Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiếu của người - Hiếu theo Phật

26/08/201113:51(Xem: 5388)
Hiếu của người - Hiếu theo Phật
chu-hieu

Hiếu là nền tảng đạo đức của con người, là tiêu chuẩn để đánh giá tư cách làm người. Trước khi bàn tính chuyện hôn nhân cho con, những câu hỏi đầu tiên dành cho cô dâu hoặc chú rễ tương lai là học hành tới đâu, nghề nghiệp như thế nào. Nhưng câu hỏi sau cùng là đứa con gái, con trai kia ăn ở có hiếu với cha mẹ không (dò xét qua hàng xóm láng giềng). Qua câu hỏi này người lớn mới đưa tới quyết định việc cưới hỏi kia được hay là không. Thật rõ ràng một kẻ bất hiếu với cha mẹ cho dù là có địa vị, giàu sang đi nữa thì cũng chẳng ra làm sao, chẳng có ai tôn trọng.

Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện. Có những hành vi bản năng như khi ngồi vây quanh bên đống lửa họ nhường chỗ nào ấm cho cha mẹ. Khi ngủ những đứa con nào khỏe mạnh ngồi bên ngoài để ngừa thú dữ bảo vệ cha mẹ già và trẻ nhỏ ngồi bên trong. Đó là bản năng tự nhiên mà không biết chính là việc hiếu thảo. Đến lúc tổng kết các hành vi kia thành ra những kinh nghiệm đâu là người bất hiếu, đâu là bổn phận đứa con có hiếu rồi mới truyền xuống cho mọi người từ đời này sang đời kia trở nên một nguyên tắc cuộc sống.

Gia đình êm ấm, tệ nạn xã hội theo đó cũng giảm bớt, đất nước dù chưa giàu nhưng chỉ số hạnh phúc lại cao. Chính vì vậy mà Đức Phật nói chữ hiếu đứng đầu các giới hạnh, và cũng theo quan niệm của đạo Phật mọi thứ trên đời đều do nhân quả và đều có mối liên quan chứ chẳng đứng riêng lẻ. Đạo hiếu là đạo đặt vào lòng thành không phải hao tốn công sức tu luyện. Phần đông khi được cha mẹ sinh ra khó nhọc nuôi dưỡng cho nên vóc nên hình, người con tỏ lòng biết ơn thể hiện việc hiếu thảo qua hành động thương yêu kính trọng cha mẹ, sự thật cũng chẳng bao giờ bù đắp công lao lớn như biển trời kia được bao nhiêu. Nền tảng của đạo hiếu ở đây chính là chữ tình, mối tình thâm phụ tử. Cảm nhận mối thâm tình đó, người cũng thể hiện nó ra bên ngoài, qua cách cư xử chớ không phải đó là lời nói suông. Thí dụ, thấy cha mẹ nghèo khó nhọc kiếm miếng ăn, thương cha mẹ không gì bằng lo học hành hơn là phung phí ăn chơi.

Đạo hiếu nếu có dạy thì dạy cho trẻ từ lúc nhỏ chưa biết gì. Thấy cha mẹ không vui, cha mẹ nghĩ ngợi thì phải biết nhẹ chân chẳng nên đùa giỡn. Đã khôn lớn mà không biết cha mẹ buồn lo lắng nợ nần, cứ vô tư nhậu nhẹt ca hát thì rõ ràng đó là anh chàng bất hiếu (nói theo nhân gian đó chỉ là đứa mượn bụng người để chui ra). Những đứa con gái đi chợ gặp món ngon vật lạ, trái cây, gạo mới đầu mùa hay nghĩ đến cha mẹ (cũng như con gái cúng chùa nhiều hơn con trai). Con trai không được như vậy, điều này là do bản năng, đặc điểm của tạo hóa sinh ra để phân biệt nam nữ. Cũng chẳng nên vì chỗ khác nhau giữa trai với gái mà kết luận đa số con gái có hiếu hơn con trai. Tuy nhiên nam giới cũng cần phải nhận ra chỗ nhược của mình.

