Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tinh thần cầu nguyện trong kinh Vu Lan

07/08/201103:27(Xem: 6784)
Tinh thần cầu nguyện trong kinh Vu Lan
TINH THẦN CẦU NGUYỆN TRONG KINH VU LAN
Quảng Tánh

Kinh Vu Lan(Ullambana Sutra), một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệt là giá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo. Vì thế, kinh Vu Lanđã chinh phục lòng người, in đậm trong tâm trí, thấm sâu vào máu thịt của tất cả những người con Phật.

Xuất phát từ Phạn ngữ, kinh Vu Lanđược ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa) dịch sang Hán ngữ vào thời Tây Tấn (thế kỷ III Tây lịch). Sau đó, kinh được truyền tụng rộng rãi và thu phục nhân tâm nhanh chóng, làm tiền đề để mở ra truyền thống Báo hiếu - Thắng hội Vu Lan, phổ biến ở các nước Phật giáo Bắc tông.

Kinh Vu Lanthuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi dâng cúng chư Tăng sau lễ Tự tứ, kết thúc mùa an cư kiết hạ, nhờ hợp lực chú nguyện của chư Tăng mà mẹ ngài thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ, sanh về cõi trời. Phát xuất từ nhân duyên này, cúng dường Vu Lan để báo hiếu cho cha mẹ quá vãng trở thành một trong những phương pháp báo hiếu phổ biến hiện nay.

Vấn đề đặt ra là phương pháp báo hiếu được Phật giới thiệu trong kinh Vu Lanphải chăng chỉ dựa vào tha lực, tức nhờ chư Tăng chú nguyện mà được thoát khổ? Như thế thì điều ấy có mâu thuẫn với nhân quả-nghiệp báo không? Trong khi “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi” hay tự lực vẫn là tinh thần chủ đạo, xuyên suốt và nhất quán trong toàn bộ Thánh điển Phật giáo.

Nói về cầu nguyện, quan điểm của Thế Tôn được trình bày rất rõ ràng trong kinh Tương Ưng Bộ IV(Tương ưng thôn trưởng) và kinh Tăng Nhất A Hàm I(kinh Ca Di Ni). Nội dung của hai bản kinh này khá giống nhau, đều xác quyết rằng cầu nguyện suông, dựa vào tha lực không thể làm thay đổi nghiệp báo của một cá nhân. Bằng hình ảnh cụ thể với những đặc tính đối lập, một tảng đá và một thùng dầu, cả hai được ném xuống dòng sông, đá nặng chìm xuống và dầu nhẹ nổi lên. Không có một sự tập trung cầu nguyện nào có thể can thiệp vào sự chìm của đá và sự nổi của dầu, vì đặc tính của đá và dầu vốn dĩ như thế.

Qua đó, Thế Tôn khẳng định nếu tạo nghiệp đen thì chịu quả báo đen và tạo nghiệp trắng thì được hưởng quả báo trắng, cầu nguyện không thể làm thay đổi nghiệp lực, nhất là khi nghiệp đã chín muồi. Rõ ràng, cầu nguyện để mong giải tội, xóa sạch ác nghiệp đã tạo, phó thác hoàn toàn vào tha lực như các Bà la môn hằng tin tưởng là một việc làm vô ích.

Tuy nhiên, cầu nguyện vẫn là một trong những nội dung tu tập trong đạo Phật. Sự cầu nguyện ấy phải được nhận thức như là sự mong ước chuyển hóa nghiệp lực đối với tự thân đồng thời soi sáng, hỗ trợ cho tha nhân chuyển hóa nghiệp lực của chính họ, kể cả người chết. Và như thế, nội dung cầu nguyện trong Phật giáo không đơn thuần và hời hợt thuần tuý dựa vào tha lực hoàn toàn mà chủ yếu là tinh thần tự lực cùng với trợ duyên của tha lực.

