Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sổ Tay Mục Lục Tam Tạng Pāḷi (do TT Thích Nhật Từ biên soạn)

20/11/202113:42(Xem: 5666)
Sổ Tay Mục Lục Tam Tạng Pāḷi (do TT Thích Nhật Từ biên soạn)

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM

Trung tâm Nghiên cứu và Phiên dịch Phật học

 

SỔ TAY MỤC LỤC TAM TẠNG PĀḶI

Soạn dịch

THÍCH NHẬT TỪ

 

Trợ lý

NGỘ TRÍ ĐỨC

NGỘ TÁNH HẠNH
Sổ-tay-mục-lục-Tam-tạng-Pali---Thích-Nhật-Từ-001

LỜI NÓI ĐẦU

 

Khi được Trưởng lão Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, bổ nhiệm vào vai trò “đồng Tổng biên tập” dự án “Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam”[1] năm 2019, tôi bắt tay vào việc biên soạn và đến tháng 11/2021, tôi đã hoàn tất các bản thảo, dự kiến xuất bản trong cuối năm 2021: (i) Tổng mục lục Tam tạng Pāḷi, (ii) Mục lục Tam tạng Đại Chánh, (iii) Tổng mục mục Tam tạng Phật giáo, (iv) Thư mục tham khảo Tam tạng Đại Chánh. Bốn quyển sách này là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích, giúp tôi tiếp tục biên soạn quyển “Tổng mục lục Thánh điển Phật giáo Việt Nam”, dự kiến hoàn tất trong năm 2022.

Quyển “Sổ tay mục lục Tam tạng Pāḷi” này chứa đựng các thông tin nền tảng của quyển toàn diện hơn, “Tổng mục lục Tam tạng Pāḷi,” giúp người tìm hiểu về Phật giáo Thượng tọa bộ nói riêng và người yêu thích Phật giáo nói chung, có thể tra cứu nhanh về xuất xứ của các bản văn Kinh, Luật, Luận Pāḷi, cũng như đối chiếu tựa đề Việt – Pāḷi – Hán.

Toàn bộ văn học Pāḷi bao gồm Tam tạng (Tipiṭaka), sách chú giải Tam tạng (Aṭṭhakathā), sách sớ giải về sách chú giải Tam tạng (Ṭīkā), sách hậu sớ giải tuần tự về sách sớ giải về sách chú giải Tam tạng (Anuṭīkā) và các bản văn Pāḷi ngoài Tam tạng (Añña Pāḷi gantha).

1. Tam tạng (tipiṭaka, 三藏) gồm (i) Kinh tạng (Suttapiṭaka, 經藏) tức chân lý được đức Phật giảng dạy trong 45 năm, giúp con người hiểu các quy luật và đạt trí tuệ, (ii) Luật tạng (Vinayapiṭaka, 律藏), tức các điều khoản đạo đức, giúp con người có nhân cách cao quý, hữu ích và giá trị, (iii) Luận tạng (Abhidhamma, 論藏), tức các tác phẩm triết học về tâm, tâm lý, giúp con người làm chủ tâm và phản ứng tâm lý.

2. Aṭṭhakathā Sách chú giải Tam tạng (Tipiṭaka Aṭṭhakathā, 三藏註釋書, tam tạng chú thích thư) gồm: (i) Sách chú giải Kinh (Sutta Aṭṭhakathā, 註釋書, Kinh chú thích thư), (ii) Sách chú giải Luật (Vinaya Aṭṭhakathā, 註釋書, Luật chú thích thư), (iii) Sách chú giải Luận (Abhidhamma Aṭṭhakathā, 註釋書, Luận chú thích thư).

Chữ “aṭṭhakathā” được kết hợp bởi hai thành tố: “aṭṭha” đồng nghĩa với “attha” có nghĩa là “ý nghĩa” () hay “nghĩa lý” (義理) và “kathā” có nghĩa là “luận” () hay “thư” (); thường được dịch trong chữ Hán là sách “chú thích” (註釋), sách “chú giải” (), hoặc “giải thích ý nghĩa” (義疏, nghĩa sớ), “thuyết minh” (說明) hay “giải thích” (解說) tức sách chú thích ý nghĩa của Tam tạng (三藏的義註) hay sách chú thích Tam tạng Pāḷi (巴利三藏的註釋書). Bậc thầy viết sách chú giải về Tam tạng được gọi là “Tam tạng nghĩa chú sư” (三藏義注師) hay chuyên gia chú thích Tam tạng (三藏).

3. Ṭīkā Sách sớ giải về Sách chú giải Tam tạng (ṭīkā, 疏鈔)[2] gồm: (i) Sách sớ giải về Sách chú giải Kinh (Sutta Aṭṭhakathā Ṭīkā, 註疏鈔, Kinh chú sớ sao), (ii) Sách sớ giải về Sách chú giải Luật (Vinaya Aṭṭhakathā Ṭīkā, 註疏鈔, Luật chú sớ sao), (iii) Sách sớ giải về Sách chú giải Luận (Abhidhamma Aṭṭhakathā Ṭīkā, 註疏鈔, Luận chú sớ sao).

