Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ hội Vu Lan và nguồn gốc

30/08/201510:19(Xem: 4191)
Lễ hội Vu Lan và nguồn gốc



muc-kien-lien-04




* LỄ  HỘI  VU  LAN và
nguồn gốc


 

Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông. Những chùa lớn như Vĩnh Nghiêm, Hoằng Pháp, khách thập phương dập dìu ngay cả về đêm. Không những tại Sài Gòn, cả Hà Nội, các tỉnh miền Trung và Cao nguyên đều như thế.

Những nét đặc biệt nổi trội trong mùa Vu Lan cho thấy như: -phóng sanh -cúng dường -bố thí - thí thực - chẩn tế - báo hiếu - cầu an cầu siêu... Những năm gần đây, ngoài một số chùa còn có các tư gia chẩn bần cho người nghèo, bố thí cho người khuyết tật. Một số cá nhân tuy không phải Phật tử, họ vẫn biết phóng sanh, biết làm từ thiện, đến thắp nhang cho mộ vô chủ, tài trợ học bổng, hỗ trợ gia cảnh nghèo và học sinh xuất sắc, thăm viếng bệnh nhân… Nét đẹp văn hóa như thế sẽ được nhân rộng để trở thành truyền thống văn hóa dân tộc chứ không riêng của Phật giáo.

Do đâu, có truyền thống Vu Lan, báo hiếu để rồi phát sanh nhiều hình thái cao thượng, nhân từ và tương thân như thế? Vu Lan không có trong kinh điển Nguyên Thủy. Cũng có giả thuyết cho rằng, câu chuyện Mục Kiền Liên là biến tấu từ kinh Uất Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyên, gọi tắt là kinh Uất Đa La mẫu có viết trong mục "Chuyện ngạ quỷ" của bộ Tiểu bộ kinh (đính kèm bên dưới) chỉ thay tên nhân vật từ Uất Đa La (Uttara hay là Uttaramātu) thành Mục Kiền Liên và thay tên người giảng là một tỳ kheo thành lời giảng của đức Phật. Tuy nhiên, trong Tiểu Bộ kinh do Gs. Trần Phương Lan dịch thì Tất cả các chuyện này đã do Tôn giả Maha Moggallana (Đại Mục-kiền-liên) tường trình lên Đức Phật sau khi Tôn giả nhập định và nhờ thần lực đi lên cõi Thiên để gặp chư Thiên và hỏi chuyện. Về sau Đức Phật dùng các đề tài này để thuyết pháp.

Vào cuối thế kỷ thứ ba đầu thế kỷ thứ tư, ngài Trúc Pháp Hộ dịch từ chữ Phạn, nhưng các học giả, sử gia thì xác định bản kinh nầy xuất hiện vào thế kỷ thứ 6. Văn bản gốc do Trúc Pháp Hộ dịch (hoặc được viết trong thời đại của ông) còn lưu lại đều không đề cập đến nhân thân của Tôn giả Mục Kiền Liên và câu chuyện của mẹ ông, mà chỉ trong các tác phẩm của người đời sau tại Trung Quốc, như Mục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến văn được xác định viết vào khoảng từ thế kỷ thứ V đến cuối thế kỷ thứ X, mới có kể về sự tích trên. Giải đảo huyền là dịch ý theo mục đích của Kinh Vu-lan-bồn. Thật ra, từ Giải đảo huyền được các đại sư Trung Quốc lấy ý từ câu: Dân chi duyệt chi do giải đảo huyền dã trong Mạnh Tử, chương 3 Công Tôn Sửu Thượng, chỉ sự giải thoát cho những kẻ khổ sở tột cùng ở cảnh giới Địa ngục.

