Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguyệt San Chánh Pháp Số 149, Tháng 04.2024

03/04/202408:34(Xem: 4041)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 149, Tháng 04.2024

Bao Chanh Phap-149

 Bao Chanh Phap-149-2

CHÁNH PHÁP Số 149, tháng 04.2024

 Hình bìa:  Internet

***

 

 

NỘI DUNG SỐ NÀY:

THƯ TÒA SOẠN, trang 2
TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3

TẾT VỀ LÚC XA QUÊ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6

THÔNG BÁO ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL 2568 – DL 2024 (TT. Thích Thanh Minh), trang 7

PHẬT GIÁO TRUYỀN BÁ TỪ ĐÔNG QUA TÂY PHƯƠNG (HT. Thích Trí Chơn dịch) trang 8

CHẾT AN LÀNH (Quảng Tánh), trang 12

HT. THÍCH TUỆ SỸ - CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ... (Nguyên Siêu), trang 13

CHUÔNG SỚM, KHÓI SƯƠNG (thơ Lý Thừa Nghiệp), trang 16

THỜI GIAN – Ý THỨC (TN Tịnh Quang), trang 17

TỪ LÝ LUẬN TỚI GIẢI THOÁT (Nguyên Giác), trang 19

GIỌT TRĂNG GẦY (thơ Phổ Đồng) trang 22

THỐNG BÁO V/V AN CƯ KIẾT HẠ NĂM 2024 (GHPGVNTNHK), trang 21

12 ĐOẢN KHÚC THƠ ĐẠO MÙA XUÂN (thơ Diệu Viên), trang 24

SƠ QUÁT VỀ NHÂN DUYÊN TRONG ĐẠO PHẬT... (Khánh Hoàng), trang 25

LAU SẠCH TỰ TÂM (Nhóm Áo Lam), trang 30

TAM VIÊN (Kiều Mỹ Duyên), trang 31

CÂY CHỔI CỦA NGÀI CHU LỢI BÀN ĐÀ GIÀ (Huệ Trân – Hạnh Chi), trang 33

LÊN NON (thơ Trần Hoàng Vy), trang 34

THÔNG BÁO SỐ 2 – KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ 2024, trang 36

VỊ PHẬT CỦA CHÍNH MÌNH (TM Ngô Tằng Giao), trang 38

TU TRONG ĐẠO PHẬT (TN Hằng Như), tr. 39

RẰM THÁNG GIÊNG, THẦN CHÚ, THỨC GIẢ (thơ Xuyên Trà), trang 42

CƯỜI VỚI NẮNG MỘT NGÀY SAO CHÓNG THẾ (Nguyễn Thị Khánh Minh), trang 43

MƯA TRƯỜNG SƠN (thơ TiTi Vũ), trang 44

TUỆ SỸ, MỘT VỊ BỒ TÁT HAY MỘT TRÍ GIẢ... (Nguyễn Bá Chung – Tâm Quảng Nhuận dịch), trang 45

BÁNH ÍT LÁ GAI (Tiểu Lục Thần Phong), trang 47

MỘT GÁNH HỒNG TRẦN, THẦN PHỤC THỜI GIAN (thơ Thy An), trang 48

TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N), trang 49

GIÓ BỤI PHONG TRẦN (thơ Vĩnh Hữu Tâm Không), trang 51

THẬN TRỌNG VỚI THUỐC HO, CẢM LẠNH (Bs. Nguyễn Ý Đức), trang 52

GIÁC NGỘ TỬ SINH (thơ Hoàng Thục Uyên), trang 54

ĐEM CHÁNH NIỆM VÀ TÌNH THƯƠNG VÀO NHÀ TÙ TIỂU BANG CA (Bạch Xuân Phẻ), trang 55

LỜI RU CỦA BIỂN, CHÙA LÁ SEN (thơ Tôn Nữ Mỹ Hạnh) trang 57

THE STORY OF THERA SANTAKAYA (Daw Tin), trang 58

TRÊN HÀNH TRÌNH THỜI GIAN, VỚI BÔNG HOA THẤT SỦNG (thơ Tịnh Bình), trang 59

NẤU CHAY: XÀ-LÁCH RAU CỦ (Lily), trang 60

CỞI TRÓI tập 1 – chương 9 (truyện dài Vĩnh Hảo), trang 61 
HY SINH (Truyện cổ Phật Giáo), trang 69



***

DANH VÀ THỰC

 

Vĩnh Hảo

 

 

 

Danhthực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức. Danh mà không đi đôi với thực thì gọi là hữu danh vô thực (1). Tổ chức có nhiều kẻ hữu danh vô thực rất dễ dẫn đến sự phân rã, suy yếu, thất bại. Xã hội có quá nhiều kẻ hữu danh vô thực chắc chắn sẽ dẫn đến rối loạn, suy đồi, khó tiến bộ. Ở những địa vị cao trong giai tầng xã hội, danh với thực mà quá cách biệt thì nói không ai nghe, trên dưới không đồng lòng, dù có kế sách gì hay cũng không thực hiện được chu toàn.

