Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tháng Bảy và Bồ Tát Địa Tạng - Tạ Duy Chân

16/05/201313:21(Xem: 9214)
Tháng Bảy và Bồ Tát Địa Tạng - Tạ Duy Chân

Tu Tập Hạnh Bồ Tát

Tìm Hiểu Các Vị Bồ Tát

Tháng Bảy Và Bồ Tát Địa Tạng 

Tạ Duy Chân

Nguồn: Tạ Duy Chân


Trong tháng 7 âm lịch, đạo Phật không chỉ có ngày đại lễ "Vu lan" mà còn có lễ tiết lớn khác, đó là ngày "Địa tạng Bồ Tát thành đạo" vào ngày 30-7.

Ngày lễ này thường được gọi chung là "Địa Tạng Vương Bồ TÁt Tiết Nhật". Theo kinh Phật, đức địa tạng Bồ Tát đã đản sinh sau khi đức Thích Ca nhập Niết bàn và trước khi đức Di Lặc giáng thế. Hai từ "Địa Tạng" : "Địa" nghĩa là "đất", "Tạng" còn đọc là "tàng" nghĩa là " cất giấu, ẩn chứa", Phật hiệu của đức Bồ Tát hàm ý ví ngài với đại địa bao la, nơi ẩn chứa vô vàn thiện căn. Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát là hiện thân của sự cứu khổ, Ngài được đức Thích Ca uỷ cho trọng trách "Giáo hóa lục đạo chúng sinh" để muôn loài khỏi rơi vào chốn trầm luân khổ hải và cử làm "U Minh giáo chủ", cai quản âm gian , Ngài đã nguyện trước Phật Tổ : "Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma, quyết không thành Phật!". Do đó, Ngài thường xuất hiện ở chốn nhân gian và nơi âm giới để tìm phương cách tế độ chúng sinh, không chịu an hưởng ở nơi Cực Lạc thế giới, dù rằng với công đức vô lượng của Ngài, Ngài đã được đức Phật Tổ ban cho Phật hiệu.

Cũng theo sách Phật, đức Địa Tạng Bồ Tát từng giáng sinh tại nước Tân La (nay là Triều Tiên) vào năm thứ 4 thời Hiếu Chiếu vương trị vì (năm 695 Tây lịch) là con em của vương thất nước này. Như các sách "Cửu Hoa sơn chí", "Thần Tăng truyện"...đã chép, đức Địa Tạng Bồ Tát họ Kim, tên là Kiều Giác, Ngài thông minh đỉnh ngộ, lòng dạ thiện lương ngay từ khi còn tấm bé, năm lên 5 tuổi Ngài đã thích đi chùa lễ Phật và rất mộ đạo. Năm Ngài 25 tuổi, Ngài có một học vấn cao, trí tuệ siêu phàm, được mọi người yêu quí, nể vì, đường công danh rộng mở trước mắt, nhưng Ngài không màng tới , quyết xin cha mẹ cho được xuất gia, tu hành tại nơi cửa Phật. Do một lòng tu tập, đạo học của Ngài rất mau tịnh tiến, được sư trụ trì và các sư thầy vô cùng yêu mến, nhưng Ngài không cho như thế là đủ, vẫn miệt mài học tập, sách không mấy khi rời tay. Vào năm thứ 28 đời vua Thánh Đức nước Tân La (729 Tây lịch), một hôm, Ngài tình cờ nghe thấy mấy thương nhân vào chùa lễ Phật, nói với Đại sư trụ trì, ta5i bên nước Trung Hoa từng có một vị Hòa thượng là Đường Tam Tạng,vượt bao gian hiểm sang Thiên Trúc thỉnh về rất nhiều kinh Phật và dịch ra chữ Hán, nhờ đó mà đạo Phật ở nước này rất hưng vượng, Ngài bèn tha thiết cầu xin Đại sư trụ trì cho được rời chùa, vượt biển sang Trung Hoa để tu học, nghiên cứu kinh Phật.

