Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiểu Biết Đúng Phật Pháp Hành Trì Pháp Quán Thế Âm

23/11/201017:52(Xem: 4376)
Hiểu Biết Đúng Phật Pháp Hành Trì Pháp Quán Thế Âm

quantheambotat_1
Phật Lịch 2537

HIỂU BIẾT ĐÚNG PHẬT PHÁP
HÀNH TRÌ PHÁP QUÁN THẾ ÂM
LH Tịnh Huệ (Phổ biến nội bộ)


LỜI TỰA

Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam vì đã được ghi đậm nét trong tâm trí của mọi người.

Bồ Tát Quán Thế Âm tiêu biểu cho đức tánh Đại Từ Bi cứu khổ nạn trong Phật giáo, giống như đức mẹ Maria được các tín đồ Thiên Chúa giáo sùng kính từ lâu nay. Cả hai vị đều thị hiện thân nữ vì nữ giới tượng trưng cho bà mẹ ban phát tình thương cho các con. Tuy 2 vị khác nhau về tướng mạo nhưng cũng đồng tâm, đó là tâm bằng cứu vớt.

Từ sau ngày 30-4-1975, có rất nhiều câu chuyện về thuyền nhân Việt Nam, khi vượt biển gập nạn được Bồ Tát Quán Thế Âm cứu thoát, những câu chuyện này đã không ngớt lưu truyền trong các giới Phật tử, khiến cho mọi người Việt Nam ngày càng thêm tin tưởng nơi tình thương cao cả Ngài.

Trong tinh thần phát huy tâm Đại Từ Bi cứu khổ cứu nạn của Ngài, chúng tôi nghĩ rằng cần phải sớm biên soạn và phổ biến 1 quyển sách trình bày đầy đủ các pháp môn mà Ngài đã từng hành trì trong vô lượng kiếp về trước để giúp cho các giới Phật tử Việt Nam từ đây có thêm phương tiện tu tập.

Pháp hệ Đại Bi Quán Thế Âm là pháp hệ được nhiều dân tộc ở Á Châu ngưỡng mộ và tu học, như ở Tây Tạng, Trung Quốc và Việt Nam, bởi lẽ nó dễ hành và dễ có kết quả. Sở dĩ nó được phổ biến rộng rãi khắp nơi từ thành thị cho đến thôn quê, từ kẻ dốt nát cho đến người trí thức lá vì nó rất thích hợp với chúng sanh đời mạt pháp, xa Phật thiếu pháp, luôn bị lôi cuốn và mê mờ trước nền văn minh khoa học vật chất. Hơn nữa, pháp Quán Thế Âm chẳng phải là 1 pháp chỉ biết nương tựa vào tự lực mà bỏ tha lực như pháp Thiền, trái lại nó lúc nào cũng phối hợp chặt chẽ 2 lực này để giúp chúng ta khắc phục được ma lực của thất tình, lục dục từ lâu đã ngự trị trong thân tâm mình. Vì thế, pháp Quán Thế Âm còn được gọi là pháp Thiền Mật song tu, được triển khai rải rác trong các kinh như Thủ Lăng Nghiêm, Diệu Pháp Liên Hoa, nhứt là trong Tâm kinh Bát Nhã.

Tâm kinh tuy hết sức cô động, chỉ gồm có 260 chữ nhưng lại được đúc kết bằng câu đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú: << YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TÁT BÀ HA >> .

Câu chú ngắn gọn này sẽ được triển khai đầy đủ để trở thành Thần Chú Đại Bi Cứu khổ cứu nạn vô cùng linh hiển mà bất cứ ai, nếu biết qua công năng vi diệu của nó, cũng không thể lơ là mà không trì niệm.

Chúng tôi mong rằng quyển sách bé nhỏ này sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho quý độc giả trong những năm còn lại của thế kỷ 20, nhưng đã và sẽ ghi nhận những biến cổ lịch sử lớn nhứt có tính cách quyết định về tương lai của nhân loại.

Tuy nhiên, trong tinh thần cầu tiến, chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những lời chỉ giáo của các bậc cao minh về những sơ sót, khuyết điểm có thể tìm thấy trong quyển sách nhỏ này. Khi có dịp, chúng tôi sẽ dựa theo đó để tu chỉnh trong những lần tái bản về sau.