Chữ “ṭīkā” thường được dịch trong chữ Hán là “sớ” () hoặc “sớ sao” (疏鈔), đầy đủ hơn là “sớ giải về sách chú giải” (註書疏鈔, chú thư sớ sao), còn được dịch là “chú thích của chú thích” (註釋的註釋) hoặc “chú giải thêm” (復註, phục chú). Bậc thầy viết sách chú giải về sách chú giải Tam tạng được gọi là “Tam tạng nghĩa sớ sao sư” (Ṭīkācariya, 三藏義註疏鈔), hoặc gọn hơn là “chú thích sư” (註釋師).

4. Anuṭīkā tức Sách hậu sớ giải tuần tự về Sách sớ giải về Sách chú giải Tam tạng (Anuṭīkā, 順次復註, thuận thứ phục chú) tức sách “hậu sớ giải tuần tự” (隨複注, tùy phức chú) về các sách sớ giải (ṭīkā). Chữ “Anuṭīkā” được kết hợp bởi hai thành tố “anu” có nghĩa là “theo trình tự” (順次, thuận thứ) hoặc “hậu” () và “ṭīkā” có nghĩa là “sớ giải về chú giải”, do đó,  Anuṭīkā” có nghĩa là “hậu sớ giải tuần tự về sách chú giải”.

Tại đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù truyền thống Phật giáo Nam tông Khmer của cộng đồng người Campuchia đã có mặt nhiều thế kỷ trước, kể từ thập niên 70 của thế kỷ XX trở đi, khi Trưởng lão Thích Minh Châu, Viện trưởng Viện đại học Vạn Hạnh bắt đầu phiên dịch Kinh tạng Pāḷi và giảng dạy Phật giáo Thượng tọa bộ tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM từ năm 1984 cho đến nay, các Tăng Ni và Phật tử Việt Nam mới nghiên cứu và hiểu biết sâu về Tam tạng Pāḷi, vốn là các bản văn Kinh, Luật, Luận được xem gần với lời dạy của đức Phật.

Quyển “Sổ tay mục lục Tam tạng Pāḷi” chia làm bốn phần. Phần một giới thiệu khát quát về: (i) Kho tàng chân lý (Suttapiṭaka, 經藏, Kinh tạng), (ii) Kho tàng đạo đức (Vinayapiṭaka, 律藏, Luật tạng), (iii) Kho tàng giáo pháp cao cấp (Abhidhammapiṭaka, 論藏, Luận tạng, A-tỳ-đạt-ma tạng), (iv) Chú giải và sớ giải Kinh tạng (Suttapiṭaka Aṭṭhakathā & Ṭīkā, 經藏注釋與疏抄, Kinh tạng chú thích dữ sớ sao), (v) Chú giải và sớ giải Luật tạng (Vinayapiṭaka Aṭṭhakathā & Ṭīkā, 律藏注釋與疏抄, Luật tạng chú thích dữ sớ sao), (vi) Chú giải và sớ giải Luận tạng (Abhidhammapiṭaka Aṭṭhakathā & Ṭīkā, 論藏注釋與疏抄, Luận tạng chú thích dữ sớ sao), (vii) Văn học Pāḷi ngoài Tam tạng (Añña Pāḷi gantha, 藏外文獻, Tạng ngoại văn hiến) bao gồm đã phân loại và chưa phân loại. Phần hai là danh mục Tam tạng Pāḷi – Việt – Hán theo mẫu tự ABC. Phần ba là danh mục 34 tựa đề đối chiếu Kinh Trường bộ. Phần bốn là danh mục 152 tựa đề đối chiếu Kinh Trung bộ.

Về cách dịch tựa đề tiếng Việt, đối với các trường hợp tựa Pāḷi quá súc tích thì tôi dựa vào tựa đề chữ Hán. Vì tựa đề Pāḷi quá ngắn nên các dịch giả tựa đề chữ Hán đã thêm vào những từ và cụm từ không có trong nguyên tác Pāḷi nhằm giúp độc giả dễ nhớ nội dung. Tùy theo trường hợp, miễn sao giúp độc giả hiểu rõ ý nghĩa, tôi chọn cách dịch tựa đề Pāḷi sang tiếng Việt một cách thích hợp, có tham khảo bản dịch chữ Hán.

Về các tựa đề tiếng Việt, nếu có 2-3 tựa đề cho cùng một tác phẩm thì phần lớn tựa đề ở vị trí đầu tiên là tựa đề bản dịch của các giả trước gồm Trưởng lão Thích Minh Châu, Hòa thượng Tịnh Sự và các dịch giả văn học Pāḷi, trong khi, các tựa đề ở trí sau (thường đứng sau dấu ;) là do tôi dịch theo cách Việt hóa tối đa có thể, nhằm giúp độc giả Việt Nam dễ hiểu và dễ nhớ tựa đề các bản văn Pāḷi. Vì tiếng Việt có hơn 50% có gốc rễ chữ Hán, do đó, bên cạnh tựa đề tiếng Việt, tôi còn giới thiệu bản dịch chữ Hán của các dịch giả Trung Quốc, kèm theo phiên âm Hán Việt để độc giả có thể tham khảo và đối chiếu khi cần thiết.