Ai đã từng cầu nguyện thì kinh nghiệm rõ ràng là không phải bất cứ điều gì mình cầu nguyện cũng được như ý. Theo Phật giáo, đó không phải vì chư Phật, Bồ tát không gia hộ mà người cầu nguyện phải xem xét sự tự lực của mình đã đạt đến ngưỡng để “cảm ứng đạo giao” hay chưa? Cảm ứng đạo giao là kết quả của quá trình nỗ lực, thành tâm, tịnh tín và chuyển hóa trọn vẹn. Cầu nguyện trong Phật giáo, có thể nói là một phương pháp đánh thức, thức tỉnh để chuyển hóa mang đậm sắc thái tự lực.

kinhvulanbaohieu-biaĐối với sự cầu nguyện của chư Tăng được đề cập trong kinh Vu Lan, trước hết phải quán triệt vấn đề “nhất thiết duy tâm tạo”. Từ nơi tâm, những ác nghiệp của bà Thanh Đề (mẹ tôn giả Mục Kiền Liên) được tạo ra rồi tự chiêu cảm lấy quả báo.

Gió nghiệp làm quay cuồng và mụ mị tâm thức của bà nên chỉ luẩn quẩn trong vòng tròn khép kín đói khát, khổ bức cùng tham sân, bỏn sẻn, tật đố. Sự thống khổ bức bách cùng cực đến độ không một sát-na ngừng nghĩ. Vì thế, cần phải làm lắng dịu nổi khổ và đánh thức sự mê mờ triền miên ấy. Do đó, cần có sức mạnh tâm linh cao độ, phát huy tổng thể năng lượng Giới Định Tuệ của chư Tăng, tập trung hướng về để tưới tẩm, soi sáng, thức tỉnh tâm hồn bà.

Để thực hiện được điều ấy, thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện sau lễ Tự tứ là tối cần thiết. Sau ba tháng cấm túc an cư, nhất là sau Tự tứ, đa phần chúng Tăng đều có tiến bộ tâm linh rõ rệt, Giới Định Tuệ sung mãn, tâm hoàn toàn thanh tịnh. Thời Thế Tôn tại thế, số lượng chư Tỷ-kheo dự phần vào các quả Thánh tăng lên đáng kể sau mỗi mùa an cư.

Khi chư Tăng hợp lực chú nguyện, nguồn năng lượng tuệ giác và từ bi hướng về cảnh giới ngạ quỷ, tưới tẩm cam lộ làm cho nóng bức trong địa ngục dịu xuống, niệm đói khát như lửa cháy thiêu đốt tâm can tạm thời an tịnh, tâm thức mê mờ triền miên chợt bừng tỉnh. Đây là cơ hội quý giá thật hy hữu cho các chúng sanh trong cảnh khổ thức tỉnh, chuyển hóa để tự vượt thoát. Trong thời điểm ấy, khi sự đau khổ tạm thời gián đoạn nếu các chúng sanh biết tận dụng cơ hội hiếm hoi này phát khởi thiện tâm, tưởng nhớ đến Tam bảo, tuệ giác được sanh khởi thì tự khắc sự chuyển hóa sẽ xảy ra.

Do ác tâm keo kiệt, bỏn xẻn, tham lam và bất kính Tam bảo tạo ra chiêu cảm đói khát, khổ bức của ngạ quỷ thì cũng ngay nơi tâm ấy thức tỉnh, bừng sáng để chuyển hóa và giải thoát. “Nhất thiết duy tâm tạo” là vậy. Chư Tăng chỉ có vai trò soi sáng, trợ duyên, tiếp sức cho quá trình chuyển hóa đó, mang tính thụ động. Chính các chúng sanh phải chủ động tỉnh thức để chuyển hóa nghiệp lực của mình. Trong trường hợp, những chúng sanh nghiệp chướng nặng nề, chấp nhận lấy khổ làm vui, không phát khởi tuệ giác thì chắc chắn sự giải thoát khó có thể thành tựu.

Ác tâm đẩy một chúng sanh sa vào địa ngục, ngạ quỷ thì thiện tâm của chúng sanh ấy đưa họ ra khỏi cảnh khổ. Không ai có thể làm thay họ chuyện này mà mỗi cá nhân phải nương vào nguyện lực, sức từ bi của Tam bảo để tự cứu lấy mình. Dù hoàn toàn chủ động, tự lực nhưng các chúng sanh trong cõi khổ rất cần sự hồi hướng phước báo, nhất là sự trợ duyên và soi sáng từ Tam bảo, vì thế không thể thiếu sự hợp lực chú nguyện, gia hộ của chư Tăng. Đây chính là tinh thần cầu nguyện trong kinh Vu Lan.

