Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phương thức thực hành Hạnh Bồ Tát (Bodhicharyàvatàra)

25/07/201208:57(Xem: 13000)
Phương thức thực hành Hạnh Bồ Tát (Bodhicharyàvatàra)
bo_tat_hanh
TỊCH THIÊN (Sàntideva)
PHƯƠNG THỨC THỰC HÀNH HẠNH BỒ TÁT
(Bodhicharyàvatàra)
Chuyển tiếng Việt: Thích Giác Nguyên

LỜI TỰA

Phương Thức Thực Hành Hạnh Bồ Tát (Bodhicharyàvatàra) là Thi phẩm bằng tiếng Phạn của Tôn giả Tịch Thiên (Sàntideva) khi ngài tu học ở Học viện Phật giáo Nalandà, Ấn độ vào thế kỷ thứ bảy Tây lịch. Đây cũng là tác phẩm Tạng ngữ vô cùng quan trọng, áp dụng vào chương trình học tập cho các tu sĩ Tây Tạng.

Tôn giả cảm nghĩ oai đức của chư Phật và Bồ tát ra đời vì mục đích tối thượng: Cứu khổ ban vui, lợi ích cho chúng sanh ở ngàn phương muôn thuở. Muốn được như vậy, người tu không gì hơn phải thực hành sáu độ, hoặc mười pháp Ba la mật của Bồ tát. Mà Tôn giả là một vị đã tu mật hạnh và thực chứng thánh quả Bồ tát.

Qua mười phẩm thi kệ gồm 912 đoạn, Tôn giả Tịch Thiên đã dùng Tuệ quán dẫn dụ từ thô đến tế, từ căn bản nhập môn đến thực hành hạnh Bồ tát rốt ráo viên mãn. Tôn giả phủ bác các lập luận trường phái trong và ngoài đạo Phật, bằng phương pháp Trung quán Tánh không. Ngài hùng biện ở mọi khái niệm tư duy về Ngã, Ngã sỡ, về Tâm, Ý, Thức, khiến con người không còn chỗ để bám víu nương tựa. Nhờ đó dứt trừ vọng tưởng, dễ tiến đến triệt ngộ giải thoát.

Tôi có xem qua hai bản dịch tiếng Việt, một của Ni sư Trí Hải theo thể văn xuôi (1998), gồm 913 đoạn và một của Thượng tọa Nhựt Chiếu dịch theo văn vần song thất lục bát (1999), gồm 914 đoạn hiện lưu hành. Cũng như tham chiếu bản Hán văn của Trần Ngọc Giao, tôi cảm thấy tự đáy lòng mình dâng lên niềm rung động khó tả. Bất giác tôi rơi nước mắt, quì lạy giữa hư không. Tưởng như có Tôn giả Tịch Thiên hiện ra trước mặt cảm hóa, khai tâm cho tôi lần bước trên con đường tìm về chân lý giác ngộ giải thoát, mà từ bấy lâu tôi chưa được hạnh duyên gần gũi các bậc minh sư chỉ giáo.

Tôi phát ngưỡng nương vào hai bản Việt văn này để tâm dịch lại cho phù hợp theo bản chữ Hán của dịch giả Trần Ngọc Giao. Qua mỗi câu đoạn, kệ thơ ngũ ngôn tứ tuyệt hoặc thất ngôn tứ cú, bát cú đều khớp với bản chữ Hán ấy. Mong rằng không xa Thánh ý của Tôn giả Tịch Thiên. Nếu có phạm những lỗi lầm thích đáng, cúi xin Tôn giả Từ bi hỷ xả và các bậc cao minh, thiện hữu tri thức rộng lòng bổ chính cho.

Thành kính sám hối và bái tạ.

Sài gòn, trng đông KMão, 1999.

Tỳ khưu Thích Giác Nguyên.

Cẩn bút

Xem nội dung; Phiên bản PDF: PHƯƠNG THỨC THỰC HÀNH HẠNH BỒ TÁTTịch Thiên (Santideva) Chuyển tiếng Việt: Thích Giác Nguyên

Sách Liên quan:
NHẬP BỒ TÁT HẠNH Tịch Thiên (Shantideva)- Hoa dịch: Trần Ngọc Giao - Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải
BỒ TÁT HẠNH Santideva (Tịch Thiên)- Thích Trí Siêu dịch
BỒ TÁT HẠNH TRONG KINH VIÊN GIÁCThích Nguyên Tịnh

