Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viết cho Đức Hạnh (bài viết của Ôn Tuệ Sỹ, do Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/06/202304:50(Xem: 3544)
Viết cho Đức Hạnh (bài viết của Ôn Tuệ Sỹ, do Phật tử Diệu Danh diễn đọc)
ht tue sy


Viết cho Đức Hạnh

Bài viết của HT Thích Tuệ Sỹ
Diễn đọc: Phật tử Diệu Danh




Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực Lạc, Ánh Sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi mình còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú Hạnh, một thời ở Già Lam cùng với chú Sỹ.

Hồi ấy, khoảng từ 1962-1963, Già Lam chỉ mới có một dãy nhà tranh cho các chú, với ba gian nhà gạch; gian giữa thờ Phật; một gian để dành cho thầy trù trì. Gian còn lại, thỉnh thoảng Thượng Tọa Giám Viện từ Nha Trang vào trông chừng các chú tu học như thế nào, và thường xuyên hơn là Thượng Tọa Thiện Minh. Già Lam, tức Tăng-già-lam của Phật học viện, hình thức như một cư xá cho lưu học sinh. Phật học viện trung phần dùng đây làm chổ tu học cho các chú đã đậu tú tài II từ các trường trực thuộc. Một số theo học tại các phân khoa của Viện Đại học Sàigòn. Một vài chú khác được viện gởi vào để theo học các lớp Anh văn của Hội Việt Mỹ. Chú Hạnh ở trong số các chú này. Còn tôi trước đó thuộc loại tiểu giang hồ, lang thang qua nhiều chùa ở miền Nam mà không đủ điều kiện nhập chúng. Rồi do thầy trù trì giới thiệu, được Thượng tọa Giám viện thương tình cho về Già Lam tá túc. Dù không thân, rồi cũng trở thành thân thiết. Tình huynh đệ trong chốn thiền môn là vậy.




Dễ chừng cũng hơn ba mươi năm, kể từ ngày tôi hành cước sang Vạn Hạnh. Hình chú vân du lên vùng thượng nguyên, dạy Anh văn tại các trường Trung học Bồ Đề.

Ba mươi năm, vật đổi sao dời. Đất nước hòa bình nhưng con người ly tán. Tan ở chổ này, để tụ lại ở nơi khác. Mỗi người ra đi theo mỗi hướng khác nhau, mà trong sâu thẳm của tâm tư vẫn còn ủ kín sơ tâm học đạo dù chí nguyện chưa tròn. Riêng phần tôi, trong ngần ấy năm, trầm luân qua gần đủ sáu nẻo luân hồi trong một kiếp nhân sinh. Khi được đưa về cảnh cũ, huynh đệ cũ không còn ai cả. Phố phường thị tứ náo nhiệt hẳn lên. Chùa chiền cũng náo nhiệt theo, trào lưu và thời thượng. Hai thứ tóc, bỗng thấy mình bối rối. Cho nên, khi bất chợt đọc được những trang sách, mà thoạt đầu cảm thấy lạ, rồi nhận thấy thân quen, như nghe lại âm hưởng của một thời hành điệu. Người trở về, thời gian đã đổi. Nhưng người đi xa, gốc cổ thụ vẫn còn hắt bóng qua nửa phuơng trời. Hạt giống bồ đề qua biết bao lần lữa thiêu, nước cuốn; hình hài có thay đổi, mầm sống không hư hao. Tôi đọc những trang sách ấy, khám phá lẽ đời và lẽ đạo từ một mảng đời phiêu bạt của người bạn đồng học, đồng tu cũ.

