Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con đi trường học, Mẹ đi trường đời

09/08/201102:14(Xem: 10904)
Con đi trường học, Mẹ đi trường đời

dua-con-di-hoc
Con đi tr
ường hc

Mẹ đi trường đi

“Ầu ơ……..

Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo, gập ghềnh khó đi,

Khó đi Mẹ dắt con đi

Con đi trường học, Mẹ đi trường đời”

Đó là lời hát ru con mà tôi thường hò để dỗ con vào giấc ngủ trong những ngày tháng khi chúng còn trẻ thơ và rồi ngày mỗi ngày lời ru ấy thấm dần, thấm dần đến tận tâm can của tôi! Tôi thật sự đã ngỡ ngàng và bàng hoàng khi phát hiện ra sự khác biệt qúa chênh lệch giữa “Trường học” và “Trường đời”. Có lẽ chỉ những người có thiên chức làm mẹ mới hiểu được rạch ròi về vạn lần đắng cay của “trường đời”.

Tôi không thích đem cuộc sống, cuộc đời của mình để so sánh với ai cả vì mỗi người trong chúng ta ai cũng đều có những hoàn cảnh, những nỗi niềm riêng, nhưng tôi luôn cố ý đem cuộc đời mình lên bàn cân để đong, đo, cân, đếm với những gì mà Mạ tôi đã nặng vai gánh chịu trong “trường đời” này, để rồi tôi chỉ tìm ra kết qủa duy nhất của sự so sánh bất cân đối này muôn đời vẫn bất cân, để rồi cho tôi thấy rằng những gì mình nghĩ là đã hy sinh cho chồng, cho con, cho gia đình... chỉ đúng nghĩa là muối bỏ biển so với Mạ tôi mà thôi. Có đáng chi khi bản thân chúng tôi đã được Ba Mạ tôi trang bị cho đầy đủ hành trang từ nơi chốn học đường đến những kinh nghiệm xương máu mà Ba Mạ tôi đã đánh đổi với cuộc đời để truyền lại cho chúng tôi? Có đáng chi khi Ba Mạ tôi đã đem cả cuộc đời ra lót trải con đường để mong cầu những bước đi của những đứa con được trơn tru, nhẹ nhàng và bằng phẳng hơn…. Và có đáng chi khi mình hụt hẩng, buồn phiền…. thì đều có đôi vai của Ba Mạ để dựa vào thật an toàn, để được vỗ về, khuyên nhủ, để được an ủi và thậm chí gánh chịu thay….. Trong khi Mạ tôi, một người con gái mồ côi cha từ lúc lên bốn, ngay cả một kỷ niệm nhỏ nhoi duy nhất về người cha cũng không hề có, ngay cả một lời răn dạy, một tiếng nũng nịu với người cha cũng không hề được đón nhận, dường như tất cả những gì về một người cha đều là sự huyền ảo đối với Mạ tôi….. ngơ ngác giữa cuộc đời vì mẹ của mình thì lo bận rộn làm ăn quanh năm suốt tháng và anh trai thì cũng chưa đủ lớn khôn đề bảo bọc, chỉ dẫn cho mình. Tuổi thơ của Mạ tôi đi qua thật ngây ngô trong đơn độc như Mệ Nội tôi thường kể lại (vì Ôn Mệ Nội tôi ở cùng xóm với Mệ Ngoại tôi): “Mạ mi ngây thơ, con nít dữ lắm, mười 16 tuổi đầu rứa mà cứ xách dây nhảy quanh xóm không hề biết “ốt dột” chi hết”. Suốt ngày chỉ biết thêu, đan, đàn hát một mình, không có chị em gái để chia buồn xẻ đắng, cũng chẳng hề có lấy một người bạn gọi là tri âm tri kỷ để bầu bạn, tâm tình…….. để rồi sau đó về làm vợ Ba tôi và là người con dâu trưởng trong gia đình Ôn Mệ Nội tôi, nhưng trong khi bản thân Mạ tôi thì không hề có một chút hiểu biết hay một chút tư lương chi về hai vai trò này cả. Mệ Nội tôi đã phải thay Mệ Ngoại tôi dạy cho Mạ tôi mọi điều từ cách đi chợ mua thức ăn cho đến nấu nướng, vun vén gia đình…..

