Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quan Thế Âm Bồ Tát

08/04/201316:42(Xem: 8038)
Quan Thế Âm Bồ Tát
Bo_Tat_Quan_The_Am_9

Tu Tập Hạnh Bồ Tát

Tìm Hiểu Các Vị Bồ Tát

Quan Thế Âm Bồ Tát

Hòa Thượng Thích Trí Quảng

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Quảng


Quán Thế Âm Bồ Tát, một vị Đại sĩ vạn năng, thân thương của loài người ở Ta Bà mà bất cứ đệ tử nào của đức Phật cũng đều hướng tâm kính lễ, cầu nguyện Ngài, tại sao Bồ Tát Quan Âm đạt được quả đức như vậy?

Đức Phật nhắc đến công đức của Quan Âm rất nhiều, nhưng có thể nói ba bộ Kinh: Bát Nhã, Đại Bi và Pháp Hoa gồm đủ nhân, hạnh, quả, đức của Quan Âm. Kinh Bát Nhã nói về nhân địa tu hành, Kinh Đại Bi nói về sự cứu độ và Kinh Pháp Hoa chỉ rõ năng lực bất tư nghìcủa Ngài.

Từ thuở nhỏ, tôi có niềm tin mãnh liệt với Bồ Tát Quan Âm. Khi xuất gia được phước duyên hậu cần cố HòaThượng Thiện Hoa. Tôi thấy sáng nào Ngài cũng tụng Đại Bi, Phổ Môn và kết thúc Bát Nhã.

Hòa Thượng dạy tôi rằng tụng như vậy nhằm tin nhân hạnh của Quan Âm, để lập hạnh tu nhân theo Ngài. Nhờ lời dạy đó, tôi suy nghĩ và thực hành pháp tu giống vậy, và đạt được nhiều kết quả mầu nhiệm, không thể nghĩ bàn.

Nhưng nếu tu sai chúng ta chỉ cung kính, van xin, nhưng tâm niệm, hành động ác độc, chắc chắn không được Ngài che chở, còn chuốc lấy quả báo cũng không lường được. Tu nhân giống Quan Âm, có hạnh đồng với Ngài, dù không cầu, Ngài cũng gia bị. Điều này dễ hiểu, như thực tế. Tôi tu Pháp Hoa,người nào phát tâm tu Pháp Hoa, có tâm nguyện, ý chí hành đạo như tôi, tôi sẵn lòng giúp đỡ ngay, không đợi họ cầu xin.

Nhân địa tu hành của Quan Thế Âm thể hiện rõ nét qua kinh Bát Nhã, thu gọn lại là Bát Nhã tâm kinh. Kinh dạy rằng: Bồ Tát Quan Âm quán chiếu ngũ uẩn giai không, tức phá ý thức chấp hữu của ngũ uẩn, không cố chấp, nhưng tùy duyên hóa độ, không phải phá bỏ tất cả. Có người tu thường ưa lý luận ngũ uẩn giai không, đến khi có vấn đề là họ sân si không ai bằng. "Không" của họ chỉ là không trên đầu môi chót lưỡi, tâm còn đầy rẫy phiền não. Tu như vậy Quan Âm không cứu được. Quan Âm chỉ đến với ta tong lúc vô tâm, thí dụ như khi tâm của Đường Huyền Trang hoàn toàn lắng yên, đồng với đức Quan Âm, thì Ngài xuất hiện, trao cho tích trượng và y Như Lai, để vững tiến và thoát được tai ách trên đường thỉnh kinh. Vô tâm mới được Phật, Bồ Tát giúp đỡ, còn tham cầu chỉ tương ứng với ma quỷ, bị chúng nhiếp trì, lạc vào đường tà, tội lỗi.

Từ quán chiếu ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách, đó là khởi đầu và cũng là chung cuộc của Bát Nhã, thấy ngũ uẩn không, rời chấp trước, tâm lắng yên, trí tuệ phát sanh là Bát Nhã. Như vậy, Quan Âm khởi tu Tâm kinh và chứng Bát Nhã đó là nhân hạnh của Ngài. Ngày nay, chúng ta muốn tu nhân hạnh của Quan Âm, tất yếu phải thực hiện pháp đó trước tiên. Chúng ta dùng vô số phương tiện như tụng kinh, lễ sám, niệm Phật, trì chú, nghe pháp, tham thiền... để trụ tâm. Tâm đứng yên thì huệ phát sanh, dùng trí tuệ ấy quán sát trần thế, thấy rõ khổ vui của từng người, thấy được ngũ uẩn luôn biến động, không thực.

