Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Cư sĩ thời mạt Pháp

30/07/202408:02(Xem: 830)
Người Cư sĩ thời mạt Pháp

khoa tu Au Chau 2024 (5)
Người Cư sĩ thời mạt Pháp



Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác ở  Hannover lần thứ hai vào ngày 20 tháng 9 năm 2013. Theo Ngài, Phật pháp không bao giờ mạt, chỉ có con người không chịu học Phật, cách sống suy đồi, sống không đạo đức rồi mạt mà thôi. Ôi, câu nói đã ghi mãi trong lòng người Cư sĩ Phật giáo như tôi. Thế thì phải hiểu như thế nào về những người  "Cư sĩ thời mạt pháp“?

 

Cư sĩ là người tại gia mộ đạo Phật, người theo đạo Phật nhưng vẫn giữ đời sống thế gian, đã quy y Tam bảo và giữ 5 giới. Phật giáo nguyên thủy xem cư sĩ là người phụng sự đạo Pháp bằng cách cúng dường thực phẩm, quần áo, là người lo lắng cho đời sống Tăng Ni. Đại thừa xem cư sĩ có vai trò quan trọng hơn và cũng có khả năng thành Phật. Ví dụ vị Cư sĩ nổi tiếng lẫy lừng Duy Ma Cật, trong bộ kinh Duy Ma Cật sở thuyết. 

 

Đấy là những định nghĩa trong sách vở, chứ chúng tôi đến Chùa chỉ dám nhận mình là một Phật tử nhỏ bé thật bình thường. Chưa dám nhận mình là Phật tử thuần thành nói chi đến hai từ "Cư sĩ"! Thế nhưng hiện nay trong một số các Chùa xảy đến nhiều hiện tượng rất đáng buồn, các Cư sĩ thời mạt Pháp, nghĩa là các Cư sĩ vẫn học Phật, vẫn tụng kinh gõ mõ thật thuần thành, nhưng không chịu hiểu Kinh. Lại nghĩ mình có công lớn với Chùa, đã đóng góp rất nhiều tiền cho ngôi Tam Bảo, nên có quyền dùng tiền để khuynh đảo các Thầy. A Di Đà Phật! Các Phật tử thuần thành chỉ có tâm và sức lao động chứ không có tiền, nên chịu nhiều đắng cay. Họ có cảm giác như là Ôsin không công, làm rất nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu. Cái bánh vẽ các "công đức" sẽ được các Ngài ghi sổ, không đủ làm Bồ Đề tâm của họ kiên cố thêm lên. Có người thất vọng quá đã rút lui ra khỏi Chùa, áp dụng câu:

Tu đâu cho bằng tu nhà.

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

 

Thế là Chùa bị mất đi một số các Cư sĩ thuần thành. Phần các Cư sĩ thời mạt Pháp tha hồ lộng hành, họ ngang nhiên kết bè kết phái chèn ép một cách thoải mái các vị Trụ trì yếu bóng vía, tạm gọi là "nhu nhược" trước mãnh lực của đồng tiền. Ôi, các Thầy đến điên cả đầu, chẳng biết phân giải ra sao giữa các nhóm điều hành trong nhà bếp. Họ phát hành đồ chay, đậu hũ, bánh cuốn, bánh chưng... món nào cũng đẻ ra tiền để lo cho Tam bảo. Bênh nhóm này lại mất lòng nhóm kia, nhất là các bà lại hay hờn dỗi, trời sinh đã chín vía nặng hơn các ông đến hai vía. Nên dễ tủi thân rồi đình công không làm công quả cho Chùa. 

 

Hết chuyện Tiền sang đến chuyện Tình, các Cư sĩ thời mạt Pháp bị ảnh hưởng các câu chuyện Ma Nữ quyến rũ Đường Tăng trong Tây Du Ký rồi áp dụng trong Chùa. Họ biến thành những con nhền nhện nhịp nhàng giăng lưới muôn nơi. Gặp những vị Cao Tăng thuộc loại "Bóng cây cổ thụ" thì chỉ nước gẫy càng bỏ chạy khỏi Chùa một cách liền tay. Phật tử đi Chùa gặp chuyện chướng tai gai mắt không dám thở than, sợ nói ra mang tội Khẩu nghiệp rất nặng. Lại nhớ câu chuyện nồi cơm của Khổng Tử và Nhan Hồi, thấy vậy mà không phải vậy, ai biết được sự thật bên trong! Nên cuối cùng cũng đành câm nín rồi từ từ xa rời Chùa chiền không vững niềm tin với Phật pháp. 

 

Tại Việt Nam thời nay đã xảy ra rất nhiều Chướng Ma thời mạt Pháp nhiều vô số kể. Một số các cụ già và cả giới trẻ hiện nay hiểu sai Đạo Phật, vẫn đồng hóa với các mê tín dị đoan nên rất dễ bị các Tu sĩ thời mạt Pháp lọc lừa lấy tiền, một kiểu buôn thần bán thánh rất đáng buồn. 

 

Đâu là nguyên nhân của thời Mạt Pháp? Để trả lời cho câu hỏi này, trong bài "Định hướng tương lai với thế hệ Tăng sĩ trẻ ngày nay" của Thầy Tuệ Sỹ có đoạn: "Cái sức mạnh của Phật giáo không phải là chính trị, mà là văn hóa và xã hội, mà giáo dục là hàng đầu. Có thể mất cái gì cũng được nhưng không thể để một ngày mà không giáo dục Tăng Ni. Thành ra bằng mọi cách mình phải lập lại trường học, dưới mọi hình thức mình phải có trường học".

 

Vậy kết luận thật đơn giản, Cư sĩ phải học Phật và áp dụng câu: "Khẩu giáo phải đi đôi với thân giáo", mặc áo giáp Trí tuệ của ngài Văn Thù rồi hãy vào Chùa hộ Pháp, chắc chắn thời kỳ mạt Pháp sẽ chẳng bao giờ xảy ra.

 

Hoa Lan - Thiện Giới.

2024.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2024(Xem: 1398)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 722)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 697)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 890)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1203)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 893)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 8920)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 681)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1549)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
12/05/2024(Xem: 1929)
Thế là ngày lễ mẹ lại về, thế nhân rộn ràng với bao lời chúc, với hoa tươi và những món quà… Những người con lại có phút giây xao lòng hay chạnh lòng nghĩ về mẹ, tưởng nhớ mẹ. Những nghệ sĩ lại viết thêm bài nhạc, bài văn hay bài thơ mới về chủ đề mẹ. Đời sống hiện đại hôm nay vô cùng hối hả và bận rộn, nhiều khi con người ta vô tình lơ đễnh quên đi ơn nghĩa mẹ cha. Ngày lễ mẹ là một ngày lễ đầy tính nhân văn cao cả, giúp đánh động tâm mọi người, nhắc nhở mọi người nhớ về mẹ ( về đấng sinh thành nói chung).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]