Ngài lìa nước triều tiên, trãi qua vô vàn sóng gió nguy hiểm, tới nước Trung Hoa vào năm Khai Nguyên thứ 18 (730 Tây lịch) đời Đường Minh Hoàng (tức Đường Huyền Tông). Tại Trung Hoa, Ngài nghe đồn ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy có ngọn Cửu Hỏa Sơn, cảnh sắc rất đẹp, nổi tiếng với những truyền thuyết về Phật giáo, bèn tìm tới, quả nhiên thấy đúng như lời thiên hạ đồn đại; lại thấy ở ngõ Cửu Hoa, dưới ngọn Phù Dung phong thuộc núi Cửu Hoa có một tòa cổ am, tương truyền do một nhà sư người Thiên Trúc (Ấn Độ) là Hoà thượng Bôi Độ xây dựng lên vào năm Long An thứ 5 nhà Đông Tấn (401 Tây lịch) để tu hành, hiện vị lão tăng trụ trì ở am này vừa mới viên tịch, am còn bỏ trống, Ngài liền đến xin quan huyện Thanh Dương cho được cư ngụ tại am ấy để tu hành. Tại am này, Ngài chịu đói chịu lạnh, đọc và nghiền ngẫm kinh Phật,đạo học của Ngài tinh tiến vượt bậc, Ngài trở thành nhà sư rất uyên bác về Phật học, danh tiếng vang dội khắp cõi Trung Nguyên, được nhiều tín đồ mến mộ, tìm tới nghe Ngài giảng kinh.

Năm Chí Đức thứ 2 đời Đường Túc Tông (757 Tây lịch), một vị thân sĩ giàu có ở huyện Thanh Dương là Gia Cát Tiết, vì mến mộ Ngài, đã bỏ tiền của ra xây dựng chùa. Năm Kiến Trung thứ 2 đời Đường Đức Tông (781 Tây lịch), viên thái thú Trì Châu là Trương Nham Hậu, thấy Ngài đạo hạnh cao sâu, đem lòng cảm mến, lại thấy khách thập phương đổ tới hành hương ngày một thêm đông, mà chùa thì nhỏ không đủ cho khách lui tới, bèn dâng sớ về triều đình cho dùng công quĩ để xây dựng lại chùa cho to, đẹp hơn. Chùa xây dựng xong, vô cùng to rô5ng, đẹp đẽ. Quan thái thú họ Trương lại xin Ngài đặt tên mới cho chùa. Ngài dựa vào một điển cố trong kinh Pháp Hoa: "Một hôm, đức Thích Ca cùng một đệ tử đi truyền đạo, trên đường bỗng bị núi cao chắn lối. Bấy giờ, người đệ tử đang bị đói lả, ý muốn quay về, đức Thích Ca thấy vậy, bèn chỉ tay về phía trước nói: "Ở kia có một toà thành, chúng ta có thể tới đó hóa trai"; đặt tên chùa là "Hoá Thành" và tên này được dùng mãi tới ngày nay.

Từ khi lên ngôi đại tự Hóa Thành xây dựng xong, song song với bề thế to lớn, nguy nga của ngôi chùa, số lượng khách thâp phương càng thêm đông đảo,ngôi chùa trở thành một trong bốn danh thắng lớn của Trung Hoa thời ấy.

Năm Trinh Nguyên thứ 10 đời Đường Đức Tông (794 Tây lịch), Ngài đã 99 tuổi, nhưng sức khỏe vẫn dồi dào, tinh thần minh mẫn. Một hôm, đang ngồi thiền định, Ngài bổng mơ hồ nghe thấy có tiếng vời gọi thiêng liêng từ cõi xa thẳm vọng tới Nam đài ở phía Nam núi Cửu Hoa, nói cho hay rồi vui vẽ dặn dò hậu sự, truyền y bát, tích trượng cho ngườ kế tục, đoạn bảo đệ tử đặt vào một cái chum lớn,ngồi ung dung mà viên tịch. Ba năm sau,theo lời dặn của Ngài, các đệ tử-trước sự chứng kiến của rất đông thiện nam, tín nữ- đã khui mở nắp chum để rước nhục thân Ngài ra nhập tháp. khi nắp chum mở ra, nhục thân của Ngài rất mềm, sắc diện vẫn tươi như sống, thoang thoảng mùi thơm, không hề hư rữa. Lúc các đệ tử nhấc nhục thân Ngài ra khỏi chum, các khớp xương Ngài vẫn không cứng lại, chuyển động nghe phát ra tiếng kêu "rổn rảng" tựa chuỗi xích vàng rung chuyển. Căn cứ vào điều đã ghi chép trong kinh Phật, mọi người đều hiểu rằng, sau khi đức Thích Ca viên tịch 1500 năm, đây là hiện tượng "Bồ Tát chuyển thể", bèn rước nhục thân của Ngài vào tháp.Ngọn tháp tàng giữ nhục thân Ngài là một ngọn tháp bằng đá ba tầng, cất trên "kim địa". Đêm ấy, đúng vào giờ tý, tháp bỗng tỏa hào quang, sáng rực một vùng, người dân thời ấy gọi là "viên quang" (ánh sáng của sự viên mãn), còn các Tăng, Ni thì gọi đó là "thần quang thể", (ánh sáng thần kì, màu sắc rực rỡ). Vì vậy, khu Nam Đài (không rõ vì sao gọi là "Tây đài") được gọi là "Thần Quang Linh", ngọn tháp đó được gọi lá "Nhục Thân bảo tháp".

