàng rụt rè bỏ tay Quỳ ra, nhưng những ngón tay Quỳ xoay lên giữ bàn tay chàng lại, cầm bàn tay đó áp lên má mình đang đầy nước mắt”. Truyện “Con suối mùaxuân”là chuyện tình yêu đôi lứa mà ông viết rất thành công. Trong truyện có ba nhân vật chính: Mỹ Khuê, Tịnh và Annie. Truyện này tôi đọc rất lâu trong một tạp chí văn học trước năm 1975, đã lâu lắm rồi mà tôi vẫn còn nhớ được một đoạn rất có duyên như thế này: “Annie! Nàng đột nhiên hiện đến chiều nay nhí nhảnh, bất ngờ như một dòng suối nhỏ hát róc rách giữa một vùng hoa lá, nhưng cũng đủ làm xáo trộn hồn tôi. Rồi thoáng chốc nàng vụt bỏ đi, để tôi trầm ngâm đứng giữa bãi bể vắng này như con suối đã bỏ xa một vũng nước sâu nằm lặng yên trên bờ lau sậy, mang nặng trong lòng nó những lớp lá úa và những dải rong rối ren chằng chịt”.

Tôi luôn ngưỡng mộ người có tài có đức, có dịp là tìm thăm để biết mặt, để nghe tiếng nói, bởi trăm nghe không bằng một thấy. Chính vì vậy mà tôi biết rất nhiều các vị cao tăng Phật giáo, tìm gặp các nhà văn mà mình yêu thích, ít nhiều chịu ảnh hưởng của họ. Năm 2003 tôi có việc vào Nha Trang, tìm đến thăm Nhà Văn Võ Hồng ở số nhà 51 đường Hồng Bàng, đã tìm hiểu từ trước rồi, tôi khẽ khàng kéo dây chuông, một lát sau có một ông lão trán cao tóc bạc với đôi gò má cao ra mở cổng. Lần đầu tiên gặp nhà văn Võ Hồng, nhưng tôi đã nhìn thấy ông qua hình ảnh in trên sách báo tạp chí rồi, tấm ảnh của ông mà tôi thích nhất là tấm ảnh mà nhà văn Tạ Tỵ vẽ ông trong tác phẩm “10 khuôn mặt văn nghệ hôm nay”, chỉ vẽ nét thôi mà rất giống ông: Đầu to, trán cao, hai gò má cao, khuôn mặt xương xẩu.

Nhà văn Võ Hồng dắt tôi vào nhà, nhà vắng lặng lạnh lẽo vì thiếu bóng dáng đàn bà, con cháu. Ông sống một mình, cơm có người nấu đem tới cho ông. Sau khi chào hỏi xã giao, ông tự đi pha nước mời tôi, nhà cửa bộn bề sách vở ngổn ngang, ông tiếp chuyện tôi thân tình vì biết tôi là một độc giả yêu thích tác phẩm ông, đọc ông rất nhiều, và có hiểu ông nữa. Tôi liệt kê các tác phẩm của ông viết mà tôi đã đọc qua: “Từ tác phẩm đầu tiên Hoài cố nhân 1959, Hoa bươm bướm 1966, cho đến tác phẩm in sau 1975 Trong vùng rêu im lặng… Cho ông nghe, tôi có nhắc đến truyện Con suối mùa xuân, Tiếng chuông triêu mộ, Đi con đường khác… Ông nói Thầy đọc tôi hiểu tôi, làm tôi cảm động quá! Ở Nha Trang đây có thầy Thích Phước An cũng thích văn tôi, có lần Thầy Phước An nói với tôi là cách viết của Thầy có ảnh hưởng từ cách viết của tôi, tôi cảm ơn quý Thầy.

Cùng đi với tôi đến thăm ông có Phật tử Long người Nha Trang, tôi nói Long đi nhờ một người thợ chụp ảnh đến để chụp một vài tấm ảnh để kỷ niệm với ông. Ông nói để tôi thay cái quần, mặc cái áo cho đàng hoàng để chụp ảnh với Thầy, ăn mặc không nghiêm chỉnh chụp ảnh với Thầy kỳ lắm! Lên căn gát phía trên tôi lấy chiếc ghế nhựa mời ông ngồi xuống, tôi đứng phía sau, rồi bảo người thợ bấm máy. Ông nói: “Tôi ngồi mà Thầy đứng thất lễ chết”. Tôi trả lời: “ Không sau đâu Thầy (rất nhiều người gọi nhà văn Võ Hồng là thầy) con chỉ là một người học trò nhỏ của Thầy thôi mà, với lại tuổi đời Thầy đáng tuổi ba con”. Haitấm kế tiếp tôi với ông cùng ngồi cùng đứng với nhau.