Thuyết chính danh (2) của Khổng Tử là nhằm bổ khuyết cho vấn nạn ấy, tức là kéo cái thực cho đồng nhất hoặc gần với cái danh, sao cho tên gọi phù hợp với tài năng, đức độ. Nếu cái danh được trao cho một người không phải do hiền năng của người ấy, thì người nhận cái danh phải cố gắng làm sao cho năng lực tự thân của mình xứng đáng với cái danh được trao truyền.

 

Phật giáo cũng nói về hai chữ Danh và Thực (Thật) này, nhưng ở một bình diện khác.

Danh là ngôn ngữ, lý luận; thực là thực tại, chân lý. Giống như ngón tay chỉ mặt trăng, danh chỉ mô tả thực tại, là biểu tượng của thực tại chứ không phải là thực tại tuyệt đối. Nhưng thực tại tuyệt đối nếu không có danh ngôn biểu thị thì sẽ không thể tỏ ngộ, không thể thấy hay nắm bắt được (3). Hơn nữa, biểu tượng của chân lý không thể nghĩ bàn, đối với người thiển trí, nếu không có lý giải, minh họa tỉ mỉ thì không dễ gì thấu đạt. Đó là lý do Đức Phật thuyết pháp suốt 45 năm. Đó là lý do có tam tạng thánh điển.

Áp dụng vào đời sống thường nhật, danh và thực của Nho hay của Phật, đều ít nhiều ảnh hưởng.

Trong khi ngoài đời cũng như trong đạo, nhan nhản những người hữu danh vô thực, thì bậc thượng trí nương nơi trung đạo, vượt ngoài danh vị và thực tế, vượt khỏi danh ngôn và thực tại, vượt lên ngôn ngữ tương đối và sự thật tuyệt đối, trầm lặng chứng ngộ cảnh giới bất khả tư nghì – và nơi vô trụ xứ ấy, không ngọn gió thế gian (4) nào có thể thổi tới. Sống, không cần danh; thì chết, có cầu chi những danh vị hão huyền (5). Tán dương hay chỉ trích, đối với bậc đã đứng ngoài ba cõi, chẳng khác gì rải hoa hay xả rác vào hư không tịch tịnh. Nơi hư không vô tận ấy, chẳng có hoa hay rác nào có thể bám víu; nơi đại nguyện vô cùng của bậc trí giả thượng thừa kia, mọi tốt-xấu khen-chê đều như bụi tro tan trong lòng biển lớn.

_____________

 

(1) Hữu danh vô thực 有名無實: chỉ có cái tên suông chứ thực chất không có gì.

(2) Chính danh 正名: học thuyết quan trọng của Khổng Tử (551 – 479 trước Tây lịch) trong việc trị quốc và tổ chức xã hội. Theo học thuyết này, từ vua quan đến hàng thứ dân, mỗi người đều làm đúng địa vị và bổn phận của mình theo tên gọi (chính danh) thì kỷ cương xã hội, phép tắc quốc gia mới được thiết lập; không chính danh thì xã hội sinh hỗn loạn.

(3)  “Thật phi ngôn bất ngộ” 實非言不悟 – chân lý mà không có ngôn thuyết thì không thể nào dẫn đến tỏ ngộ (lời của Tăng Duệ [371 – 438], trong bài tựa Trung Luận).

(4) Tám ngọn gió thế gian (bát phong, bát thế phong) thường làm động tâm người gồm có: lợi (được), suy (mất), hủy (nhục), dự (vinh), xưng (khen), cơ (chê), khổ (buồn), lạc (vui).