L.H. Tịnh Huệ
Cần khải.
Mùa hè năm Nhâm Thân, 1992

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/12/2010(Xem: 3997)
Từ trước đến nay, những khuynh hướng bài bác Đại Thừa -cả trong lẫn ngoài Phật giáo- thường cho rằng kinh điển Đại Thừa là ngụy tạo, từ đó họ cũng hạ bệ luôn tất cả những vị Bồ Tát đã được quần chúng Phật tử lâu đời tôn thờ kính ngưỡng -đặc biệt là Bồ Tát Địa Tạng- coi đó như là những nhân vật hư cấu, sản phẩm của đầu óc tưởng tượng phong phú của người Trung Hoa. Tuy nhiên các học giả nghiên cứu về Phật giáo cổ Ấn Độ hồi gần đây đã xác định rằng tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Địa Tạng (Kshitigarbha) đã được khai sanh tại Ấn Độ rất lâu đời, có thể là vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai sau công nguyên (C.E.), cùng một lúc với sự phát triển mạnh mẽ của khuynh hướng Phật giáo Đại Thừa, (2) mà bằng chứng cụ thể là Bồ Tát Địa Tạng và những kinh sách liên quan về Ngài đã được đưa vào chương trình học tập, nghiên cứu tại Đại học cổ điển Phật giáo nổi tiếng Nalanda xứ Ma Kiệt Đà.
14/12/2010(Xem: 2623)
Bồ Tát Quán Thế Âm đang thực sự có mặt bên cạnh chúng ta mang sứ mệnh Bồ Tát vào đời để cứu vớt nhân sinh qua cơn khổ nạn hay chỉ là một nhân vật huyền thoại tôn giáo? Với những người mang nặng tinh thần duy lý cho rằng Đạo Phật không hề đặt cơ sở trên những niềm tin mù quáng và do đó, tin vào sự cứu độ của một tha lực bên ngoài –ví dụ như Quán Thế Âm Bồ Tát- theo họ là một hình thức dị đoan mê tín, khó chấp nhận.
03/12/2010(Xem: 12153)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
20/11/2010(Xem: 3138)
Kính lạy đức Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Ngài, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu.
09/11/2010(Xem: 3167)
Bồ Tát Quán Thế Âm đang thực sự có mặt bên cạnh chúng ta mang sứ mệnh Bồ Tát vào đời để cứu vớt nhân sinh qua cơn khổ nạn hay chỉ là một nhân vật huyền thoại tôn giáo? Với những người mang nặng tinh thần duy lý cho rằng Đạo Phật không hề đặt cơ sở trên những niềm tin mù quáng và do đó, tin vào sự cứu độ của một tha lực bên ngoài –ví dụ như Quán Thế Âm Bồ Tát- theo họ là một hình thức dị đoan mê tín, khó chấp nhận.
06/11/2010(Xem: 17056)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
26/10/2010(Xem: 2557)
Trong thế giới loài người có một vị Bồ tát ai cũng có thể biết như một vị cứu tinh. Ngài có trái tim yêu thương và hiểu biết, luôn mở rộng tấm lòng nhân ái chẳng nỡ bỏ một ai đau khổ. Ngài chính là Bồ tát Quán Thế Âm. Khi nghe ai trong khốn khổ, khó khăn, tuyệt vọng tâm niệm đến Ngài thì Ngài liền ra tay cứu giúp và nâng đỡ.
22/10/2010(Xem: 6776)
Một trong những phương pháp nghiên cứu mới nhất do Daniel Overmyer đề xướng (1998) trong lãnh vực khoa học nhân văn hiện đang được các nhà học giả áp dụng được gọi là « THF » (Text, History & Field Work), tức là phối hợp sử dụng các sử liệu và văn bản kèm theo với việc đi khảo sát thực tế. Áp dụng phương pháp này, và xem đó như là một phương cách hữu hiệu trong việc nghiên cứu lịch sử tôn giáo Trung Quốc, GS/TS. Chun Fang Yu (Vu Phương Quân), Khoa Trưởng Phân Khoa Tôn Giáo Đại Học The State University of New Jersey, HK, trong một tác phẩm mới nhất của bà, nhan đề « Quán Âm » đã cống hiến cho chúng ta một công trình nghiên cứu xuất sắc và đầy đủ nhất từ trước đến nay liên quan đến Bồ Tát Quán Thế Âm.
21/10/2010(Xem: 4166)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộ là vô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
03/10/2010(Xem: 2810)
Mọi người Phật tử khi nhắc đến Đức Quán Thế Âm (Avalokites) nghĩa là lắng nghe tiếng kêu của cuộc đời , người Việt Nam dù là Phật tử hay chưa phải là Phật tử đều có một khái niệm chung là vị Bồ tát hay cứu khổ cứu nạn cho mọi người, điều này đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người và Quán Thế Âm trở thành một biểu trưng cho lòng từ bi của Phật giáo. Quán Thế Âm dân gian ta gọi tắt là Quán Am, nhìn chung Ngài là vị Bồ tát thể hiện lòng Bi, một trong hai đức của Phật tánh: Văn Thù biểu trưng cho trí tuệ thì Quán Thế Âm biểu trưng cho đức từ bi của Phật. Đã từ lâu, Đức Quán Thế Âm được nhiều người Việt Nam tôn kính và thờ phụng tin tưởng rất phổ biến , nhất là trong lúc gặp khó khăn hoạn nạn đều hướng về Ngài như là một vị cứu tinh vì danh hiệu Ngài là "Cứu khổ cứu nạn". Những năm gần đây, niềm tin này lại được bộc lộ qua việc thờ Quán Thế Âm ở tại tư gia nhất là" lộ thiên" (ngoài trời nơi sân thượng). Việc thờ Quán Thế Âm là một niềm tin mang tinh thầnTừ bi của Đạo Phật nó còn là biể
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567