Văn nghiệp của ông để lại cho đời, cho nền văn học Việt Nam rất đáng kể, nhìn những tác phẩm liệt kê sau đây chúng ta sẽ nhận ra điều đó: Truyện đầu tay của ông đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội) năm 1939 với bút hiệu Ngân Sơn. Các tác phẩm đã xuất bản của Võ Hồng gồm có các tiểu thuyết: Hoài Cố Nhân (Ban Mai, 1959), Hoa Bươm Bướm (Lá Bối, 1966), Người Về Đầu Non(Văn, 1968), Gió Cuốn(Lá Bối, 1968), Những Giọt Đắng(Lá Bối, 1969), Nhánh Rong Phiêu Bạc(Lá Bối, 1970), Như Cánh Chim Bay(tiếp Hoa Bươm Bướm, Lá Bối, 1971). Các tập truyện ngắn: Lá Vẫn Xanh(Thời Mới, 1962), Vết Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965), Khoảng Mát(An Tiêm, 1966), Con Suối Mùa Xuân(Lá Bối, 1966), Bên Kia Đường(Mặt Trời, 1968), Trầm Mặc Cây Rừng(Lá Bối, 1971), Áo Em Cài Hoa Trắng(Lá Bối, 1969), Trận Đòn Hòa Giải(Lá Bối, 1970), Xuất Hành Năm Mới (Lá Bối, 1971) ……

Trong tác phẩm của ông chúng ta thấy được tình yêu đất nước, quê hương của ông, ông luôn nặng lòng với quê hương của ông, làng Ngân Sơn, An Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, rất nhiều trang viết của ông là hình ảnh quê nhà, chùa nhà, cây khế cây chanh nhà, tiếng chim nhà….Tình yêu chung, tình yêu riêng của ông cũng lai láng mật ngọt, nhưng rồi ông luôn than thở mình cô đơn: “Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao”. Trong những bức thư viết riêng cho nhà văn Mang Viên Long ông cũng luôn than thở: “… Thư nhận vào dịp Tết nhộn nhịp nên không kịp hồi âm. Mong anh thứ lỗi khiếm nhã. Tôi vốn không đến nỗi lười nhưng mà những ngày tháng gần đây cũng thêm heo hút cô đơn nên tôi lì tôi bỏ phế hết. Cả đến chuyện viết lách và làm ăn.” (thư 27-2-72).

Vợ ông mất khi ông còn rất trẻ 35 tuổi, ở vậy nuôi ba con cho ăn học thành tài, và định cư ở nước ngoài, còn ông, ông vẫn ở lại một thân một mình, âm thầm lặng lẽ, ẩn cư. Ông thường than thở mình cô đơn là vậy. Năm tôi ghé thăm ông 2003, trí nhớ ông còn minh mẫn nhớ đến tác phẩm mình, nhớ đến nhân vật trong tác phẩm mình, nhưng rồi sau đó mỗi ngày mỗi bệnh tật, trí nhớ kém dần ông bắt đầu lãng quên, quên tác phẩm mình viết, quên nhân vật mình viết, quên những kỷ niệm đẹp của một thời hoa mộng, quên tiếng chuông thu không của chùa Hải Đức, quên màu áo nâu sòng của các Thầy, các Sư cô vốn là học trò mình, quên cả người thân của mình nữa, những năm tháng cuối đời người con gái mà ông thương yêu nhất đã từ Pháp về ở bên cạnh ông , chăm sóc cho ông, đó là chị Võ thị Diệu Hằng, ngưỡng mộ tài năng chị có lần tôi đã điện thoại hỏi thăm.

Sinh lão bệnh tử trong kiếp người ai cũng phải trải qua, đi qua. Nhưng với chúng ta: tôi, anh,chị, em…. kẻ không có danh tiếng gì, không có đóng góp gì cho cuộc đời, nhân thế. Đến đi trong trần gian này cũng chỉ như viên sỏi nhỏ ném vào lòng đại dương, xao dợn lăn tăn rồi chìm vào hư vô quên lãng, không có gì đáng nói để nói. Còn với các vị có đóng góp lớn cho đời cho đạo về già mà mất trí nhớ, lú lẫn, lòng chúng ta cảm thương vô hạn.