Từ đó, dưới mắt người tu, cuộc đời không khác gì cái sân khấu lớn, ta là diễn viên đang đóng từng vai khác nhau trong mỗi kiếp, nhưng chơn tâm vẫn một màu thanh tịnh. Đạt đến đỉnh cao ấy, chứng đắc đại Bát Nhã, thấy được con người thực từ chân lý xuất hiện trên cuộc đời và từ cuộc đời trở về Tịch Quang chơn cảnh. Đó là dấu vết đi về của Bồ Tát Quan Âm, chúng ta lần theo đó sẽ gặp Ngài, nói khác, chúng ta nhập đạo qua cửa Bát Nhã, tâm định tĩnh, trí tuệ phát sanh. Tùy theo trí tuệ lớn hay nhỏ, mà từng bước, ta thấy được Quan Âm khác nhau, không đạt được kết quả này, công phu tu tập chỉ là dã tràng xe cát.

Từ Bát Nhã Tâm kinh, chúng ta tiến tu, gặp Bồ Tát Quan Âm tỏa sáng tâm đại bi.Ngài có lòng thương người bao la, nhất là người đau khổ, hoạn nạn, hễ khóc than, kêu cứu là Ngài đến liền, nghĩa là tấm chân tình của chúng ta đạt đến cao độ, truyền đến tâm từ của Ngài. Bồ Tát nhận được tín hiệu khổ đau ấy, tức khắc xuất hiện giúp đỡ, từ đó, chúng ta có thêm hạnh đức của Quan Âm trong kinh Đại Bi. Lẽ sống của Bồ Tát Quan Âm được kết hợp bằng trí tuệ và từ bi. Mà không có mãnh đất nào tốt để Ngài gieo trồng hạnh đức bi trí cho bằng cõi Ta bà, nơi phức tạp nhất, phiền lu?hất, khổ đau nhất, với đầy đủ loại hình chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não. Trên tinh thần ấy, một trong 12 lời nguyện của Quan Âm là trụ Ta Bà u minh giới, tầm thinh cứu khổ nguyện. Vì tâm đại bi, Quan Âm đến Ta Bà, tìm người khổ đau cứu vớt và ta cũng cứu người, nên đồng hạnh với Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài ngay. Ta cứu người, Quan Âm cứu ta.

Khi hạnh nguyện phần nào giống Quan Âm, chúng ta được sống gần Ngài, đồng hành với Ngài, chúng ta quan sát xem Ngài làm gì để tập làm theo. Năng lực bất tư nghì của Quan Âm. được Phật dạy rõ trong phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa.

Trọn Phổ Môn thị hiện, nổi bật tinh thần vị tha vô ngã của Bồ Tát Quan Âm. Nơi nào cần cứu, Ngài xuất hiện giúp đỡ, không vì quyền lợi riêng, nhưng vì quyền lợi số đông. Học hạnh Phổ Môn của Quan Âm chúng ta chỉ đến đáp ứng yêu cầu cho người không đến nhờ vả.

Trên tinh thần vô ngã, Bồ Tát Quan Âm thị hiện tùy lúc tùy chỗ, tùy yêu cầu dưới nhiều dạng hình khác nhau, thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng, kinh ghi là 33 ứng hiện thân. Về điểm này, nhiều người thường lầm tưởng rằng Quan Âm từ trong hư không hiện ra ở một chỗ nào đó để cứu chúng ta và rủ nhau đến đó cầu nguyện, cúng dường. Điều đó không đúng với chánh pháp. Chúng ta không cần tìm chỗ có Quan Âm hiện, vì chúng ta biết rõ Ngài hiện được tất cả mọi nơi. Tuy nhiên, người có niềm tin, lòng thành, mới thấy Ngài. Giáo sư Suzuki cụ thể hóa bằng ví dụ đài truyền hình tải âm thanh và hình ảnh khắp nơi, nhưng chỗ nào có máy tivi, mới bắt được hình ảnh, âm thanh, và nhiều khi máy còn bị nhiễu sóng, phải có antenne, hình mới rõ.