Năm Trinh Nguyên thứ 13, đời Đường Đức Tông (797 Tây lịch) sau khi nhục thân của đức Bồ Tát giáng thế được nhập tháp đá, hoàng đế Đức Tông, do cảm mếnđức sáng của Ngài, đã đích thân ban chiếu truyềnxuất công quĩ, xây trùm lên "Nhục Thân bảo tháp" một ngôi điện, đặt tên là "nhục Thân bảo diện". Kể từ đó "Nhục Thân bảo điện" được các triều đại kế tiếp nhau tu sữa nhiều lần. Đặc biệt trong hai triều Minh, Thanh, "Nhục Thân bảo điện" đã được tu sữa và xây dựng với một quy mô lớn hơn nhiều. Vào khoảng những năm Vạn Lịch đời Minh (1573-1619 Tây lịch), triều đình đã cấp kinh phí cho xây dựng lại "Nhục Thân bảo điện" thật nguy nga, tráng lệ và ban danh hiệu "Hộ Quốc Nhục Thân bảo điện". Năm Hàm Phong thứ 7 triều Thanh (1857 Tây lịch), tòa điện này vì nằm trong vùng giao tranh ác liệt giữa quân nhà Mãn Thanh và nghỉa quân Thái Bình Thiên Quốc, đã bị tàn phá nặng nề.Phải đến những năm thuộc niên hiệu Đông Trị nhà Thanh (1862-1874) mới được triều đình cho trùng tu lại, đây là tòa "Nhục Thân bảo điện" hiện có.

Tòa đại điện nổi danh này nằm trong cảnh giới của ngôi cổ tự "Hoá Thành", toạ lạc giữa một vùng núi non hùng vĩ của "Thần Quang Lĩnh" thuộc rặng "Cứu Hỏa Sơn" là một trong bốn đại danh thắng của Phật giáo Trung Hoa nói riêng và của đất nước Trung hoa nói chung, gồm: Cửu Hoa Sơn, Ngũ Đài Sơn, Nga Mi sơn và Phổ Đà sơn. Để lên tới "Nhục thân bảo điện" phải vượt qua 84 bậc thềm đá từ thấp lên cao ở trước điện, dọc theo hai bên các bậc thềm đá có đóng cọc sắt, giăng dây xích sắt để bảo vệ khách lên điện và giúp khách có chỗ vịnh tay.