NHẬP HẠNH BỒ TÁTSàntideva (Tôn giả Tịch Thiên) - Việt dịch: Nguyên Hiển

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2016(Xem: 16483)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
21/03/2016(Xem: 4907)
Ở đây chúng ta cũng nên định nghĩa về hai chữ "tình yêu" (Liebe) và "tình thương" (Barmherzigkeit) nó khác nhau hay giống nhau ở điểm nào? Khi người ta nói đến tình yêu, tức giới hạn giữa con người và con người như nam và nữ yêu nhau hay giữa con người và động vật cũng như cảnh vật chung quanh mình. Tình yêu luôn có sự chấp ngã và hay bi lụy về đối tượng mình đang yêu, nhưng khi không được yêu và tự ngã của người nam hay người nữ bị tổn thương thì tình yêu ấy không còn là tình yêu nữa, mà đôi khi còn trở nên thù hận với nhau. Khi người nam yêu người nữ có nghĩa là người đàn ông ấy muốn chiếm hữu riêng người đàn bà kia về cho mình, còn khuynh hướng của người nữ là khuynh hướng nương tựa, nếu đối tượng là người nam mà giới nữ không còn nương tựa được nữa thì tình yêu ấy trở nên xa cách và nguội lạnh dần, không mặn nồng như thuở ban đầu nữa.
09/09/2015(Xem: 9238)
Như cố thi hào Nguyễn Du đã nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Đừng nên trách lẫn trời gần, trời xa”. Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, muôn hình vạn trạng, có nặng có nhẹ mà chỉ chư Phật mới thấu rõ hết về chúng. Nếu quý vị muốn biết thì nên đọc qua Thủy Sám Pháp Văn hay Kinh Địa Tạng… thì cũng sẽ thấu hiểu được phần nào.
12/07/2015(Xem: 10247)
Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thinh Cứu Khổ Phổ Môn Thị Hiện Đồ. Bản dịch của Viên Huệ Dương Chiêu Anh
03/04/2015(Xem: 15609)
Phổ Hiền thập đại nguyện hạnh là nội dung hạt nhân trong việc tin ngưỡng và tu trì của Bồ Tát Phổ Hiền, xuất phát từ Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm. Phật Giáo Hán truyền coi Bồ Tát Phổ Hiền là biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn, cùng với Bồ Tát Quán Âm (biểu tượng cho Từ Bi), Bồ Tát Văn Thù (biểu tượng cho trí tuệ), Bồ Tát Địa Tạng (biểu tượng cho thệ nguyện); cùng hình thành nên nội hàm tín ngưỡng và tinh thần tiêu biểu của bốn tâm hạnh Bi-Trí-Nguyện-Hạnh của Phật Giáo Đại Thừa.
21/01/2015(Xem: 7628)
Phía Tây của Long thành, phía Nam của Tản sơn, thẳng ra ngoài cõi Ai Lao, Xiêm La, có một nơi gọi là Hương Tích Sơn, nằm giữa Bắc kỳ, Nam hải, nơi ấy là động thiên bậc nhất vậy. Núi thì đặc thù, nước thì tú lệ, cảnh trần tịch tĩnh, nơi cầu tự cầu tài, chốn chữa bệnh trừ tai. Mỗi năm Xuân về, không dưới ba vạn người, có người ở gần về dự, có người ở xa ngàn muôn dặm cũng đến. Tiếng linh diệu lớn lao, rung động mắt tai người, rõ ràng là “thần quyền thời đại”, thật lạ thường thay. Ngoài núi non và con người, Hương sơn mà xa cách một ngày như ép buộc đi đến trần cương; ba mươi năm qua trọn chẳng đến một lần, nỗi buồn nào như đây; ngày nay năm mươi sáu tuổi vẫn còn viện cớ. Sức thuyền từ một phen đưa chuyển, kết quả có thể xuyên qua, đến nước lên non, niềm vui có thể nhận biết.
21/01/2015(Xem: 10089)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
06/01/2015(Xem: 10900)
Mẹ tôi tin “chắc như đinh đóng cột” vào sự linh ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm. Mẹ nhất quyết: bất cứ ai, hễ gặp bất trắc, tai nạn khổ đau mà thành tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì Ngài sẽ cứu độ cho tai qua nạn khỏi. Nếu không được ngay thì sớm muộn mọi sự cũng hanh thông tốt đẹp! Mẹ tôi nhắc nhở con cháu và mọi người quen lạ nên thành tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm! Và câu niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” đã nhập tâm và theo mẹ tôi suốt cho đến cuối đời.
30/10/2014(Xem: 14376)
Lắng nghe giọt nước cành dương Tịnh bình ban rải tình thương muôn trùng Như lai Bồ Tát viên thông Thanh lương cam lộ tắt dòng khổ đau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]