(5) “… Sống, tuy có danh nhưng không cần, không bám vào nó. Sống an nhiên với tâm niệm rồi đây thân và danh này cũng mục nát với cỏ cây. Nếu có tài, gặp cơ duyên thích hợp thì đem ra phụ giúp cho đời, đem khả năng của mình ra để phục vụ nhân sinh. Hợp thời thế thì làm, bằng không thì cũng chẳng buồn bã chi... Chúng ta sống làm sao cho đến lúc chết không có gì hối hận, không có gì sai lầm. Đối với bạn bè không có sự lường gạt. Giao tiếp với mọi người không có sự gian dối. Cho tới khi mình chết, mình an tâm, an toàn. Chết đi về đâu, không cần biết. Chỉ cần biết mình đã làm những điều chân chánh, hợp đạo lý thì khi chết nhất định sẽ đến những chỗ an toàn…” (Kinh Kim Cang Giảng Giải - Tuệ Sỹ)

 



pdf icon-2
Báo Chánh Pháp_số 149_tháng 4_2024


****

 

 00logo-bao-chanh-phap
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 19707)
Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước..nhân Tết Nhi Đồng 2020 (HT Thích Tuệ Sỹ)
24/09/2020(Xem: 8924)
Thật là một đại duyên cho những ai là Phật tử tại gia như tôi lại được nghe lời chỉ dạy vừa tâm tình của Sư Phụ Viên Minh vào ngày thứ bảy của khoá thiền khoá 20 (20/9/2020) tại tổ đình Bửu Long như sau : " Ai cũng cho Thầy là người " ba phải "vì Thầy thường trích dẫn những ý tưởng của các Tông phái khác , nhưng đúng ra phải gọi Thầy là "người chục phải "vì ở mỗi Tông phái nào Thầy đều nhìn thấy những điểm hay, tốt và vì vậy Thầy chưa bao giờ phân biệt tông phái nào cả chỉ là nhập gia tuỳ tục thế thôi , vô ngại ...
21/09/2020(Xem: 12654)
Một trong những điểm đặc thù từ giáo pháp của Đức Phật chính là tinh thần Trung đạo - không rơi vào cực đoan khổ hạnh ép xác hay thú hướng dục vọng. Biện chính giáo pháp để làm lộ rõ con đường Trung đạo cũng là một phương thức hoằng pháp. Có thể sự biện chính chỉ là quan kiến cá nhân và đôi khi đi xa hơn vấn đề cần biện chính, nhất là những biện chính liên quan đến lát cắt của một phần tổng thể văn bản. Dẫu vậy, toàn bộ nội dung bài viết vẫn hướng đến mục đích làm sáng tỏ thêm con đường Trung đạo, tránh sự hiểu nhầm đáng tiếc đối với những Phật tử sơ cơ. Nguyệt San Giác Ngộ xin trân trọng giới thiệu bài viết đến với quý độc giả. NSGN Bài “Quan điểm của Phật giáo về vấn đề kinh tế” của Hòa thượng Tinh Vân (Phước Tâm dịch, Nguyệt san Giác Ngộ số 189, tháng 12-2011, trang 36), có một đoạn viết:
29/08/2020(Xem: 2627)
Khi được một bằng hữu tặng cho một quyển sách hay và quý, bạn vui vẻ nhận lấy, khen sách trình bày đẹp, đề tài lạ lẫm hấp dẫn, cảm ơn, rồi nhập vào hàng hàng lớp lớp những sách báo trên kệ tủ của mình, nói là từ từ khi nào rảnh rang sẽ đọc sau, rồi quên bẳng luôn, không sờ đụng đến lần nào nữa. Nếu vị bằng hữu đó mà biết được bạn đã đối xử với món quà tặng văn hóa, món quà tinh thần và nghĩa tình kiểu như vậy, chắc vị đó sẽ buồn lắm. Làm người khác buồn, là bạn đã mang tội. Trong trường hợp vị bằng hữu đó không hề hay biết gì hết, bạn vẫn mang tội, chứ không phải vô tội. Tội đó là tội xem thường.
27/08/2020(Xem: 5674)