Do truyện tích mang tính văn hóa và giáo dục, nên được phát triển sâu rộng trong các nước châu Á. Tại Việt Nam ta, năm 1309, Pháp Loa đã đứng ra tổ chức Đại lễ Vu Lan, thiết đàn chay Vu Lan cầu nguyện cho Trúc Lâm, và cầu nguyện Quốc thái dân an, âm siêu dương thái. Cũng vào năm 1320, Pháp Loa còn tổ chức một trai đàn chẩn tế nữa ở chùa Đại Ninh trong cung để cầu nguyện cho Thượng hoàng Anh Tông sống lâu thêm, và trong dịp đó cũng làm lễ quán đỉnh cho Thượng Hoàng.

Trong việc cứu tế âm dương lưỡng lợi, báo hiếu thiên trọng về khoa nghi đã trở thành một truyền thống nghi lễ, vừa mang tính triết lý, văn chương, nghệ thuật, tâm lý, tuy đi quá xa với truyền thống tâm linh nguyên thủy vào thời Phật tại thế, nhưng cũng đã giúp cho hậu thế tin vào nhân quả, phước lành báo đáp thâm ân dưỡng dục và tri ân bá tánh vạn dân trong mùa báo hiếu. Không những chẩn thí cho người dương mà còn chẩn tế cho kẻ âm, âm dương lưỡng lợi mà theo nhà Phật: - "phổ đồng cúng dường".

Theo các nhà nghiên cứu văn sử, thì bản Thập giới Cô hồn Quốc văn của Lê Thánh Tông, Văn tế Thập loại Cô hồn của Nguyễn Du sau này đều lấy cảm hứng ở đoạn văn thỉnh thập loại cô hồn trong Khoa Nghi Du Già. Mới biết, đời sống hiện thực Vu Lan Báo báo hiếu đã đi vào tâm thức người Việt thật sâu lắng, nó đã kết tinh thành văn chương vừa mang tính nghệ thuật thẩm mỹ định hướng cho một quan điểm sống hướng thiện để sống đẹp, hưởng quả tốt.


Theo sách Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí ghi lại: “Năm Nhâm Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ ba (1603), thượng tuần tháng bảy. Bấy giờ Đoan vương Nguyễn Hoàng ái mộ đạo Phật từ bi, khuyên việc thiện, trồng duyên lành, nhân gặp tiết Trung Nguyên ngày rằm tháng bảy ra chùa Thiên Mụ cúng Phật, niệm kinh giải oan cầu phúc; tế độ chúng sanh, giúp người cứu khổ công đức vẹn thành”.

Còn Đại Nam Thực lục chính biên, đệ nhất kỷ ghi lại: “Năm Nhâm Tuất, Gia Long nguyên niên (1802) vua lập đàn ở Thiên Mụ để tế, tế khắp các chiến sĩ chết trận”.

“Năm Quý Hợi, Gia Long thứ hai (1803), lính các vệ thần sách đi vận tải lương thực gặp bão, chết mất 500 người ở ngoài biển. Vua xem họ là chiến sĩ trận vong, cấp cho tiền tuất và lại sai đặt đàn ở chùa Thiên Mụ để tế”.

Thế thì khoa nghi chẩn tế là một trong những phương cách cầu siêu bạt độ, báo ân tiền hiền liệt vị khởi phát từ ý nghĩa Vu Lan. Qua một số triều đại, và gần nhất là triều Nguyễn cũng đã chú trọng đến việc lập đàn chẩn tế hướng vọng Vu Lan.

Tùy tập quán của mỗi dân tộc mà mùa Vu Lan thể hiện một cách khác nhau, riêng Việt Nam, càng ngày càng đa dạng mang tính nghệ thật, văn hóa và đa cảm. Tại Nhật thì Vu Lan gọi là Obon, các lễ vật được hỏa thiêu vào đêm thứ ba trong mùa lễ bắt đầu ngày rằm tháng 8 dương lịch. Các đội múa nhân gian cũng biểu diễn kết hợp với phóng đăng trên sông, họ tin rằng ánh sáng những ngọn nến sẽ hướng linh hồn đến nhân gian hưởng lộc hoặc tiển chư linh về lại cõi âm sau ba ngày hội tụ. Ở Hàn Quốc, ngoài nghi lễ chính, cài hoa, còn có mục rửa chân cho cha mẹ. Mã Lai cũng có ngày báo hiếu nhưng không đa dạng như Việt Nam.

