Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm niệm về mẹ

27/03/201113:28(Xem: 7491)
Cảm niệm về mẹ
me-con-02
CẢM NIỆM VỀ MẸ
(Kính dâng mẹ cụ bà Nguyễn Thị Sáu)
Hư Thân Huỳnh trung Chánh

THAY LỜI TỰA

Mẹ tôi có ba người con: Con trai lớn là Huỳnh lê Tiến, cô gái út là Huỳnh thị Mỹ Dung, tức văn sĩ Huỳnh Dung, và chúng tôi là Huỳnh trung Chánh. Trong ba anh em, nếu kể đến lòng hiếu thảo và thương yêu mãnh liệt có lẽ tôi không sánh bằng anh em tôi, nhưng tôi là đứa con có cơ duyên gần gũi với bà, chia sẻ đắng cay với bà vào những giây phút hiểm nguy trên cuộc đời như lần đi xuồng chèo trên giòng Cửu Long giữa cơn binh lửa từ Trà Vinh về Cao Lãnh năm 1945, lần gay go vượt biển đến trại tị nạn Mã Lai năm1977, và lần cuối cùng đưa bà rời cõi Ta Bà đầy khổ lụy nầy. Tôi cũng là đứa con thích cười giỡn với bà, ngắm nhìn bà và thường lắng nghe bà thổ lộ chuyện ngày xưa. Nhờ vậy, giờ đây những kỹ niệm thân thương đó mới có thể tự động tuần tự hiện về, để cô đọng thành những giòng cảm niệm cho tập sách mỏng manh nầy.

Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng, ngọt ngào đậm đà như “chuối ba hương, như xôi nếp một, như đường mía lau...”

Riêng tôi, một hôm ngắm nhìn mẹ, tôi bỗng khám phá rằng mẹ tôi chính thực là một “Quan Thế Âm Bồ Tát”, người lúc nào cũng thường trực nghe ngóng theo dõi từng đứa con, đứa cháu cùng bao kẻ thân sơ khác để sẵn sàng xả thân mình chở che, chăm sóc mọi người. (Tôi đã viết truyện ngắn hư cấu tựa đề “Quan Âm tóc rối” dựa vào cảm xúc nầy)

Tóm lại, với tôi mẹ là tất cả, dẫu có thời giờ tôi cũng không đủ khả năng, ngôn từ để mô tả tấm lòng bao la của mẹ, huống vì trong phạm vi ngắn ngủi của phần Thay Lời Tựa nầy, nên tôi chỉ xin trích sơ lược vài đặc điểm của bà như dưới đây :

Mẹ tuân lệnh nghiêm đường lập gia đình năm 19 tuổi, chồng vĩnh viễn ra đi năm 29 tuổi, ở lứa tuổi nhan sắc vẫn mặn mà, bao người rấp tâm tán tỉnh, mà mẹ tôi vẫn tạc lòng tạc dạ, thờ chồng nuôi con. Lòng thủy chung chân chất của bà lúc nào cũng bền bĩ không phai, cho dù đến khi tuổi đã gần 90 bà vẫn yêu chồng tha thiết đậm đà như xưa. Vào tuổi nầy, tuy đầu óc đã lẫn quên nhiều, nhưng ký ức về thời gian trẻ thơ, kỹ niệm những ngày chung sống với chồng, lễ vấn danh, lễ cưới... thì bà vẫn nhớ từng chi tiết nhỏ. Mắt bà vẫn sáng ngời, tràn ngập hạnh phúc mỗi khi kể tôi nghe chuỗi ngày xưa ấm êm ấy. Có lần bà nói nhỏ với tôi : “Má có bài thơ nầy viết về ba, con nên ghi lại kỹ niệm”. Rồi bà chậm chậm đọc cho tôi chép trọn bài thơ ba mươi hai câu. Tôi xin trích ra bốn câu kết như sau :

Anh hãy chờ em chốn cữu tuyền
Cùng nhau dìu dắt đến cung thiên
Nơi miền Tiên cảnh lòng vui thỏa
Đây chốn nghìn thu giấc ngủ yên.

Bài thơ thương nhớ chồng mong tái ngộ với chồng ở suối vàng nầy bà sáng tác vào năm 44 tuổi mà đến khi 88 tuổi bà vẫn còn nhớ rõ, đúng là mối tình chung thủy vĩnh viễn không phai. (Điều kỳ lạ là bà đã sáng tác hơn trăm bài thơ, tôi đánh máy in thành tập để bà tặng thân hữu, nhưng bà quên tuốt luốt không nhớ bài nào khác, kể cả chuyện in sách nữa.)