Và rồi từ đó Mạ tôi đã để lại sau lưng tất cả những sự hồn nhiên, trong sáng của thời con gái để dấn bước vào “Chợ đời” lo phụ Ba tôi kiếm miếng cơm, manh áo mà nuôi đàn con, và rồi những mùi vị đắng, cay, chua, chát trên cuộc đời này Mạ tôi đều phải nếm qua, đều phải chịu đựng mà nuốt vào tim một mình. Tôi đã từng vừa đủ trí khôn để chứng kiến cảnh Mạ tôi một mình bương chãi giữa chợ đời như thế nào, đã bị chà đạp, đối xử như thế nào những vẫn rạng nở nụ cười để đổi lấy miếng cơm cho chị em tôi được đến trường trong những ngày tháng túng quẩn của gia đình. Tôi không thể nào quên được hình ảnh những lần Mạ tôi ngồi một mình khóc thảm thiết để rồi sau đó gạt nước mắt cho ngày hôm sau tiếp tục “con đi trường học, Mẹ đi trường đời”, tôi càng không thể quên cho dù bịnh hoạn trong người Mạ tôi vẫn phải bới thuốc theo uống để đi bán. Người ta vẫn thường coi “nước mắt là vũ khí lợi hại của phụ nữ”, nhưng với Mạ tôi nước mắt là sự tự an ủi bản thân khi gặp trái ngang, là sự tự giải tỏa nỗi đau trong lòng mà không người chia xẻ. Tất cả những gì Mạ tôi chịu đựng chỉ duy nhất với một quyết tâm là nhất định không cho chị em tôi bỏ cuộc trong việc học hành để ra phụ giúp kinh tế gia đình lúc ngặt nghèo đó. Tôi luôn nhớ mãi, nhớ hoài câu dặn dò của Mạ tôi: ”Mạ học hành không được tới nơi tới chốn nên chỉ mong sao mấy đứa con ráng học hành cho thành tài”. Có lẽ với lòng mong mõi con cái mình sẽ thay mình làm những việc, những gì mà bản thân Mạ tôi không có được nên Mạ tôi đã chấp nhận hy sinh một mình để trang bị cho chị em tôi thật đầy đủ, để chúng tôi có được sự tự tin khi bước vào đời mà không bị mang trong mình mặc cảm dày vò như Mạ tôi đã từng.

Tôi cứ nhớ mãi cái ngày Mạ tôi không nói không rằng, dẫn tôi leo lên chiếc xích lô chạy thẳng tới đường Lê Thánh Tôn ở chợ Sài Gòn, dẫn tôi lên lầu của một ngôi nhà và trao tôi cho một Ông Thầy khá lớn tuổi rồi bảo:”Dạ xin Thầy cho cháu được học đàn với Thầy”. Tôi chưa kịp hoàng hồn chống đối lại Mạ tôi vì loại nhạc cụ tôi được học đầu đời của mình lại là đàn Vĩ cầm (Violin), loại đàn mà tôi thường gọi là dành cho “Ban nhạc phút cuối” (chỉ ban nhạc đám ma) bởi vì kéo lên nghe ghê quá nhất là lúc mới học nhưng Thầy tôi bảo tôi đó là Vua của âm nhạc. Tôi cũng đành nghe lời Mạ tôi học trong đau khổ nhưng nhờ đó mà tôi đã đến với âm nhạc và các em tôi sau này cũng vậy. Rồi chưa kể kêu, bắt chúng tôi học đủ thứ nan y. Tôi cứ nhớ Mệ Nội tôi thấy chúng tôi đi học cũng chóng cả mặt nên đã nói: ”Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” chứ “Nhiều nghề cá trê đục vô ống” thôi hí???

Bây giờ có con, nuôi con rồi tôi mới thấm thía và càng thương yêu Mạ tôi nhiều hơn, nhiều hơn nữa….tôi hiểu Mạ tôi đã đến với trường đời để đánh đổi như thế nào để cho chúng tôi đến trường học một cách trọn vẹn. Với tôi “Phúc đức tại Mẫu” muôn đời đúng đối với chị em tôi, mặc dù Mạ tôi cứ thường bảo: ”Con gái nhờ đức cha”, nhưng tôi bảo đảm Ba tôi cũng sẽ đồng lòng với những cô “con gái rượu” của Ba về điểm này Ba hí?

Nếu ở đời này Mạ con tôi với sự tu hành còn yếu kém, chưa đủ để được giải thoát và để rồi có thể trở lại làm kiếp người thêm lần nữa, thì tâm niêm của tôi cũng xin được cùng cộng nghiệp với Mạ tôi trong sự hoán đổi vị trí để được đưa đôi vai này gánh vác đỡ đần thay cho Mạ tôi. Nhưng đã là con Phật rồi, tôi phải có niềm tin là với một người Phật tử thuần thành, tràn đầy lòng từ bi, nhân hậu và hy sinh như Mạ tôi chắc chắn sẽ được về với Phật!

Cành Hồng đỏ thắm, thấm tim

Con cài lên ngực gọi thầm: “Mạ ơi!”

Đắng cay, chua xót gạn rồi

Vô ưu trải nụ hoa đời thắm tươi.