Đặc biệt Vu Lan năm nay, chiều 28/8, Đại sứ Mỹ Ted Osius đưa mẹ cùng những người thân khác đến chùa Quán Sứ dự lễ Vu Lan cùng đọc kinh tiếng Việt với chư Tăng.

Truyện tích Vu Lan và chẩn tế khởi xuất từ kinh Tiểu Bộ nói về Quỷ sự Uttaramaatu Petavatthuva.N.Nanaa. Thời bấy giờ chỉ nói đến việc làm phước hồi hướng cho quỷ Uất Đa La, chưa có khoa nghi chẩn tế. Về sau, kết hợp văn hóa Trung Quốc mới trở thành đàn chẩn, nhiều màu sắc nghệ thuật, nhưng chú trọng nặng phần nghi tế quá dễ rời xa tinh thần nguyên thủy tu tập của Phật giáo để rồi phát sanh lắm hình thức rườm rà mê tín như đốt vàng mã.

Vu Lan, mùa báo hiếu và cũng là mùa công ích do Phật giáo Bắc truyền khởi xuất sẽ trở thành sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc, một nét đẹp do các cao Tăng thạc đức tiếp biến từ nguồn gốc kinh Nguyên thủy, hài hòa qua những cánh Hồng được Thiền sư Nhất Hạnh quy nạp, được ban rãi phẩm vật đến chúng sanh từ các chùa và mạnh thường quân. Rồi chương trình văn nghệ Vu Lan cũng được các anh chị nghệ sĩ, gia đình Phật tử thực hiện để thêm sắc màu đa dạng cho một mùa hiếu vọng về vạn loại.

Một điều còn thiếu sót nhân mùa Vu Lan, không những cần thiết mà còn quan trọng - đó là bảo vệ môi trường xanh, sạch và đẹp. Vệ sinh thành phố, thôn ấp, trồng cây xanh; thể hiện đức hiếu ngay trong gia đình đối với song đường còn tại thế và anh chị bà con thân thuộc, bạn bè có mối liên quan thường hằng; Phật giáo cần khởi xướng để mùa báo ân được trọn vẹn.

 

MINH MẪN

31/8/2015

 

Đính kèm phẩm Mẫu quỷ sự kinh Tiểu bộ để tham khảo

UẤT ĐA LA MẪU QUỈ SỰ
(UTTARAMAATU PETAVATTHUVA.N.NANAA)

"Một vị Tỳ kheo mà đã đi để nghỉ trưa". Đây là Ngạ quỉ sự về mẹ của Uttara . Đây là phần giải thích về ý nghĩa của nó.

Khi Hội kiết tập tam tạng lần thứ nhất đã được tổ chức tại chỗ nhập Niết bàn của Bậc Đạo sư, Đại Đức Mahaa Kaccaayana đang ngụ cùng với mười hai vị Tỳ kheo trong một khu rừng nọ không cách xa thành Kosa.mbi . Lúc bấy giờ, một vị tư tế quan của vua Udena, là người trước kia đã trông coi những công việc của vị ấy trong thành phố ấy, đã chết. Bởi vậy đức vua cho gọi đứa con trai của ông ta đến, là một chàng thanh niên tên là Uttara, và bổ nhiệm cậu ta vào chức vụ quản đốc khi nói rằng, "Bây giờ ngươi phải trông coi những công việc mà trước kia cha của ngươi đã trông coi". "Thưa vâng", Cậu ta đáp lại. Vào một hôm nọ, cậu ta đi đến khu rừng, đem theo một số thợ mộc để kiếm một số gỗ về sửa sang thành phố. Trong khi ở tại đó, vị ấy đi đến chỗ ngụ của vị Trưởng lão đáng kính Mahaakacchaayana và trông thấy Trưởng lão đang ngồi một mình ở đó và đang mặc những chiếc y được làm bằng vải vụn từ đống rác. Đầy lòng tịnh tín khi trông thấy riêng oai nghi này của Ngài, vị ấy đảnh lễ Trưởng lão, nói lời chào hỏi thân mật, và rồi ngồi xuống ở một bên. Rồi Trưởng lão thuyết pháp cho vị ấy. Khi đã nghe qua pháp, vị ấy có đầy lòng tịnh tín đối với Tam bảo và, khi đã được an trú trong tam qui, bèn mời Trưởng lão, khi nói rằng, "Bạch Đại Đức, xin Ngài hãy bi mẫn mà nhận lời mời của con đến Ngài và Chư Tăng để đến thọ thực trong ngày hôm sau".