Lòng hiếu thảo của mẹ tôi cũng cao cả hiếm có. Trong thời chiến tranh, khi hoa lợi ruộng vườn yếu kém, ông bà ngoại tôi già yếu bệnh hoạn triền miên, cần có đứa con sớm hôm gần gũi. Chị em không ai đáp ứng được, nên mẹ tôi quyết định hi sinh về quê báo hiếu mẹ cha ròng rã hơn mười năm trời. Trong thời gian nầy, mẹ tôi phải gánh chịu bao nỗi nhọc nhằn gian khổ khi bà ngoại bị bệnh liệt giường đến ba năm, ông ngoại cũng nằm một chỗ đến sáu tháng, mà mẹ vẫn không tiếng thở than trách móc chị em. Ông bà ngoại từ trần, mẹ tôi hoan hỷ bàn giao tất cả tài sản của ngoại cho người chị, rồi về Saigon hẩm hiu sống với đám con.

Tôi không có thời giờ kể lể dài dòng về lòng tận tụy hi sinh của bà đối với con cháu, chỉ xin nhắc lại một điều là, với ai, dù thân hay sơ mẹ tôi đều đối xử ngọt ngào đầy ấp tình thương, đến nỗi sau ba mươi năm mất liên lạc, mà cô Nguyễn thị Rê người làm công năm xưa vẫn cảm động rưng rưng nước mắt khi nhắc về bà, và tôn xưng bà là bậc có hạnh Bồ Tát.

Năm sau cùng nầy, sức khỏe của mẹ tôi suy sụp nhanh chóng. Thú thật là có nhiều lúc, tôi tự cảm thấy xấu hỗ vì nghĩ mình chưa lo cho mẹ vuông tròn như lòng mong muốn. Niềm an ủi lớn lao của tôi, là mẹ tôi biết thành tâm “Niệm Phật”. Mẹ con chúng tôi ước nguyện sẽ gặp lại nhau ở cõi Phật, nên dù bệnh hoạn yếu đuối như thế nào, mẹ con chúng tôi cũng cùng Niệm Phật với nhau. Ngày 18.05.2007, mẹ tôi yếu lắm không nói nổi lời nào, vậy mà, trong khi ngồi cạnh bà Niệm Phật, mấy lần tôi lắng nghe được tiếng thì thào của bà Niệm Phật theo tôi. Hôm sau thì bà lìa trần nhẹ nhàng ngủ yên trong tư thế ngồi dựa. Sau tám giờ hộ niệm, theo ni sư Như Phương và nhận xét riêng tôi thì mặt bà vẫn tươi nhuận, lưỡi bà có phần tươi hơn, và khi nhà quàn cho bà nằm xuống để chuyển đi, thân thể vẫn mềm mại bình thường.

Sau đó, hằng ngày trước bàn thờ bà, tôi vẫn “động viên” bà : “Má ơi! Giờ nầy dù má đã hay đang về cõi Phật, xin má thương con tiếp tục Niệm Phật nghen má. Má Niệm Phật cho má mà cũng Niệm Phật để ủng hộ con nữa, thì mới mong mẹ con mình cùng sanh về cõi Phật!”

Trong khi thỏ thẻ với bà, vào ngày thứ hai sau khi bà lìa đời, tôi bỗng cảm ứng ra một bài kệ nôm na, mà bạn đọc có thể đánh giá như là một bài thơ con cóc ngô nghê. Riêng tôi khi đọc tụng bài kệ nầy, tôi cảm thấy lòng mình ấm áp, tràn ngập thương yêu và niềm tin, nên xin ghi lại để cống hiến quý đọc giả :

Má thương con thì má Niệm Phật
Con thương má thì con Niệm Phật
Mẹ con mình đồng Niệm Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật

Tôi hy vọng bạn đọc nào có hoàn cảnh tương tợ như tôi xử dụng bài kệ nầy trao cho thân nhân cũng đón nhận mối giao cảm sâu xa của người mình thương như tôi vậy.

Mẹ lìa trần tuy mất mát, nhưng tôi không buồn.Thật ra thì tôi rất hoan hỷ, hoan hỷ vì tin tưởng rằng mẹ tôi không bao giờ chết cả, và như hai mẹ con tôi đã ước hẹn với nhau, chúng tôi sẽ còn gặp lại nhau nơi cõi Phật.