Hoàn thành một công trình, bao giờ cũng nhờ sự đóng góp của nhiều người. Tôi cảm ơn TT. Thích Giác Hoàng đã dò bản tiếng Việt. Tôi tán dương đệ tử của tôi, Thích Ngộ Trí Đức, đã hỗ trợ kỹ thuật và Ngộ Tánh Hạnh đã trợ giúp đối chiếu và dò bản chữ Hán. Về ấn tống, tôi tán dương Phật tử Giác Thanh Nhã và các Phật tử gần xa.

Quyển “Sổ tay mục lục Tam tạng Pāḷi” được biên soạn với mục đích giúp sinh viên khoa Phật học và người học Phật làm quen với văn học Pāḷi gồm Tam tạng, chú thích, sớ giải và văn học Pāḷi ngoài Tam tạng và các tác phẩm Pāḷi chưa phân loại. Hy vọng quyển sổ tay này giúp độc giả có thêm nềm vui thích trong việc học Phật, nghiền ngẫm chân lý Phật và thực hành chân lý Phật trong cuộc sống, nhằm đặt xuống gánh nặng khổ đau, trải nghiệm an vui, hạnh phúc trong đời.

 

Chùa Giác Ngộ, ngày 11/11/2021

THÍCH NHẬT TỪ

 

 

 

 

 



[1] Người được bổ nhiệm làm đồng Tổng biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam là TT. Thích Minh Thành.

[2] Tiếng Anh thường dịch là “Sub-commentary” hay “A Pāḷi commentary on an aṭṭhakathā” tức “sách chú giải “ về sách chú thích Tam tạng.

pdf-icon
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 13264)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 22195)
Con người là sinh vật quan trọng nhất – Đức Phật từ con người mà thành Phật – vì nó có những đặt tính ưu việt hơn tất cả những loài vật khác; nhưng Phật Giáo lại không cho con người là độc tôn, vì còn có những chúng sanh hữu tình và vô tình khác. Hai loại này ở trong một thể thống nhất giữa thế giới và nhân sinh. Vì thế, không có con người là kẻ thù của con người, cho đến loài vật, cây cỏ cũng vậy.
08/04/2013(Xem: 5487)
Giải thích tổng quát về Kinh Hoa Nghiêm theo hệ Kinh tạng Đại Thừa: Đức Phật ra đời vì “hạnh phúc an lạc của chư Thiên và loài người” như lời Ngài đã từng tuyên bố. Thế nên sự sống mà Đức Phật ra đời thật vô cùng quan trọng, đó là chân lý, là Pháp âm được vang lên khắp vũ trụ sơn hà. “Pháp âm bất tuyệt” tất cả tiếng chim hót, dế ngân, sóng vỗ, thảo mộc, khai hoa, thông reo suối chảy, đến tiếng đá rơi ... đều là pháp, không nơi đâu không phải là pháp.
08/04/2013(Xem: 17048)
Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
08/04/2013(Xem: 13046)
Xin quí vị bấm vào xem PDF
08/04/2013(Xem: 24850)
Phật Pháp hằng còn mãi ở thế gian là nhờ sự hoằng truyền sâu rộng trong quần chúng. Thiếu sự hoằng truyền, Phật pháp phải bị mờ và có thể đi lần đến chỗ tiêu diệt. Trong công đức hoằng truyền ấy, phiên dịch là một phần rất quan trọng.
08/04/2013(Xem: 6171)
SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG (Marga-satya): Sự thật thứ tư là con đường trực tiếp đưa đến sự giải thoát chấm dứt khổ đau. Sự thật này là tác nhân giải thoát hiện tại đưa đến chấm dứt quả khổ gần hay xa trong . . .
05/04/2013(Xem: 28727)
Nhân dịp dạy Nghi-lễ nơi Trường-hạ chùa Phật-Tâm năm 1973 nầy, các khóa-sinh đã ngỏ ý nhờ tôi biên soạn thành tập cho dễ học và tránh được những lỗi vì học tập nhiều môn e bận rộn mà biên sót ghi lộn. Nghi lễ là gì? Nghi là Nghi-thức, khuôn-mẫu bề ngoài, thuộc phần hình thức; Lễ là cách bày tỏ ý cung kính của mình, lấy hình thức lễ cúng mà nói lên niềm tôn kính bên trong. Học Nghi-lễ là học những cách thức làm lễ, học những bài tụng niệm để ứng dụng trong khi nguyện cầu, cúng hiến. Nhưng, quyển Nghi-lễ nầy không trình bày hết các Đại-nghi-lễ, chỉ biên soạn đơn-giản những nghi thức gợi ý để cho các khóa-sinh tiện dụng, cho nên khi thật hành có thể tùy ý uyển-chuyển, linh động thêm bớt cho thích hợp với hoàn-cảnh của sự việc. Vì tuổi già thường bịnh, nên thân thể lười, tôi cố gắng biên soạn được chừng nào hay chừng ấy, vị nào muốn đầy đủ hơn xin tham khảo nơi các bực cao-minh.
02/04/2013(Xem: 13085)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội. 4
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]