Niềm tin, lòng thành ví như máy truyền hình là điều kiện để Quan Âm hiện. Chúng ta thấy rõ Ngài hay không, còn tuỳ ở sự chi phối của nghiệp lực, ví như máy bị nhiểu sóng nhiều, ít. Vì vậy, có người thấy Phật, Bồ Tát lờ mờ hay có lúc thấy, lúc không. Trên bước đường tu, hạn chế nhiễu sóng, tức hạn chế nghiệp của chúng ta, tâm lắng yên, phiền não ít, mới có thể diện kiến Phật, Bồ Tát . Người nhiều tham vọng, lắm phiền muộn, khó bước vào thế giới thánh thiện. Hạn chế tính toán phiền não, để tâm hồn thanh thản và thân thể khoẻ mạnh, cầu nguyện nhất định kết quả. Khi cơ thể khoẻ âm hồn trong sáng, giống như máy tốt, có thể tiếp nhận lực Quan Âm. Lực Ngài truyền vô thân người nào , người đó biến thành Quan Âm.

Nếu là người nữ có tánh hiền hậu, hay giúp đỡ kẻ hoạn nạn, người đó được coi là hiện thân của Quan Âm. Trên thực tế có Ỷ Lan thứ phi hết lòng chăm sóc, thương

yêu dân nên được dân Việt Nam tôn sùng là Phật Bà Quan Âm. Nếu người đó là vị tu hành, có tình thương rộng lớn, che chở giáo dưỡng người như cố HòaThượng Khánh Hòa, Hòa Thượng Trí Thủ... người ta nghĩ các vị này là Bồ Tát Quan Âm hiện thân Tỳ kheo. Nói chung, năng lực bất tư nghì của Bồ Tát Quan Âm được cụ thể hóa thành 32 ứng hiện thân (cộng thêm một thân chính của Ngài là 33), từ hiện thân Phật cho đến thân bình thường nhất trên cuộc đời, như thân trẻ con. Một ông Vua nhân từ, một thầy thuốc cứu người, một bà phi giỏi, dịu hiền, một nông dân chất phác, một ông quan thanh liêm, một dũng sĩ can thiệp những chuyện bất công, một anh công nhân hiền lành tốt bụng, một người giàu có hay làm việc nghĩa... đều là Quan Âm. Tất cả nhữn hình ảnh tốt lành, đạo đức, tài giỏi đều gợi cho người nghĩ đến hạnh Quan Âm. Ta không tìm Ngài trong hư không, nhưng tìm trong hạnh của những người tu.

Người có tâm niệm từ bi, việc làm giúp đời như Quan Âm thì Quan Âm hiện hữu nơi họ. Hội đủ điều kiện để tiếp nhận gia trì lực của Ngài không đơn giản và giữ cho lực Quan Âm tồn tại trong ta lâu dài lạ càng khó hơn. Vì vậy, đánh mất lực gia bị của Quan Âm thì lại rất dễ, chỉ một niệm tâm vọng tưởng điên đảo khởi lên, tất cả những gì siêu tuyệt của ta tức thì tan thành mây khói, chẳng khác gì cúp điện, hình chẳng thể có được.