-oOo-

Trên đây chỉ là vài nét phát họa về mẹ trong tập cảm niệm. Tập sách nầy gồm bốn bút ký viết rải rác từ năm 2003 đến nay : Tản mạn về Cần Thơ, Ngày tháng già nua, Sống bù cho con và Năm tháng cuối đời, nội dung là những mẩu chuyện chấp nối ghi lại vài hình ảnh sống thực của mẹ tôi ngày xa xưa cho đến khi từ giã cõi Ta bà.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2013(Xem: 5415)
Vu-Lan lại về. Vu-Lan về với người con Phật. Đặc biệt với người con Phật tha hương, những người con thảo cháu hiền còn nghĩ đến ân sâu nghĩa nặng của mẹ cha, thì nỗi nhớ niềm thương trong mùa Vu-Lan lại càng thắm thiết hơn bao giờ! Nhưng Vu-Lan mang ý nghĩa gì?
11/04/2013(Xem: 4763)
Rằm tháng bảy đối với đạo Phật mang ý nghĩa đặc thù, tưởng cũng nên lược nêu ra đây vài đặc điểm: 1) Ngày tự tứ: Khi đức Phật còn ở đời, ngày ngày Ngài đi hoằng pháp khắp đó đây, nhưng đến mùa mưa từ khoảng rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, trong suốt thời gian ba tháng mùa hạ nầy, đức Phật và hàng đệ tử xuất gia đều tập trung ở một chỗ chuyên tâm tu học không ra ngoài.....
11/04/2013(Xem: 4802)
Nói đến Vu-Lan là nói đến hiếu. Nói đến hiếu, người ta liên tưởng đến hình ảnh ngài Mục-Kiền-Liên bưng bát cơm dâng mẹ, cơm hóa thành lửa. Sau đó cầu xin Phật chỉ dạy phương pháp báo hiếu, tôn-giả Mục-Kiền-Liên vâng theo lời Phật dạy thực hành cứu được mẹ là bà Thanh-Đề thoát kiếp ngạ quỷ đói khát khổ đau. Nên Vu-Lan mang ý nghĩa giải-đảo-huyền, tức là cứu tội khổ bị treo ngược.
11/04/2013(Xem: 4866)
Cha mẹ là nguồn sống của con. Người sống trên đời ai mà không do từ cha mẹ sanh thành, ai mà không được cha mẹ nuôi nấng lớn khôn? Cha mẹ đã trải dài năm tháng tốn hao biết bao là tâm huyết tiền của để lo cho con ăn ngon mặc đẹp mạnh khỏe nên người. Cha mẹ đã ngày đêm nhọc nhằn cưu mang quên ăn bỏ ngủ để vỗ về săn sóc con.
11/04/2013(Xem: 4833)
Hằng năm đến rằm tháng bảy, không ai bảo ai, mọi người đều cảm thấy nơi lòng sống dậy nỗi nhớ niềm thương, tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ, làng nước quê hương, nhớ thương đến những ân nhân thương thân xa cách.
11/04/2013(Xem: 6374)
Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, đó đây những người con thảo cháu hiền, tự nhiên cảm thấy lòng bâng khuâng se thắt, man mác nỗi nhớ niềm thương. Lòng thương nhớ cha mẹ, thân bằng quyến thuộc hiện còn trên dương thế. Nỗi tiếc thương ông bà cha mẹ anh em đã qua đời. Để cho nỗi lòng thương nhớ được phần nào thâm trầm êm dịu, những người con thảo cháu hiền dâng trọn nén tâm hương khấn nguyện trong chiều thu Vu-lan thắng hội.
11/04/2013(Xem: 5006)
Mỗi năm đến rằm tháng bảy không ai bảo ai, thiên hạ đều biết đó là mùa Vu-Lan báo hiếu. Dù cho người đang sống ở chân trời góc biển, tha hương lưu lạc phương nào, hễ mỗi khi tiết trời thu về, là biết sắp đến rằm tháng bảy, ngày Vu-Lan báo hiếu, tự nhiên cảm thấy lòng nao nao bùi ngùi thương nhớ mẹ cha, quê nhà, làng nước và những người thương thân.
11/04/2013(Xem: 4699)
Mỗi năm đến rằm tháng bảy, dù những ai đó có đang sống ở nơi xa xăm chân trời gốc biển nào đi nữa, không ai bảo ai, nhưng mọi người con thảo cháu hiền đều cùng chung dòng tâm tưởng cảm thấy lòng mình nao nao se thắt trào dâng nỗi niềm bùi ngùi thương nhớ mẹ cha, nhớ nơi chôn nhau cắt rún, nhớ làng nước, nhớ nơi tiếng khóc chào đời. Không ai bảo ai, nhưng mọi cõi lòng con thảo cháu hiền đều tự biết mùa thu về, rằm tháng bảy, ngày Vu-Lan báo hiếu đến.
11/04/2013(Xem: 4798)
Mỗi năm đến rằm tháng bảy, mọi người con thảo cháu hiền không ai bảo ai, tự nhiên cảm thấy lòng mình lâng lâng nỗi niềm bâng khuâng tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ. Đặc biệt là những vùng khí hậu bốn mùa rõ rệt, khi lá thu vàng lác đác nhẹ rơi, lại càng khơi dậy lòng người cái cảnh sanh ly tử biệt, nỗi nhớ niềm thương.
11/04/2013(Xem: 5461)
Hôm nay chúng ta đang ở trong mùa Vu-Lan, mùa lá vàng rụng về cội, mùa khói hương mù sương nghi ngút quyện lấy lời nguyện cầu mang đến thế giới tâm linh, thế giới vô hình u hoài mầu nhiệm của các bậc ân đức sanh thành quá cố. Mỗi lần Vu-Lan đến khiến cho lòng người con thảo cháu hiền sống dậy nỗi nhớ niềm thương, mong được gần gũi với cha mẹ cùng những người thương thân ân đức của mình. Vu-Lan có nghĩa là giải-đảo-huyền, tức là giải cứu tội nhân bị khốn khổ được giải thoát an vui.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]