Đạo hiếu là đạo của tự nhiên, của lòng thành, mỗi người có mỗi cách thích hợp với hoàn cảnh, không có lòng thành tìm kiếm chữ hiếu kia qua kinh, qua sách… vô ích, vì những gì biết trong kinh, trong sách phần lớn chỉ là tấm gương để cho người nhìn vô đó để soi, là những mẫu chuyện ngụ ngôn. Thí dụ như trong Nhị Thập Tứ Hiếu, một người rất nghèo còn cha mẹ già và đứa con nhỏ. Không thể nuôi nổi ba miệng ăn, nhứt là đứa trẻ cần ăn để lớn nên bèn giết đứa con để dành số gạo ít oi nuôi cha mẹ già. Một kẻ khác vào mùa đông mặt đất đóng băng mà bà mẹ già lại tréo ngoe thèm ăn măng. Người ấy bèn nằm xuống băng tuyết ôm lấy bụi tre cầu mong băng tan cho măng mọc lên. Đại thể khi viết ra những chuyện ấy là để cho người nắm được cái ý, con cái vươn đến chữ hiếu đôi lúc cũng cần phải hy sinh bản thân. Được ý phải quên lời, không phải khăng khăng những điều thật vô lý. Thử hỏi bà mẹ thấy chỉ vì mình mà con của mình phải hy sinh đứa cháu nội thử có chịu nổi không? Nằm ôm băng tuyết chờ măng mọc lên, rủi chết đi lấy ai nuôi mẹ mình. Do đó hiếu xuất phát từ lòng thành phải thích hợp hoàn cảnh mỗi người.

Và chữ hiếu cơ bản chẳng phải đặt vào lễ nghi chi tiết nhỏ nhặt, rườm rà. Mua cho cha mẹ những thứ đắt tiền sang trọng nhưng biết cha mẹ có nhu cầu có thật sự cần đến nó hay không. Hay là để cho người biết là ta có hiếu, không ngại tiền bạc tốn hao. Hoặc là khi cha mẹ qua đời làm đám ma, đám giỗ cho thật linh đình. Tất nhiên thấy con cái có hiếu cha mẹ sẽ vui nhưng vui không khi anh em nghịch lẫn nhau, giành giựt nhau từng tấc đất cho làng xóm cười chê. Những ai thật sự hiếu đạo với cha mẹ thì sẽ thấy, đa số cha mẹ hay để tâm lo lắng cho những đứa con nghèo hay tật nguyền. Thương cha mẹ thì phải thương yêu, hòa thuận với anh em. Đây không phải là sự ràng buộc bổn phận mà đây là sự tất yếu chung nhau tình máu thịt ruột rà… Cái tình máu mủ ruột rà ấy xuất phát từ cha mẹ truyền đi như dòng suối nước ngọt không thể tách rời. Và con suối mát kia nó không bao giờ khô. Đạo hiếu cũng còn là ngọn lửa ấm sáng mãi bền chặt trong lòng người và ngọn lửa kia không bao giờ tắt.

***

Ngày xưa quan niệm về việc hiếu thảo: Thứ nhứt là sinh con nối dòng. Thứ hai là phụng dưỡng cha mẹ. Ngày nay người hiểu biết hơn, việc sinh con nối dòng là chuyện phụ chẳng quan trọng bằng việc lớn thứ hai. Trong nhiều kinh điển Đức Phật dạy tới dạy lui cho chúng sinh về chữ hiếu thì cũng không khác gì chữ hiếu ở ngoài đời. Tuy nhiên Đức Phật nâng chữ hiếu lên một bậc cao hơn. Đó là ngoài việc phụng dưỡng an ủi cha mẹ lúc tuổi già, cầu nguyện cho cha mẹ sống lâu, theo Đức Phật để trở nên có hiếu hơn, đứa con cần phải biết vì cha mẹ mà bố thí giúp đỡ kẻ nghèo, biết tịnh giới làm việc lợi ích xã hội, truyền bá Chánh pháp cho nhiều người, khuyên nhủ cha mẹ thực hành Chánh pháp. Theo Phật, đứa con hiếu thảo phải làm rạng danh cha mẹ, không để cha mẹ phải xấu hổ trước xã hội.