Trưởng lão nhận lời bằng cách im lặng. Rồi vị ấy rời khỏi chỗ ấy, đi đến thành phố và báo tin cho những thiện tín khác biết, khi nói rằng, "Tôi đã mời Trưởng lão trong ngày hôm sau. Các bạn cũng nên đến nhà của tôi nơi mà những vật thí sẽ được cho ra". Vào lúc sáng sớm của ngày hôm sau, vị ấy sai sửa soạn vật thực loại cứng và loại mềm, sai công bố rằng đã đến giờ và rồi đi ra để đón tiếp Trưởng lão khi ngài đang đi đến với mười hai vị Tỳ kheo. Vị ấy đảnh lễ họ và mời họ vào nhà. Khi Trưởng lão và các vị Tỳ kheo đã ngồi trên những chỗ ngồi đã được soạn sẵn với những đồ trải đắc giá và thích hợp, vị ấy cúng dường đến các Ngài vật thơm, những bông hoa, hương trầm và đèn nến; và làm thoả mãn các Ngài bằng đồ ăn và thức uống thượng vị. Đầy lòng tịnh tín và với hai tay chấp lại trong thái độ tôn kính, vị ấy lắng nghe lời tuỳ hỷ của các Ngài.

Khi Trưởng lão đang đi, sau khi sự phúc chúc cho bữa thọ thực đã được thực hiện, vị ấy cầm lấy bát Trưởng lão và, khi đi theo các Ngài, rời khỏi thành phố. Sau khi đã thỉnh Trưởng lão quay lui, vị ấy thỉnh cầu Trưởng lão rằng, "Bạch Ngài, Ngài nên viếng thăm nhà con thường xuyên", và rồi trở về sau khi biết được Trưởng lão đã nhận lời mời. Khi hầu hạ Trưởng lão như vậy, vị ấy được an trú trong giáo giới của Trưởng lão và chứng đắc quả thánh Tu đà hườn. Vị ấy sai dựng lên một phước xá, khiến cho tất cả quyến thuộc của vị ấy được tìm thấy đức tin trong giáo pháp. Tuy nhiên, mẹ của vị ấy, có tâm bị che mờ bởi lòng bỏn xẻn và hay chửi mắng vị ấy như vầy, "Cầu cho đồ ăn và thức uống này mà mày đã cho đến các vị Sa môn như vậy, trái nghịch với ước muốn của tao, sẽ biến thành máu nhơ cho ngươi trong kiếp sau!" Tuy nhiên bà ta, đã bỏ ra một cành thoa bằng lông đuôi của con chim công để dâng cúng nó trong ngày đại nhựt của tịnh xá ấy. Khi bà ta chết và tái sanh trong cõi Ngạ quỉ và do quả phước của vật thí bằng cái thoa từ lông đuôi của con chim công nên tóc của bà ta đen, mướt, xoắn ở đuôi tóc, mịn và dài. Khi nữ quỉ đi xuống dòng sông Hằng nghĩ rằng ta sẽ uống nước", thì dòng sông ấy biến thành máu. Trong năm mươi lăm năm nàng đi lang thang, bị đói và khát.