Tòa "Nhục Thân bảo điện" toạ lạc trên một mặt bằng vuông vức, mỗi cạnh dài 15m, điện cao 18m. Đỉnh điện lợp ngói đúc bă2ng sắt. Các hành lang ở quanh điện được chống đỡ bởi 24 cây cột đá, tăng thêm vẻ uy nghi cho tòa đại điện. các lường đỡ những đầu cao hình cánh phượng cong vút lên của mái điện và các cột kèo...của điện đều được chạm, khắc, vẽ hình các hoa văn thật tinh xảo, sơn son thiếp vàng hoặc tô màu rất là lộng lẫy. Ở cửa trước của điện có treo một tấm biển lớn bằmg sứ màu xanh, nổi bật 4 chữ Hán đại tự : "Nhục Thân Bảo Điện". Tại bên hồi lang của điện có treo một tấm biển màu nhủ, khắc 5 chữ lớn :"Đông Nam Đệ Nhất Sơn". Cửa sau của đuện cũng treo một tấm biển giống y tấm biển treo ở trước điện. Bên trong tòa "Nhục Thân bảo điện" được lát bằng đá bạch ngọc. Chính giữa điện là ngọn tháp gỗ đặt trên nền cũng là đá bạch ngọc, tháp gỗ nà gồm có 7 tầng, tháp cao 17m, hình bát giác. Mặt ngoài của tháp gỗ, mỗi tầng 8 mặt đều có khám thờ, trong khám có tượng đức Địa Tạng Bồ Tát thếp kim nhũ trông rất sống động. Bên trong các tầng tháp gỗ đều có ghép bộ "Địa Tạng Bản Nguyện kính" bằng mực kim nhũ , nét chữ vô cùng tinh luyện. Tại tầng dưới cùng của ngọn tháp gỗ là ngọn tháp đá 3 tầng,nơi đặt nhục thân của đửc Bồ Tát giáng thế Kim Kiều Giác, ở mặt chính của tháp đá có treo một ngọn đèn lưu ly hình bát giác chạm trỗ rất tinh mĩ, vốn là một cổ vật hiếm có. Ngoài ra, bên trong "Nhục Thân bảo điện" còn trưng bày rất nhiều bảo vật quí giá, do các vua chúa nhiều đời ban tặng như: "Si Long kim ẩn" đúc vào đời Đường, niên hiệu Chí Đức, do Đường Túc Tông ban tặng; "Long ẩn" đúc vào niên hiệu Vạn Lịch, do Minh Thần Tông ban tặng v.v...và rất nhiều cổ vật được đặt chế bằng vàng, ngọc, đá quí, đồng...cùng các cổ bản kinh sách.

Ở bên ngoài "Nhục Thân bảo điện" còn có nhiều công trình kiến trúc phụ như: các dãy Tăng phòng, khách phòng, thiền phòng và các phòng "Triển lãm văn vật" ...Tại phía sau điện có một tòa "dao đài" bằng đá, hình bán nguyệt, trên đài đặt 3 cái đỉnh sắt rất lớn, chạm khẳc vô cùng khéo đẹp: bên đài còn một toà "Cổ Hoa viên" nơi này được gọi là "Bố Kim Thắng địa", tương truyền xưa kia vào các ngaỳ "Địa Tạng Bồ Tát đản sinh","Địa Tạng Bồ Tát thành đạo", thiện nam, tín nữ thập phương thường tụ tập lại đây dâng hương lễ Phật và cúng dường phẩm vật vô cùng tấp nập.