Mùa Vu Lan 2010

Quảng Hương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2014(Xem: 9203)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
29/07/2014(Xem: 25162)
Hồng đỏ cài lên đẹp tuyệt vời Phải nên trân trọng nhé người ơi! Những ai còn mẹ còn hồng đỏ Màu đỏ thắm tươi vẻ rạng ngời
24/07/2014(Xem: 4647)
Tối nay ngồi vẽ Mẹ. Một người Mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt Mẹ đã xạm đen vì dãi dầu. Đôi mắt Mẹ đã trĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi Mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện.
24/07/2014(Xem: 4473)
Vu Lan là lễ truyền thống lâu đời có từ thời Đức Phật còn tại thế hơn 2,500 năm trước; đồng thời cũng là lễ tiết quan trọng phổ thông của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa mà tổ tiên chúng ta đã giữ gìn qua nhiều thế hệ. Lễ tiết Vu Lan hay Vu Lan thắng hội gắn liền với lễ giải Hạ - Tự tứ của Tăng đoàn Phật Giáo. Lễ Tự tứ có nghĩa là sau những tháng ngày tịnh tu Giới - Định - Tuệ, ba nghiệp của hành giả sâu lắng thanh tịnh; hai vị Tỳ kheo đối thú nhau chân thành bày tỏ khởi đi từ đạo tình cao quý nhẹ nhàng trong sáu tiếng: thấy tội, nghe tội, nghi tội, những mong đợi vị thầy đối diện chỉ bày cho ta thành tâm sám hối trước hội chúng và Tam Bảo, nguyện cải đổi không tái phạm, nếu xét thấy mình có tội. Thật là thành khẩn, cao đẹp trong hòa hài, từ bi, nhẫn thuận, bình đẳng. Nhẹ nhàng nhưng mang chất liệu tuệ giác tự thân và san sẻ với giác tha của người đối diện kết nên vòng nhân duyên thù thắng hầu tiến đến giác hạnh viên mãn.
24/07/2014(Xem: 4488)
Mỗi mùa Vu Lan đến Biết bao dòng lệ rơi Cho tình vô bờ bến Bày tỏ không nên lời Nghẹn ngào trong nước mắt Tưởng nhớ đến mẹ cha Ân tình cao chất ngất Suốt đời đã bôn ba
19/07/2014(Xem: 5085)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phật giáo chủ trương nhân quả theo nhau như hình với bóng, nghĩa là người gây nhân lành ắt sẽ hưởng quả tốt, ngược lại kẻ tham lam, vị kỷ, độc ác... chỉ biết lợi mình, không kể đến hậu quả làm phiền lụy khổ đau cho tha nhân, rộng ra là cả sinh linh vạn loại, đương nhiên sẽ gặp những phiền toái, chịu đựng những trách móc, oán hận của những nạn nhân, hay khi xả bỏ cuộc sống sẽ lãnh sự trừng phạt trong 3 ác đạo mà thế nhân hay tín ngưỡng nào cũng nghĩ bàn để khuyến miễn người đời phải lo tu thân hành thiện, làm đẹp nhân sinh. Mùa Vu Lan báo hiếu phát xuất từ đức Mục Kiền Liên kiếm tìm, thăm viếng rồi giải thoát mẹ ngài khỏi cảnh giới ngạ quỷ, có từ thời đức Phật còn tại thế; văn hóa thế nhân có từ khi loài người hướng về nẻo thiện. Gần chúng ta là văn hóa Á Đông, lấy nhân luân làm căn bản: Hiếu, đễ, tru
18/07/2014(Xem: 5016)
Nhờ năng lực của Tăng đoàn mà mẫu thân của ngài Mục Kiền Liên được thoát khỏi cảnh bi thống nơi chốn địa ngục. Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp là năng lực vô biên hóa giải được khổ đau từ cõi vô hình cho đến thế giới con người. Trọng tâm của Giáo hội chúng ta đặt ở sự hiệp lực này, trong ấy những Phật sự hằng năm của Giáo hội, tất cả tăng ni và thiện tín cùng nhau chung lo. Bốn phật sự thường xuyên của Giáo hội mà mỗi thành viên đều chung sức chung lòng đó là: Phật đản, An Cư, Khóa Tu Học Bắc Mỹ và Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ.
15/05/2014(Xem: 7170)
Hôm nay ngày giỗ của Ba tôi, tự dưng lòng tôi thèm viết một chuyện gì đó về Ba tôi…như nhà văn Võ Hồng thường khuyên mọi người nên viết lại những kỷ niệm sinh hoạt của cha, của mẹ mình, những kỷ niệm mà mình nhớ hơn hết, đáng nhớ hơn hết…để nhân ngày k?giỗ của cha mẹ, tập trung về, cùng đọc, cùng nghe, cùng xúc động, hồi tưởng công ơn. Con cháu sẽ có dịp sống lại không khí đại gia đình, con nhớ thương cha mẹ, cháu gần gủi, quý trọng ông bà!
16/10/2013(Xem: 19577)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
16/10/2013(Xem: 15448)
Kính lạy vong linh cha, Khác biệt với muôn ngàn trường hợp khi cầm viết đặt lên giấy. Con ghi lại vài nét – chỉ vài nét thôi về đời sống của cha – một người cha có lắm điều độc đáo, không những chỉ trong hàng con cháu mà bất cứ ai cũng công nhận là hãn hữu và cần rút tỉa những điểm son để soi sáng vào nếp sống của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]