Rồi một hôm nọ nàng trông thấy Trưởng lão Ka.nkhaarevata đang ngồi trên bờ sông để nghỉ trưa. Nữ quỉ đi đến Trưởng lão trong khi che mình bằng mái tóc dài và xin Ngài một ít nước. Liên quan đến điều này, lời nói sau đây được nói đến, hai câu kệ cuối đã được lồng vào ở đây bởi những vị kiết tập Tam tạng:

1. "Con Nữ Ngạ quỉ trông xấu xí và ghê sợ ấy đi đến một vị Tỳ kheo mà đã đi nghĩ trưa và đang ngồi ở trên bờ sông hằng.

2. Tóc của nàng rất dài, xõa xuống đến đất. Được che phủ bởi tóc của nàng, nàng nói với vị Sa môn như vầy.

3. Trong năm mươi lăm năm từ khi tôi chết, tôi không biết là đã ăn hay đã uống nước như thế nào xin hãy cho tôi một ít nước, thưa Ngài tôi bị khô khát vì thiếu nước.

4. "Nước mát của sông hằng chảy xuống từ Hi mã lạp sơn - ngươi có thể lấy một ít ở đây mà uống. Tại sao lại xin nước ở nơi ta?"

5. "Thưa Ngài, nếu chính tôi lấy nước từ sông hằng thời nó sẽ biến thành máu dành cho tôi. Đó là lý do khiến tôi xin nước".

6. "Ác nghiệp nào được làm bởi ngươi do thân, khẩu hoặc ý? Do kết quả của ác nghiệp nào khiến nước biến thành máu dành cho ngươi?"

7. "Thưa Ngài, con trai của tôi là Uttara, có đức tin và là một Thiện nam đã chống lại ý muốn của tôi, nó ban cho những vị Sa môn những y phục và những vật thực, những vật dụng và những chỗ ngụ.

8. Nhưng tôi, bị khuấy động bởi lòng bỏn sẻn, đã nguyền rủa nó như vầy, "Cầu cho những chiếc y và vật thực bố thí, những vật dụng và những chỗ ngụ mà mày ban đến cho những vị Sa môn, chống lại ý của tao.

9. Cầu cho điều này hãy biến thành máu dành cho ngươi trong kiếp sau, này Uttara!" chính do kết quả của nghiệp ấy khiến cho sông hằng trở thành máu dành cho tôi".

Rồi Đại Đức Revata đã cho một số nước đến Chư Tăng nhân danh nữ ngạ quỉ, đi khất thực và lấy vật thực mà vị ấy đã gom được đem dâng đến chư Tăng. Vị ấy lượm những miếng vải từ đống rác v.v... rửa sạch chúng rồi kết thành những tấm nệm và tấm thảm, và cho đến các vị Tỳ kheo. Và bằng cách này, nữ Ngạ quỉ ấy đạt đến sự vinh quang của chư Thiên. Nàng đi đến Trưởng lão và cho Trưởng lão thấy sự vinh quang của chư Thiên mà nàng đã đạt được. Trưởng lão giải thích vấn đề ấy với tứ chúng mà đã đến trước mặt Trưởng lão và rồi ban ra một thời pháp thoại. Dân chúng, đầy xúc động, nhờ đó được thoát khởi bợn nhơ của lòng ích kỷ và lấy làm hoan hỷ trong những thiện pháp như bố thí v.v...