Lời của Phật trải qua hơn 2500 năm là chân lý chẳng bao giờ xưa cũ. Lúc nào nó cũng mới, nhất là qua lời dạy đó nhìn về xã hội hiện tại. Có phải chúng ta đang sống trong thời đại khoa học phát triển, hết phát minh này ra đời đến phát minh kia để rồi vật chất điều khiển con người. Mọi người tranh đua nhau kiếm tiền thật nhiều để mua sắm mà vẫn không thấy đủ. Thế rồi sinh ra bao tệ nạn tham lam, trộm cắp. Cán bộ thì tham nhũng. Và còn biết bao tệ nạn khác thậm chí mua bán phụ nữ trẻ con, ai ai cũng đau đớn lòng.

Nhớ lại lời Phật đã dạy. Thử hình dung hai hình ảnh, một bên là cha mẹ được mời ngồi hàng ghế danh dự trong buổi lễ con cái nhận giải thưởng nào đó. Như trường hợp của Ngô Bảo Châu chẳng hạn, còn gì vui sướng hơn. Trường hợp thứ hai, cha mẹ cũng được mời nhưng mời ra tòa án để chứng kiến xử tội đứa con trộm cắp, tham nhũng. Thật là xấu hổ khi bao con mắt nhìn đăm đăm về phía mình. Về nhà thì bị hàng xóm khinh rẻ, chỉ còn còn nước bỏ xứ mà đi để tránh cặp mắt của người đời…

Tóm lại, việc hiếu thảo theo Đức Phật trước là phải lo phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ vật chất. Lỡ người con vì nghèo lo không được chu đáo nhưng chẳng lẽ người con lại nghèo về tinh thần. Thay vì con cái làm cha mẹ ngước mặt ngó lên với đời, ngược lại ra đường mặt ngó xuống không dám nhìn ai. Với xã hội hiện nay những người trẻ muốn tìm một hướng đi ngày mai tươi sáng, vẫn chưa thấy ai dạy cho họ về lòng hiếu thảo sâu sắc hơn Đức Phật.