Kính chiếu yêu ma bài viết của Cư Sĩ Huệ Hương (ở Melbourne, Úc Châu) Do Phật tử Diệu Danh (Hannover, Đức Quốc diễn đọc) Mười năm về trước khi đọc " CỬA TÙNG ĐÔI CÁNH GÀI " của Sư Ông Làng Mai Thích Nhất Hạnh tôi vẫn không hề nghĩ đến có ngày mình phải dùng kính chiếu yêu này ... không phải cho người khác bên ngoài mà chính là dùng để soi rọi vào những con ma đang ẩn núp trong rừng tâm của tôi quá chằng chịt và rậm rạp nơi mà tập khí được chôn vùi và đã trở nên hoang dại đến nỗi rất khó để tháo gở được những rễ dây đã bám sâu trong đất Tâm này
14/08/2020(Xem: 5595)
Thuở trung học, tôi rất yêu môn toán. Những con số cộc lốc khô khan nhưng rõ ràng 1 với 1 là 2 đi vào đầu tôi êm ái nhẹ nhàng hơn những bài văn thơ trữ tình, ướt át. Tôi rất dốt, thường đội sổ môn Việt văn. Giữa khi một đề bài Thầy, Cô đưa ra: “Hãy tả tâm trạng cảm giác của em khi một ngày dự định đi chơi mà bị mưa không đi được„ Bạn tôi, đứa “sơ mi„ (nhất điểm) luận văn khi phát bài luôn được đọc cho cả lớp nghe, viết: “Thế là hôm nay em phải ở lại nhà vì một trận mưa như trút nước. Mưa càng lúc càng nặng hạt, dai dẳng suốt từ chiều hôm qua. Bầu trời vẫn còn u ám, xám xịt, không có dấu hiệu của một trận mưa sắp dứt, một ngày quang đãng. Em buồn nằm nhà, cuộn mình trong chăn nghe bên ngoài mưa rơi tí tách, gõ nhịp trên máng xối„ Thì bài của tôi: “Đùng...đùng...tiếng sét nổ vang. Nhìn ra bên ngoài bầu trời đen thui rồi nước ở đâu từ trên máng xối đổ xuống ào ào. Nước mưa chứ ai. Ghét dễ sợ. Không được đi chơi như dự định rồi. Buồn thỉu buồn thiu„ Bài viết cộc lốc khô cứng như cục đá. Ng
13/08/2020(Xem: 11481)
Ngày anh ra đi, tôi không được biết. Một tuần sau, Xuân Trang gọi điện thoại từ Mỹ báo tin anh đã mất. Tôi lên đồi thông Phương Bối, chỉ nhìn thấy anh ngồi trên bàn thờ với nụ cười châm biếm, ngạo nghễ mà tôi thường gặp mỗi lần lên thăm chị Phượng và các cháu. Tôi được biết gia đình anh Nguyễn đức Sơn qua sư cô Chân Không. Dạo ấy, khoảng năm 1986, sư cô có nhờ tôi cứ 3 tháng mang số tiền 100 usd lên cho gia đình anh. Tới Bảo Lộc tôi nhờ 2 người con của Bác Toàn dẫn tôi lên gặp anh. Trước khi đi, bác Toàn có can ngăn tôi: Cô đừng đi, đường lên Phương Bối khúc khuỷu, cây rừng rậm rạp khó đi, hơn nữa ông Sơn kỳ quái lắm, ông ấy không muốn nhận sự giúp đỡ, mà nếu có nhận, ông ấy không cảm ơn, còn chửi người cho nữa. Tôi mỉm cười: Không sao đâu, tôi chịu được mà! Đường lên Phương Bối khó đi. Chúng tôi lách qua đám tre rừng, thật vất vả. Cơn mưa cuối mùa và gió lạnh đang kéo tới, chúng tôi phải đi nhanh để kịp đến nhà ông Sơn, một nhân vật quái đản -theo lời nhận xét của gi
09/08/2020(Xem: 12434)
Là một nhà văn, một nhà thơ, một nhà báo, và là một người tuyên thuyết Phật pháp – trong vị trí nào, Vĩnh Hảo cũng xuất sắc, và nổi bật. Tài hoa của Vĩnh Hảo đã hiển lộ từ các tác phẩm đầu thập niên 1990s, và sức sáng tác đó vẫn đều đặn trải dài qua hai thập niên đầu thế kỷ 21. Vĩnh Hảo viết truyện dài, truyện ngắn, làm thơ, viết tùy bút, viết tiểu luận – thể loại văn nào anh viết cũng hay, cũng nổi bật hơn người. Giữ được sức viết như thế thực là hy hữu. Thể hiện nơi ngòi bút rất mực văn chương, Vĩnh Hảo chính là một tấm lòng thiết tha với đất nước, với đạo pháp, với con người. Tấm lòng đó hiện rõ trong từng hàng chữ anh viết, đặc biệt là trong 100 Lá Thư Tòa Soạn của Nguyệt San Chánh Pháp, là nội dung của sách này với nhan đề Lời Ca Của Gã Cùng Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]