Tôi vốn làm thân con mọt sách. Chìm nổi qua gần đủ sáu nẻo luân hồi trong một kiếp nhân sinh, khi trở về, vẫn là con mọt sách. Đức Hạnh có lẽ là hạt cải lăn lóc giữa đường đời bụi bặm. Mỗi dặm đường, thêm một lớp bụi, tưởng chừng hạt nhân bên trong héo quắt. Thế giới này tuy chợt có chợt không; cõi nhân sinh tuy bị cuốn hút trong ái dục, cuồng vọng; nhưng từ trong tự tính huyền vi, nguồn sữa từ thai tạng của Như Lai vẫn ngọt ngào nuôi dưỡng chủng tử bồ đề cho tuỳ thời lớn mạnh. Rồi hạt cải nảy mầm, có phải như vậy không? Tôi không biết rõ điều đó, nhưng biết khá rõ một điều khác: khổ hải thao thao, hồi đầu thị ngạn.

Chúng tôi mỗi người từ một góc trời riêng biệt, từ những đường đời gập gềnh bên ngoài Phật học viện, bất chợt cảm thấy đang cùng nhìn về những ngày cũ, nhìn lại tâm nguyện ban sơ, thấy lại ước vọng một thời thanh xuân vẫn còn thấp thoáng dưới bóng chùa. Những trang sách của chú khiến tôi cảm nhận được một nguồn an lạc của nhiều ngây thơ từ những ngày bé bỏng. Rồi Chú gởi thiếp theo một loạt đang viết cho quyển sách dự định xuất bản. Tôi đọc không như một đọc giả đi tìm những ý tưởng hay những quan điểm mới lạ, tìm những gì mà mình chưa nghĩ đến trong kho tàng Thánh điển bao la. Tôi đọc những bài viết này với tâm trạng của một người ước mong khám phá những gì chưa biết về một người bạn, tưởng chừng như quên hẳn. Ở đấy, vẫn những điểm giáo lý quen thuộc, mà một thời đã cùng chung học tập, và cũng có khi tranh luận. Với tôi, nền tảng giáo lý ấy theo thời gian được chồng thêm nhiều lớp sở tri đông tây kim cổ, tưởng như mãi mãi bị khuất kín dưới lớp kiến văn quảng bác. Rồi bổng nhiên, từ những trang sách tình cờ, quá khứ một thời sống dậy, với tất cả tình cảm và tri thức. Khi ấy tôi cũng nhận ra rằng, cũng những điểm giáo lý ấy nơi Đức Hạnh tưởng là đã chôn vùi, quên lãng dưới những lớp bụi đời; nhưng không, những điểm giáo lý quá đơn sơ, mỏng và nhẹ vừa đủ cho những Chú sa-di non nớt cả về lẽ đạo và nghĩa đời cất giữ trong tâm tư, làm hành trang cho đường đi sắp tới; những điểm giáo lý ấy bây giờ chợt lục lại, mới hay đấy là những mầm giống tuy rất dể mục rã với thời gian, nhưng bởi tự tính là chất kim cang bất hoại nên vẫn tiềm tàng đâu đó trong đáy sâu của tâm thức, khi thời tiết nhân duyên đến, lại xuất hiện.

Bất hạnh thay, chúng tôi đều sinh vào thời của nhiều ma chướng, cao đồ sộ như bóng núi Thiết vi che kín cả mặt trời Tuệ giác. Thỉnh thoảng ánh sáng bồ đề từ tâm nguyện ban sơ chợt hiện, như đốm sao duy nhất trong đêm tối mịt mù. Tuy vậy, mỗi người vẫn cố đi tới, theo cách riêng của mình, bằng phương tiện và cơ duyên mà mình có. Vì vậy, tôi cảm thấy hân hoan, muốn góp mấy lời vào đầu tác phẩm này của Đức Hạnh. Nhiều khi cảm thấy những gì mình đã viết quá xa với thực tế, góp chặt từ nhiều trang Kinh Luận rồi ghép lại; do đó, khi đọc được những dẫn giải Phật pháp từ chính những vấn đề tế toái của cuộc sống thường nhật, tôi cảm thấy thú vị khi có thể chiêm nghiệm những gì vốn được chiêm nghiệm bằng tư duy luận lý siêu hình. Không chỉ là thể nghiệm, mà trong giới hạn nào đó của cuộc sống, đó còn là sự thể nghiệm chân lý trong sinh hoạt thường nhật. Nói một cách khác, đó là sự thể nghiệm yếu tính của Phật Pháp phiền não tức bồ đề.