Do vậy, muốn pháp sự cúng dường Vu Lan để báo hiếu cho thân bằng quyến thuộc quá vãng có lợi ích thiết thực phải hội đủ các yếu tố cần thiết. Trước hết là sự thành tâm tịnh thí của gia chủ. Sự tịnh thí không phải ở nơi vật phẩm dâng cúng nhiều hay ít mà là tâm thành, nguyện thiết, mong muốn thân nhân thoát khổ với lòng hiếu thảo thực sự.

Tiếp đến là sự nhất tâm cầu nguyện của chư Tăng. Bởi nếu không nhất tâm thì nguyện lực bi trí không đủ mạnh để xoa dịu thống khổ và khai mở tuệ giác cho chúng sanh thức tỉnh. Quan trọng nhất vẫn là sự tiếp nhận nguồn năng lượng an lạc, giải thoát từ Tam bảo để chúng sanh tự thức tỉnh, chuyển hóa và tự thăng hoa.

Như thế, dù có hình thức cầu nguyện nhưng nội dung vẫn mang sắc thái tinh thần tự lực. Đây là tuệ giác cần phải thẩm sát để nhận thức đúng đắn về tinh thần cầu nguyện trong Phật giáo.

Quảng Tánh

(Cùng Tác Giả)

Xem thêm bài viết liên quan đến chủ đề:

BƠ VÀ NHỮNG VIÊN ĐÁ CUỘI- Tâm Diệu

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2019(Xem: 7828)
Món Quà Vu Lan (tác giả: Thích Phước Hạnh)
11/05/2019(Xem: 5004)
Trong cuộc sống người ta thường chọn cho mình một mục tiêu để tiến tới. Người chọn đường khoa bảng tạo dựng sự nghiệp. Người đeo đuổi ngành Nghệ thuật tiến thân. Người muốn giàu có qua ngã kinh doanh... Nhưng lại có người chỉ an phận thủ thường. Phần đông trong số những người sau do điều kiện môi trường, hoàn cảnh hoặc do không đủ khả năng, và trong số ít đó tuy có đủ điều kiện tất yếu nhưng lại không thích cảnh tất bật, bon chen. Và dù là hạng người nào, song song bên cạnh đó người ta thường tìm về những mưu cầu tâm linh để thăng hoa cuộc sống. Riêng tôi, có thể nói điều làm cho cuộc đời tôi thay đổi nhận chân ánh sáng nhiệm mầu Phật pháp sáng soi khởi nguồn từ thuở ấu thơ...
08/05/2019(Xem: 4628)
Kính bạch Thầy, sáng nay nhân đọc hai bài Thầy vừa post lên Trang Nhà Quảng Đức một bài do chị Quảng Tịnh dịch và một bài thơ của đạo hữu Tánh Thiện nên con có bài thơ này . Kính dâng Thầy HH Mẹ ơi ! Lại đến " Ngày Vinh danh Mẹ " , Hai năm rồi ...không thăm hỏi hằng tuần . Một mình ...tự học cách trưởng ..huân *** Dù ...thiếu nụ cười, lời khuyên thuần hậu !
08/05/2019(Xem: 7142)
Cứ mỗi năm đến ngày "Vinh Danh Mẹ" tôi lại cảm thấy tâm hồn mình dâng lên một cảm xúc của người làm Mẹ và tôi lại nhớ đến Mạ tôi ở phương xa... Nếu các bạn may mắn được sống gần Mẹ để có thể được thăm viếng, được thương yêu, được chia sẻ với Mẹ vui buồn của cuộc đời, rồi vào dịp này ở phương trời Tây, những người con Việt cùng hòa nhập với văn hoá xứ Úc tổ chức tiệc và tặng quà cho Mẹ thì thật là diễm phúc quá phải không các bạn? Tôi chợt nhớ đến câu chuyện xảy ra chỉ cách đây hơn một tháng về một người Mẹ đã khuất mà tôi có duyên quen biết, một người Mẹ cũng bình dị như bao bà mẹ khác nhưng ở em tôi cảm nhận được tấm lòng thương con vô bờ bến và một trái tim rất mạnh mẽ trước cái chết.
08/05/2019(Xem: 5031)
Kính tặng Mạ tôi và những người làm Mẹ nhân ngày “Vinh Danh Mẹ”, Khi còn là một đứa bé, con không hiểu cuộc đời và trái tim con sẽ an toàn trong vòng tay của Mẹ. Từ giây phút con ra đời, Mẹ yêu con từ tận đáy lòng, bất luận là con nói hay làm điều gì. Khi còn là đứa trẻ, con thật không hiểu. Đơn giản là con tin tưởng Mẹ và điều đó có lẽ là lời khen tặng to lớn nhất mà con có thể dành cho Mẹ.
01/05/2019(Xem: 5433)
Kính dâng TT Thích Nguyên Tạng với tất cả ngưỡng mộ lòng hiếu thảo của Thầy với mẫu thân, Cụ Bà Tâm Thái. Nhân ngày Mother's day 12/5/2019 Từ khi được định cư tại Australia và sau khi đã ổn định việc học hành cho con cái và mình thì cũng có công ăn việc làm vững chắc nên tôi thường tổ chức hội hè vào hai ngày chủ nhật trong năm ( không kể Tết Nguyên Đán ) . Đó là chủ nhật tuần thứ hai của tháng năm được gọi là Mother's day và chủ nhật tuần thứ nhất của tháng 9 gọi là Father's day . Và không hiểu vì sao mà ngày của Mẹ năm nào cũng luôn trùng hợp với lễ Phật Đản hay còn gọi chung là Vesak tháng tư , còn ngày của Cha thì luôn trùng hợp với lễ Vu lan ...những đại lễ lớn của người Phật tử.
29/04/2019(Xem: 4925)
Ông cụ lập di chúc tặng nhà cho người giúp việc thay vì các con
14/03/2019(Xem: 24564)
Chùa Thiên Ấn do TT Thích Như Định thành lập năm 1992 (Nhâm Thân) tại thành phố Wollongong, tiểu bang New South Wales, cho đến ngày 14 tháng 4 năm 1993, nhân duyên đầy đủ, chùa chính thức dời về Canley Vale thuộc thành phố Fairfield. Chùa Thiên Ấn hiện tọa lạc tại số 69-71 Delamere St, Canley Vale (bao gồm lô đất số 56-58 Cadwell St, Canley Vale), Sydney, New South Wales với diện tích tổng quát là 3,600m2. Chùa Thiên Ấn tại Úc được đặt theo tên của Tổ Đình Thiên Ấn, Quảng Ngãi là quê hương của Thầy Trụ Trì Thích Như Định. Tổ Đình tọa lạc trên núi Thiên Ấn, phía dưới là sông Trà Khúc.
08/01/2019(Xem: 5108)
"Con trai, Hôm nay, ngày 6 tháng 6, tôi đã qua tuổi 80, có nghĩa là, tôi đã sống được 80 năm. Trong một thời gian dài như vậy, tôi đã sinh ra 4 đứa con, và nuôi thêm 8 đứa cháu. Thế nên, tôi đã đủ già để hiểu nhiều thứ. Vài năm trước, sau khi cha các anh qua đời, tôi rõ ràng cảm thấy rằng các anh thiếu kiên nhẫn với tôi. Tôi thực sự hy vọng rằng con trai tôi có thể đưa tôi về nhà, tôi muốn sống với các con, và tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn.
01/10/2018(Xem: 5152)
Vừa rồi con có nghe Hòa Thượng cho biết, Hòa Thượng đang viết về chủ đề “Pháp Tu Tứ Diệu Đế”, bài pháp đầu tiên mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng tại Vườn Nai để độ cho 5 anh em Ngài Kiều Trần Như, lâu nay người Phật tử chỉ nghe học giáo lý Tứ Diệu Đế là pháp thuyết, chứ không phải pháp hành, do vậy chúng con xin HT giảng giải cho đệ tử chúng con biết mà áp dụng trong đời sống hằng ngày của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]