Chỉ cần đọc lại văn nghiệp của ông, hoặc nếu không thể chỉ cần đọc lại những đoạn trích dẫn ngắn ở trên, hoặc rải rác đây đó, chúng ta cũng thấy được tấm lòng ông đối với nhân thế, văn phong của ông chân chất mà tài hoa rất mực. Rồi vô thường đến ông lặng lẽ, lãng quên tất cả, quẳng đi tất cả để ra đi. Tấm lòng vì nhân thế của ông, văn chương chữ nghĩa đầy tính nhân văn để lại cho đời, tâm ông lành và thiện chắc chắn ông sẽ tái sinh vào cảnh giới tốt đẹp. Cũng như mọi năm, mùa Vu Lan năm nay chùa Bửu Minh của chúng tôi sẽ có lễ bông hông cài áo, sẽ đọc đoản văn Bông hồng cài áo của thiền sư NH, và tùy bút Nghĩ về mẹ, Một bông hồng cho cha, của ông, để nhắc nhở Phật tử mình rằng cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu.

Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, ngồi viết lại những dòng chữ đầy kỷ niệm với ông, để nhớ ông, để học hỏi cách viết của ông, và cũng nhắc mình rằng nhớ cầu siêu cho ông trong ngày Đại lễ Vu Lan báo hiếu, một nhà văn cư sĩ Phật tử chân chính của nhà Phật. Ông mất ngày 31.3.2013 (20 tháng 2, Quý Tỵ) hưởng thọ 92 tuổi.

Mùa Vu Lan PL.2557 (2013)