Tóm lại, kỹ niệm ngày vía Bồ Tát Quan Âm, chúng ta cung kính đảnh lễ Ngài, lưu giữ hình ảnh thánh thiện Ngài trong tâm ta, thể hiện thành lời nói vui đẹp lòng người và việc làm mang an lạc, giải thoát cho người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2016(Xem: 4197)
Ở Việt Nam khi nói đến mùa mưa bão, người ta thường nghĩ đến khúc ruột miền Trung thường nhiều hơn. Thế nhưng, từ khi thành phố Đà Nẵng dựng tôn tượng lớn Bồ Tát Quán Thế Âm thì những cơn bảo lớn nguy hiểm ít đi vào vùng đất nầy, có khi đi gần vào đến bờ thì chuyển hướng ra Bắc hoặc vào Nam rồi bão tan. Không p
07/06/2016(Xem: 8998)
Nam Mô Bồ Tát Thường Lắng Nghe, Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe một cách sâu sắc, trọn vẹn những âm thanh, tiếng nói của cuộc sống, cuộc đời. Chữ Quán ở đây hàm nghĩa lắng nghe trong sự hiểu biết cộng với sự quan sát sâu sắc của lòng yêu thương từ ái. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời. Không chỉ
09/04/2016(Xem: 15375)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
21/03/2016(Xem: 4545)
Ở đây chúng ta cũng nên định nghĩa về hai chữ "tình yêu" (Liebe) và "tình thương" (Barmherzigkeit) nó khác nhau hay giống nhau ở điểm nào? Khi người ta nói đến tình yêu, tức giới hạn giữa con người và con người như nam và nữ yêu nhau hay giữa con người và động vật cũng như cảnh vật chung quanh mình. Tình yêu luôn có sự chấp ngã và hay bi lụy về đối tượng mình đang yêu, nhưng khi không được yêu và tự ngã của người nam hay người nữ bị tổn thương thì tình yêu ấy không còn là tình yêu nữa, mà đôi khi còn trở nên thù hận với nhau. Khi người nam yêu người nữ có nghĩa là người đàn ông ấy muốn chiếm hữu riêng người đàn bà kia về cho mình, còn khuynh hướng của người nữ là khuynh hướng nương tựa, nếu đối tượng là người nam mà giới nữ không còn nương tựa được nữa thì tình yêu ấy trở nên xa cách và nguội lạnh dần, không mặn nồng như thuở ban đầu nữa.
09/09/2015(Xem: 8807)
Như cố thi hào Nguyễn Du đã nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Đừng nên trách lẫn trời gần, trời xa”. Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, muôn hình vạn trạng, có nặng có nhẹ mà chỉ chư Phật mới thấu rõ hết về chúng. Nếu quý vị muốn biết thì nên đọc qua Thủy Sám Pháp Văn hay Kinh Địa Tạng… thì cũng sẽ thấu hiểu được phần nào.
12/07/2015(Xem: 9592)
Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thinh Cứu Khổ Phổ Môn Thị Hiện Đồ. Bản dịch của Viên Huệ Dương Chiêu Anh
03/04/2015(Xem: 14910)
Phổ Hiền thập đại nguyện hạnh là nội dung hạt nhân trong việc tin ngưỡng và tu trì của Bồ Tát Phổ Hiền, xuất phát từ Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm. Phật Giáo Hán truyền coi Bồ Tát Phổ Hiền là biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn, cùng với Bồ Tát Quán Âm (biểu tượng cho Từ Bi), Bồ Tát Văn Thù (biểu tượng cho trí tuệ), Bồ Tát Địa Tạng (biểu tượng cho thệ nguyện); cùng hình thành nên nội hàm tín ngưỡng và tinh thần tiêu biểu của bốn tâm hạnh Bi-Trí-Nguyện-Hạnh của Phật Giáo Đại Thừa.
21/01/2015(Xem: 7157)
Phía Tây của Long thành, phía Nam của Tản sơn, thẳng ra ngoài cõi Ai Lao, Xiêm La, có một nơi gọi là Hương Tích Sơn, nằm giữa Bắc kỳ, Nam hải, nơi ấy là động thiên bậc nhất vậy. Núi thì đặc thù, nước thì tú lệ, cảnh trần tịch tĩnh, nơi cầu tự cầu tài, chốn chữa bệnh trừ tai. Mỗi năm Xuân về, không dưới ba vạn người, có người ở gần về dự, có người ở xa ngàn muôn dặm cũng đến. Tiếng linh diệu lớn lao, rung động mắt tai người, rõ ràng là “thần quyền thời đại”, thật lạ thường thay. Ngoài núi non và con người, Hương sơn mà xa cách một ngày như ép buộc đi đến trần cương; ba mươi năm qua trọn chẳng đến một lần, nỗi buồn nào như đây; ngày nay năm mươi sáu tuổi vẫn còn viện cớ. Sức thuyền từ một phen đưa chuyển, kết quả có thể xuyên qua, đến nước lên non, niềm vui có thể nhận biết.
21/01/2015(Xem: 8690)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567