Quỉ sự này nên được xem là đã được kết thúc trong bản sưu tập này tại hội kiết tập lần thứ hai.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 3969)
Mẹ kính yêu muôn đời muôn kiếp của con, Mẹ ơi! đã 50 tuổi rồi mà con vẫn thèm Mẹ, con thèm Mẹ như dòng sữa ngon ngày nào Mẹ đã nuôi con lớn.....Nuôi con, con con mới biết tình thương của Mẹ dành cho con to lớn, ấp ủ dường nào...Các cháu Ngọai của Mẹ bây giờ đã bắt đầu trưởng thành nhưng con vẫn còn nguồn cảm xúc thương yêu mỗi khi các cháu nằm trong vòng tay con mân mê đòi sữa mẹ; những lúc đó con cảm nhận, con hưởng thụ được tình Mẹ tràn đầy trong con.....
10/04/2013(Xem: 3728)
Con mơ được một lần, Một lần thôi mẹ nhé, Thêm một lần nữa thôi, Được nắm lấy tay mẹ.
10/04/2013(Xem: 3454)
Mùa Vu-lan đến, lá thu vàng nhuốm đỏ hàng cây dọc đường Oklahama. Gió chiều lạnh xe xắt, chuông chùa từng tiếng đổ, lòng chúng con chùn lại, xao xuyến nhớ lại ơn nghĩa nghìn trùng của Mẹ Cha. Hướng mặt về phía đông, nơi mặt Hồ Miwaukee (một trong ngũ đại hồ lớn nhất thế giới) mênh mông bát ngát, để tình thương bao la của gió tràn về.
10/04/2013(Xem: 5295)
Có lẽ vì đi Chùa lâu năm hay vì được quý Thầy, quý Cô dạy dỗ qúa cẩn thận răng mà đức tính "tự tin" trong tôi bỗng nhiên đột ngột phát triển quá độ lúc mô tôi không hay, để rồi ngay giây phút ni nó không còn dừng lại ở chỗ "tự tin" nữa mà đã chuyển hóa thành "tự tung tự tác" khiến tôi dám cả gan biến đổi luôn cả câu tục ngữ của ông bà mình đã có tự ngàn xưa!
10/04/2013(Xem: 8283)
Giống như tình yêu, gia đình luôn là vĩnh hằng khi trái đất vẫn tiếp tục sinh ra con người, để cho con người dù dọc ngang trời đất, vẫn cứ quay về, trước mỗi ấm lạnh cuộc đời. Ở đó, người mẹ luôn là ngọn lửa ấm, là linh hồn thổi vào đời đứa con cả sự sống lớn khôn, cả yêu thương vô bờ bến, bằng chắt chiu và tảo tần… Để cho dù có đi khắp thế gian, mọi đứa con có gặp bao điều hay lẽ phải, cũng không gì có thể sánh được với tấm lòng trời biển của mẹ, "không ai tốt bằng mẹ"
10/04/2013(Xem: 3731)
Bà Thanh Đề là mẹ của ngài Mục Kiền Liên (cũng gọi là Mục Liên). Bà tính tình tham lam, độc ác, không tin Tam Bảo, tạo ra nhiều tội lỗi nặng nề, gây ra nhiều "nhân" xấu nên khi chết đi chịu "quả" ác, bị đày vào ác đạo, sinh làm loài ngạ quỷ, đói khát triền miên trong đại địa ngục.
10/04/2013(Xem: 3933)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người. Có thể em chưa phải là Phật tử, chưa biết gì về Đạo Phật. Nhưng em cũng cần biết một cách khái lược về hiếu đạo, vì điều đó đâu có xa lạ gì với truyền thống đạo đức của người Việt Nam.
10/04/2013(Xem: 5486)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn, hoạnh tử phiêu diêu, phưởng phất đầu ghềnh cuối bãi, tha ma mộ địa... không nơi nương tựa, không người chăm nom, nhờ năng lực của ấn chú, nhờ sự nhất tâm gia trì của vị Sám chủ, của chư Tăng Kinh Sư mà được siêu thoát.
10/04/2013(Xem: 5076)
Nhọc nhằn tần tảo Mẹ nuôi con Sớm nắng chiều mưa mẹ mỏi mòn Oằn vai trĩu nặng đôi quang gánh Gánh trọn cuộc đời với đàn con
10/04/2013(Xem: 4933)
Hôm nay là ngày Rằm Tháng Bảy, ngày tự tứ của mười phương tăng chúng, ngày hoan hỉ của chư Phật, ngày hội Vu Lan để mọi người con Phật làm lễ Tôn kính và Tưởng nhớ công ơn Cha Mẹ. Đức Phật dạy: “Công ơn Cha Mẹ sâu dầy vô tận. Dù vai phải cõng Cha, vai trái cõng Mẹ mà đi hàng trăm nghìn kiếp, người con vẫn không thể nào đền đáp nổi công ơn ấy!”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]