Chùa Bửu Minh, Ngày 29 tháng 6 năm Quý Tỵ

Thích Giác Tâm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2020(Xem: 6824)
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật! Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni! Kính thưa quý vị Phật tử! Nhân mùa Vu-lan năm 2020, con xin đảnh lễ, kính chúc chư Tôn đức Tăng Ni thêm một tuổi đạo, thành công hơn nữa trong các Phật sự, nhằm mang lại lợi ích và phúc lạc cho nhân sinh. Con kính chúc các bậc làm cha mẹ thêm một tuổi đời, làm nền tảng đạo đức và hạnh phúc cho con cháu trong gia đình và họ tộc. Con kính chúc tất cả các anh chị, các cháu thanh thiếu niên, đề cao đạo lý hiếu kính cha mẹ ông bà, thể hiện tinh thần tự lập, xa lánh các thói hư tật xấu, các thói quen nghiện ngập, hưởng thụ ăn chơi, để sống một cuộc đời hữu ích, và làm cho cha mẹ được hạnh phúc hiện tiền. Nhờ đó, có một tương lai tươi sáng.
02/09/2020(Xem: 7576)
Lễ Vu Lan PL 2564 (2020) tại Thiền Viện Minh Quang Sydney, thứ Tư 02/09/2020 (15/07/Canh Tý), Viện Chủ HT Thích Minh Hiếu.
02/09/2020(Xem: 3602)
Hạnh Phúc Đã nhiều năm bôn ba Khắp thế giới bao la Vẫn chưa nhận biết ra Chân hạnh phúc đâu là Bỗng trong một sắc na Ngắm ánh trăng trắng ngà Lá vàng rơi là đà Chợt bừng tỉnh hiểu ra Hạnh phúc chẳng đâu xa Mỗi khi quay về nhà Vui sống cùng mẹ cha Thật hạnh phúc đó là Hạnh phúc chẳng đâu xa Chính trong tầm tay ta Sống trung thực hiền hòa Luôn mở lòng vị tha Biết đủ không xa hoa Chiến thắng được nội ma Nhận thấy Phật trong ta Chân hạnh phúc rõ là. An tịnh tự tâm ta Ao sen rộ nở hoa Một lòng niệm Di Đà Hạnh phúc thật không xa. Bắc Úc, Mùa Vu Lan 2020 28/08/2020
01/09/2020(Xem: 3625)
Thắng Hội Vu lan trải đất trời Đang mùa dịch bệnh khắp nơi nơi Thương nhiều đói lạnh kêu không thấu Xót lắm phiền đau nói chẳng rồi Thành thị người thưa nhà phố lẻ Quê làng ruộng lỡ cảnh đời côi Quì hương khấn lễ mong qua khỏi Kiếp nạn còn vương sớm dứt rời. 1/9/2020 Minh Đạo
01/09/2020(Xem: 4061)
Mẹ ơi hôm nay ngày của mẹ. Viết tặng bài thơ Con dâng Mẹ. Nơi Con xứ khách trời se lạnh. Chạnh lòng Con nhớ tiếng ầu ơ. Thời gian hờ hững chẳng đoi chờ. Chợt giật mình Mẹ đã già nua. Mãi mê quay với dòng đời cuốn. Bóng Mẹ già mình hạc sương mai Hướng về Mẹ Con xin cầu nguyện. Con mong mẹ an lạc bên Phật Và Vu Lan cũng tưởng về Cha. Ngày xưa mưa nắng Cha dãi dầu. Gian nan khổ Cha đâu nán lòng Tóc Cha mây trắng phủ giang đâu. Con mong Cha mãi vui an lạc. Cha mãi làm đuốc sáng đời Con. Thích Nữ Diệu Liên
31/08/2020(Xem: 7892)
Hôm nay 30/8/2020, để tưởng nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của hai đấng sanh thành: Cha và Mẹ. Tứ chúng chùa Việt Nam, đồng tụng kinh Báo Hiếu để hướng nguyện về Cha Mẹ. Cầu cho Cha Mẹ hiện tiền thân tâm an ổn và phước thọ tăng trưởng. Cha Mẹ, Ông Bà và Tổ Tiên cửu hiền thất tổ quá cố ác đạo xa lìa, được sanh Tịnh Cảnh. Ngỏ hầu đáp đền một trong muôn phần thâm ân cao dày của hai đấng sanh thành của chúng ta. Và Lễ Quy Y Tam Bảo được diễn ra thanh tịnh và trang nghiêm. Cũng như lễ Cúng Thí Thực Cô Hồn trong sự thương tưởng đến người quá Cố của chúng ta bằng lời kinh, tiếng mõ thật trầm ấm. Nam Mô Vu Lan Duyên Khởi Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát.
31/08/2020(Xem: 7291)
Lễ Vu Lan PL 2564 (2020) tại Chùa Quốc Tế, Darwin, Bắc Úc (Thứ Bảy, 29/8/2020, nhằm ngày 11/7/Canh Tý)
30/08/2020(Xem: 12641)
Dâng dòng thơ Đạo an vui Nhiệm mầu pháp giới Mẹ cười mỉm chi Câu kinh gửi gắm trang dài Âm ba vi diệu một ngày Mẹ nghe Chuyện xưa ân nghĩa dâng về Rộn ràng xúc cảm, vắng hoe nỗi buồn Chữ Hiền, chữ Nhẫn, chữ Thương Thi ca bát ngát Mẹ thường gửi trao Từng câu ai điếu nghẹn ngào Từng lời từ ái dạt dào cho con Muôn vàn hương sắc ngời loang Là muôn vàn ý mãi còn đọng lưu Dâng dòng thơ ẩn chữ Tu Mẹ cười một nụ thiên thu nhẹ nhàng.
30/08/2020(Xem: 6755)
Lễ Vu Lan PL 2564 (2020) Tại Tổ Đình Pháp Hoa, Nam Úc Chủ Nhật 30/08/2020 nhằm ngày 12/07/ Canh Tý. Trụ Trì TT Thích Viên Trí.
30/08/2020(Xem: 4575)
Là người Việt Nam, ít ai không thuộc dăm ba câu trong Truyện Kiều, cũng ít ai không biết tác giả áng văn tuyệt tác viết bằng thể thơ lục bát đó là thi hào Nguyễn Du. Rất nhiều đoạn, nhiều câu, nhiều tình huống trong truyện Kiều đã trở thành văn học dân gian vì những tâm trạng, những hoàn cảnh đó quá gần gũi với môi trường thực tế trong xã hội, cả thời xưa cho đến ngày nay. Ngoài Truyện Kiều đã quảng bá khắp dân gian, thi hào Nguyễn Du còn là tác giả của một tác phẩm mà không mùa Vu Lan nào không được nhắc đến. Đó là bài “Văn tế thập loại chúng sinh”. Tự thân Nguyễn Du đã nhận chịu quá nhiều đau thương buồn tủi từ thuở ấu thơ nên tâm hồn rất nhạy cảm trước nỗi đau nhân thế. Những tác phẩm của tiên sinh thường bàng bạc tinh thần Phật Giáo qua luật nhân quả, vòng sinh tử luân hồi, vay trả mà chưa phân minh thì sau khi thác sẽ thành những oan hồn uổng tử, vất vưởng khắp chốn u tối mịt mùng. Những oan hồn đó chỉ trông chờ vào mùa mưa Tháng Bảy, m
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]