Ngô Khắc Tài
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2014(Xem: 9312)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
29/07/2014(Xem: 25567)
Hồng đỏ cài lên đẹp tuyệt vời Phải nên trân trọng nhé người ơi! Những ai còn mẹ còn hồng đỏ Màu đỏ thắm tươi vẻ rạng ngời
24/07/2014(Xem: 4752)
Tối nay ngồi vẽ Mẹ. Một người Mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt Mẹ đã xạm đen vì dãi dầu. Đôi mắt Mẹ đã trĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi Mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện.
24/07/2014(Xem: 4574)
Vu Lan là lễ truyền thống lâu đời có từ thời Đức Phật còn tại thế hơn 2,500 năm trước; đồng thời cũng là lễ tiết quan trọng phổ thông của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa mà tổ tiên chúng ta đã giữ gìn qua nhiều thế hệ. Lễ tiết Vu Lan hay Vu Lan thắng hội gắn liền với lễ giải Hạ - Tự tứ của Tăng đoàn Phật Giáo. Lễ Tự tứ có nghĩa là sau những tháng ngày tịnh tu Giới - Định - Tuệ, ba nghiệp của hành giả sâu lắng thanh tịnh; hai vị Tỳ kheo đối thú nhau chân thành bày tỏ khởi đi từ đạo tình cao quý nhẹ nhàng trong sáu tiếng: thấy tội, nghe tội, nghi tội, những mong đợi vị thầy đối diện chỉ bày cho ta thành tâm sám hối trước hội chúng và Tam Bảo, nguyện cải đổi không tái phạm, nếu xét thấy mình có tội. Thật là thành khẩn, cao đẹp trong hòa hài, từ bi, nhẫn thuận, bình đẳng. Nhẹ nhàng nhưng mang chất liệu tuệ giác tự thân và san sẻ với giác tha của người đối diện kết nên vòng nhân duyên thù thắng hầu tiến đến giác hạnh viên mãn.
24/07/2014(Xem: 4559)
Mỗi mùa Vu Lan đến Biết bao dòng lệ rơi Cho tình vô bờ bến Bày tỏ không nên lời Nghẹn ngào trong nước mắt Tưởng nhớ đến mẹ cha Ân tình cao chất ngất Suốt đời đã bôn ba
19/07/2014(Xem: 5167)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phật giáo chủ trương nhân quả theo nhau như hình với bóng, nghĩa là người gây nhân lành ắt sẽ hưởng quả tốt, ngược lại kẻ tham lam, vị kỷ, độc ác... chỉ biết lợi mình, không kể đến hậu quả làm phiền lụy khổ đau cho tha nhân, rộng ra là cả sinh linh vạn loại, đương nhiên sẽ gặp những phiền toái, chịu đựng những trách móc, oán hận của những nạn nhân, hay khi xả bỏ cuộc sống sẽ lãnh sự trừng phạt trong 3 ác đạo mà thế nhân hay tín ngưỡng nào cũng nghĩ bàn để khuyến miễn người đời phải lo tu thân hành thiện, làm đẹp nhân sinh. Mùa Vu Lan báo hiếu phát xuất từ đức Mục Kiền Liên kiếm tìm, thăm viếng rồi giải thoát mẹ ngài khỏi cảnh giới ngạ quỷ, có từ thời đức Phật còn tại thế; văn hóa thế nhân có từ khi loài người hướng về nẻo thiện. Gần chúng ta là văn hóa Á Đông, lấy nhân luân làm căn bản: Hiếu, đễ, tru
18/07/2014(Xem: 5087)
Nhờ năng lực của Tăng đoàn mà mẫu thân của ngài Mục Kiền Liên được thoát khỏi cảnh bi thống nơi chốn địa ngục. Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp là năng lực vô biên hóa giải được khổ đau từ cõi vô hình cho đến thế giới con người. Trọng tâm của Giáo hội chúng ta đặt ở sự hiệp lực này, trong ấy những Phật sự hằng năm của Giáo hội, tất cả tăng ni và thiện tín cùng nhau chung lo. Bốn phật sự thường xuyên của Giáo hội mà mỗi thành viên đều chung sức chung lòng đó là: Phật đản, An Cư, Khóa Tu Học Bắc Mỹ và Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ.
15/05/2014(Xem: 7293)
Hôm nay ngày giỗ của Ba tôi, tự dưng lòng tôi thèm viết một chuyện gì đó về Ba tôi…như nhà văn Võ Hồng thường khuyên mọi người nên viết lại những kỷ niệm sinh hoạt của cha, của mẹ mình, những kỷ niệm mà mình nhớ hơn hết, đáng nhớ hơn hết…để nhân ngày k?giỗ của cha mẹ, tập trung về, cùng đọc, cùng nghe, cùng xúc động, hồi tưởng công ơn. Con cháu sẽ có dịp sống lại không khí đại gia đình, con nhớ thương cha mẹ, cháu gần gủi, quý trọng ông bà!
16/10/2013(Xem: 19973)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
16/10/2013(Xem: 15622)
Kính lạy vong linh cha, Khác biệt với muôn ngàn trường hợp khi cầm viết đặt lên giấy. Con ghi lại vài nét – chỉ vài nét thôi về đời sống của cha – một người cha có lắm điều độc đáo, không những chỉ trong hàng con cháu mà bất cứ ai cũng công nhận là hãn hữu và cần rút tỉa những điểm son để soi sáng vào nếp sống của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]