Bởi phiền não tức bồ đề, cho nên người cư sĩ sống giữa cõi đời ô nhiễm, bị trói buộc bởi nhiều sợi dây ân oán, vẫn tự thấy bản thân không bị cách ly Thánh đạo. Người cư sĩ học Phật thì nói nhiều hơn làm, đó là giới hạn tất nhiên rất ít ai có thể vượt qua. Nhưng giáo lý Duy thức cũng nói về danh ngôn huân tập. Nói về lẽ thiện, tuy chưa thể hoàn toàn sống đúng với điều mình nói, nhưng tự tính ngôn ngữ có tính huân tập, giống như một thứ tự kỷ ám thị, mầm giống Thánh đạo được xông ướp một cách vô tình hay vô tri, trải qua nhiều thời gian, có khi trải qua mấy a tăng-kỳ kiếp, hạt giống thánh đạo được tích lũy bằng danh ngôn huân tập sẽ đến hồi nãy lộc. Vả lại, người Phật tử học Phật dựa trên ý nghĩa rằng y pháp bất y nhân. Phật pháp không chỉ để nghe suông, mà cần chiêm nghiệm, thực hành, để tự mình phát hiện chân lý. Cho nên, như Phật đã dạy, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được nói bởi truyền thống, xuất phát từ chổ được nói là có thẩm quyền, được giảng dạy bởi Đạo sư của mình. Tôi muốn nói đến sứ mạng hoằng truyền Chánh pháp. Những người xuất gia đã dứt bỏ mọi ràng buộc của thế tục, cho nên sự hành đạo và hóa đạo là thuận duyên, và lời giảng pháp là những kinh nghiệm thực chứng. Điều đó thật hữu ích cho người nghe. Nhưng, trong xã hội càng lúc càng phức tạp với đủ loại quan hệ nhân sinh. Kinh nghiệm của người xuất gia về sự thật của thế gian càng lúc càng thu hẹp. Do đó, những lời giảng tuy là từ chứng nghiệm bản thân nhưng nhiều khi xa rời thực tế xã hội khiến người tại gia tuy nghe thì nghe hay thật đấy nhưng khi hành thì lại gặp nhiều tai biến. Chuột nhắt không sợ sư tử, mà chắc chắn là sợ mèo . Đó là điều mà kinh gọi là đối trị tất-đàn. Chân lý của chánh pháp được đánh giá bằng thực tế đối trị. Tất nhiên, căn bản phiền não cần đối trị là tham, sân, si. Giáo lý cao siêu trong nhiều trường hợp trở thành trò lý luận viển vông. Không thể trao gươm thái ất cho trẻ nhỏ đi đập hạt dẻ. Bất cứ viên đá cuội tầm thường nào cũng đều có hiệu quả rất đáng hài lòng hơn.

Đó là vài cảm nghĩ của tôi khi đọc các bài viết Phật pháp của Đức Hạnh. Tôi nghĩ rằng những bài viết về những điểm giáo lý căn băn này được nhìn từ những khía cạnh đời thường cũng sẽ gợi được nhiều hứng vị cho người đọc; từ cảm hứng ấy mà chiêm nghiệm về những vấn đề nhân sinh của chính mình với Phật pháp. Mỗi người có những chứng nghiệm riêng của bản thân, để rồi hiểu rõ càng lúc càng sâu sắc hơn ý nghĩa Phật pháp bất ly thế gian Pháp.