Theo sách "Địa Tạng Bồ Tát hành trạng', như đã phát lời nguyện trước đức Phật Tổ, đức địa tạng Bồ Tát không ngừng hóa thân để cứu độ chúng sinh, Ngài thân dư vạn biến , nhưng tâm bất biến, trong lòng không lúc nào ngơi nghĩ tới khổ đau của chúng sinh.Hôm nay, trước 2 ngày lễ lớn kỷ niệm ngày "đản sinh" và "thành đạo" của Ngài, hướng tưởng tới công đức vô lượng của đấng Bồ Tát, chúng ta nguyện theo ý hướng của Ngài thiết tha làm lành tránh dữ, trải rộng tấm lòng Bồ Tát Của Ngài rộng khắp muôn nơi, đó mới chính là những nén "tâm hương" chúng ta cung kính dâng lên Bồ Tát.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/04/2022(Xem: 3863)
Phật Mẫu Chuẩn Đề ngự trên đài sen Vầng hào quang ánh tỏa ra rực rỡ Phật, Pháp,Tuệ nhãn chiếu soi cứu độ Chúng sanh khỏi kiếp khổ nạn đau thương
23/03/2022(Xem: 3437)
Kính lạy Đức Bồ Tát biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn Hình thành nội hàm tín ngưỡng tinh thần BI, TRÍ, NGUYỆN, HẠNH của Phật giáo Bắc Tông (1) Điểm đặc sắc ...Đại thừa tâm lượng rộng lớn !
20/03/2022(Xem: 3124)
Tâm Đại từ bi. Từ là năng lực đem lại an vui cho chúng sanh; Bi là năng lực dứt trừ khổ đau cho mọi loài. Từ bi có sức mạnh thể chất và tâm linh để dõng mãnh làm lợi lạc cho đời, như vậy trong từ bi đã bao hàm Trí tuệ và Hùng lực mới đủ uy đức nhiếp chúng độ sanh. Tâm Đại từ bi là tâm của bậc đã thành tựu đạo nghiệp. Nay phàm phu chúng con nghiệp dày phước mỏng nhưng cũng nguyện thực tập theo hạnh Từ bi của Bồ Tát. Nguyện cho tâm chúng con mỗi ngày một bớt giận ghét người, không sân si với hoàn cảnh mình đang sống và biết ơn với những gì mình đang có. Nguyện đem tất cả khả năng của mình để cống hiến niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ. Nhờ vậy mà tâm chúng con ngày càng tỏa sáng tình thương yêu, hiểu biết để thể nhập vào nguồn sống dạt dào Từ Bi Hỷ Xả của chư Phật, chư Bồ Tát.
19/03/2022(Xem: 2909)
Bồ Tát có gốc là Bodhisattva. Từ Bodhi có nghĩa là " giác ngộ.", sattva có nghĩa là "chúng sanh". Bodhisattva được dịch là chúng sanh giác ngộ hoặc người giác ngộ. Sau khi đạt được giác ngộ, bằng từ bi và trí tuệ, vị Bồ Tát giúp mình và người khác vượt qua biển khổ đến bờ an lạc. An lạc chính là Niết Bàn. Trong cuộc sống hàng ngày, các vị Bồ Tát luôn có mặt quanh ta, gồm Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia. Đó là những người bằng trí tuệ, công sức giúp mọi người bớt khổ đau trong thân và tâm. Bồ Tát làm được điều đó bởi trong tâm của Bồ Tát tồn tại một năng lượng gọi là Tâm Bồ Đề. Khi quy y Tam Bảo, ai cũng muốn có Tâm Bồ Đề. Để đạt được Tâm Bồ Đề của một vị Bồ Tát, người tu phải tự hỏi: Mình an lạc không? Mình sống chan hòa với những người xung quanh không? Người tu phải hiểu rõ cái tính Không trong cuộc sống. Hoa cũng là đất và đất cũng là hoa. Bởi khi ngộ được “Ngũ uẩn giai không” thì mới “ độ nhất thiết khổ ách” tức là vượt qua mọi khổ đau đến được bờ Niết Bàn.
01/11/2021(Xem: 6702)
Kính mừng Lễ Vía Đức Phật Dược Sư Đản Sinh 30/9 Nhân ngày lễ Đức Đông Phương Giáo Chủ cùng tìm hiểu niềm tin đối với Ngài và sự mầu nhiệm linh ứng đến với mỗi Phật Tử .... Cách đây 25 năm, lần đầu tiên sự linh ứng của Phật Dược Sư đã đến với tôi một cách bất ngờ mà sau này khi học Phật tôi mới hiểu là mình có được túc duyên mới có được một phương thuốc nhiệm mầu về tâm linh do Ngài ban tặng qua câu thần chú linh ứng như sau mà lúc ấy chưa có YouTube để nghe như bây giờ .... Thần chú Dược Sư là một trong những câu thần chú được trì tụng nhiều nhất bởi công năng bất khả tư nghì mà nó đem lại cho hành giả khi trì tụng. Không chỉ có năng lực chữa lành bệnh tự thân hành giả mà còn có công năng chữa bệnh cho người khác. Quan trọng hơn là khả năng tịnh hoá những nghiệp bất thiện trong
22/10/2021(Xem: 3159)
Kính mừng Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 Kính dâng Thầy bài thơ nhân ngày Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 âm lịch ( 24/10/2021) .Kính chúc sức khỏe Thầy Kính ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ... Một lần nữa, sự nhiệm mầu đã đến ! Melbourne vừa gỡ bỏ lockdown hai ngày Lễ vía Bồ Tát 19/9 sẽ cử hành ... hoan hỷ thay ! Mừng Ngài đã lắng nghe, giải cứu giúp thoát Khổ ! Sự là lòng từ bi nhân ái vị tha ...Bồ Tát Độ Lý thì chúng con tự cứu độ bản thân Bao dung, không tham đắm ái nhiễm bụi trần Bố thí, yêu thương người .. luôn giữ tâm ý sạch ! Kính nguyện : ... học ý nghĩa tên Ngài để làm tròn trọng trách, Người Phật Tử phải thể hiện được Từ Bi Nhẫn nhịn trước mọi nghịch duyên chớ khóc than chi Hiểu rõ hơn, lắng nghe hơn ... giải tỏa uẩn khúc ! Ngày Lễ Vía Quan Âm Xuất Gia 19/9 .. nguyện hứa biết tri túc ! Huệ Hương Melbourne 24/10/2021
06/09/2021(Xem: 4222)
Địa ngục là một khái niệm thuộc thế giới quan, nhằm mục đích trừng ác, răn dè hành vi của con người trong thế giới thực tại. Quan niệm về địa ngục được hình thành trên cơ sở thuyết luân hồi, luật nhân quả, thuyết báo ứng. Từ tư tưởng triết học, địa ngục được chuyển hóa thành nhiều loại hình nghệ thuật tôn giáo khác nhau, từ các dịch phẩm, khoa nghi, thơ phú, cho đến nghệ thuật tôn giáo, hội họa, bích họa, điêu khắc, phù điêu, đồ họa. Sự ảnh hưởng của kinh tạng Bắc truyền và nền nghệ thuật Phật giáo Đông Á là điều ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Từ triều đại Lê Thánh Tông (1442-1496) có bài “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”, trong có đề cập đến thiên đường, địa ngục, Phong Đô, cảnh đói khát dưới chốn âm ty. Bài này dùng để răn dè 10 loại người gồm: thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, Nho sĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, tướng quân, hoa nương, thương nhân, đãng tử. Như vậy có thể hiểu được rằng dẫn có những tham khảo nhất định về địa ngục của Phật giáo. Bài này là để cúng xá tội vong li
24/07/2021(Xem: 3349)
Kính lạy Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokitesvara) Ngài là vị Bồ tát với hạnh nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu khổ đau của cuộc đời rồi tìm cách cứu giúp chúng sinh. Hôm nay là ngày vía Đức Ngài đã thành Đạo 19/6 âm lịch rơi vào 28/7/2021. Kính bạch Ngài .... Từ nhiều năm về trước các chùa Tự viện tại VN và Hải ngoại đều cử hành 3 ngày vía (19/2-19/6-19/9) rất trọng thể để quy ngưỡng và dâng trọn niềm tin đến Đức Ngài. Vị Bồ tát có khả năng thị hiện vô biên thân, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà hiện thân tương ứng để cứu độ muôn loài.( theo kinh Pháp Hoa ). Và con đã từng khấn nguyện sẽ cúng dường đến Ngài bằng những vần Thơ , bài viết hầu tán dương Ngài với hạnh nguyện Nhĩ căn Viên Thông như Đức Cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai đã thành tựu và trong dân gian Ngài (Bồ-tát Quán Thế Âm ) được tha thiết thầm kính tôn xưng Mẹ Quan Âm .
26/06/2021(Xem: 11647)
1/ Tôn Giả Xá-lợi-phất: Trí huệ đệ nhất Trí tuệ cao minh vi đệ nhất Tăng đoàn thống lãnh trợ Từ Tôn Kỳ Viên Tinh Xá thân lâm kiến Đạo nghiệp truyền lưu chiếu ánh quang. Trí tuệ sáng ngời là số một Tăng đoàn thống lãnh giúp Từ Tôn Kỳ Viên Tinh Xá đích thân dựng Đạo nghiệp lưu truyền rạng ánh quang Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Trí Tuệ Đệ Nhất Xá Lợi Phất Tôn Giả 2/ Tôn Giả Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất Thần thông đệ nhất chúng xưng dương Thống lãnh tăng đoàn trợ Pháp Vương Hiếu kính mẫu thân khai diệu pháp Vu Lan báo hiếu vĩnh lưu hương. Thần thông số một chúng xưng dương Thống lãnh tăng đoàn trợ Pháp Vương Hiếu kính mẫu thân khơi pháp diệu Vu Lan báo hiếu mãi lưu hương. Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Mục Kiền Liên Tôn Giả
26/04/2021(Xem: 13176)
Đức Chuẩn Đề (1) vốn là Thất Cu Chi Phật Mẫu. Mười sáu tháng ba âm lịch, vía lễ thực thi (2) Ngài thường thuyết giảng Kinh Đà La Ni, Nguyện cầu tất cả trong Thế gian, Xuất thế gian đều thành tựu ... Khi nhìn biểu tượng Ngài ...khiến tâm tự nhủ (3) Uy lực từ bi vô biên với quần sanh Trí tuệ vĩ đại ...tay thứ chín ..Bát Nhã kinh Nguyện noi gương Bồ tát Long Thọ đọc 7 lần thần chú (4) Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]