Quảng hương Già Lam

Mùa an cư Phật lịch 2546,

Tuệ Sỹ




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2018(Xem: 3577)
Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn, Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn Chữ bay từng cánh chim ngàn Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân. Xin phép được “tựa” vào hai câu thơ của cố Giáo sư Vũ Hoàng Chương, để bước vào thế giới văn chương của Văn Công Tuấn. Vì rằng, có lẽ, anh đã có nhiều duyên lành để dung thông với tư tưởng uyên áo của các bậc Thầy khả kính nơi ngôi trường Vạn Hạnh của ngày xưa Sài Gòn. Cũng như sau nầy có nhiều thuận duyên để tìm hiểu thêm về tư tưởng các danh nhân trên thế giới. Trong đó anh đã dành cảm tình đặc biệt với văn hào Hermann Hesse. Người đã được thừa hưởng “gia tài tâm linh” của một “ông lái đò” qua câu chuyện dòng sông. (“Khi dòng sông phẳng lặng thì bóng dáng chân như sẽ hiển bày”).
01/04/2018(Xem: 15742)
Chánh Pháp, số 77, tháng 4.2018, ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ XUÂN ĐẾN VUI GÌ? (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ KHI GIỮA ĐỜI THƯỜNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 12 ¨ BẢN TÍNH CON NGƯỜI VỐN VỊ KỶ HAY VỊ THA? (Nguyên Hạnh dịch), trang 13 ¨ THƯ CUNG THỈNH CHỨNG MINH/THAM DỰ ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2562 (TK. Thích Pháp Tánh), trang 15 ¨ HOÀI NIỆM HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ (Quách Tấn), trang 16 ¨ CÔ ĐỘC HÀNH, HOÀI HƯƠNG (thơ Phù Du), trang 18 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG, t.t. (Tuệ Uyển dịch), trang 19 ¨ KHÓC TỐ NHƯ (thơ Diệu Viên), trang 22 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU: NI SƯ THÍCH NỮ NHƯ THỦY VIÊN TỊCH (Tổng vụ Ni Bộ), trang 23 ¨ TƯỞNG NIỆM NI TRƯỞNG THÍCH NỮ NHƯ THỦY (TN Như Đức), trang 24 ¨ NHỮNG BÀI HỌC TỪ CÁCH ỨNG XỬ (TN. Như Bảo), trang 26 ¨ MỘT VẦNG TRĂNG (thơ Vĩnh Hảo), trang 27 ¨ VEN. SANGHARAKSHITA (1925 -)
25/03/2018(Xem: 4199)
Khi dòng sông phút trước không còn là dòng sông phút sau, thì đời người phút trước cũng không giống đời người phút sau. Theo dòng thời gian, mọi thứ trôi qua còn nhanh hơn thế nữa. Nhưng thời gian có không, trong sự dịch chuyển của đơn vị vật chất nhỏ nhất (neutron, proton, quantum, photon...)? Một phần triệu giây, hoặc ngắn hơn! Có đơn vị thời gian nhỏ nhất hay không? Có tên gọi cho một khoảnh thời gian quá nhỏ nhiệm như thế không? Thời gian, đối với lý thuyết vật lý hiện đại, chỉ còn là một khái niệm, dường như có, dường như không, hoặc không hề tồn tại, hoặc tồn tại như một ảo tưởng, ảo giác từ tâm thức, hoặc như là một mộng ảo từ sự sinh diệt của một lượng tử, một hạt ‘ánh sáng’ hay ‘sóng’ mơ hồ tức-hữu tức-vô. Long Thọ (1) từ thế kỷ thứ hai chẳng đã từng nói là không làm gì có thời gian hay sao! (2) Vì thời gian do nơi vật thể mà có; mà vật thể như photon (hạt căn bản—elementary particle) còn không thể nói là có hiện hữu như là một “vật” thì thời gian làm gì hiện hữu? (3)
24/03/2018(Xem: 3926)
Nghe, lắng nghe, và không nghe khác nhau ở điểm nào? Nghe. Dĩ nhiên là bằng đôi tai rồi. Nhĩ căn tiếp nhận, giao lưu với Thanh trần. Nhưng có kiểu nghe mà không nghe. Âm thanh vẫn chảy vào, chui vào, tấn công vào hai bên màng nhĩ, mình cảm nhận được là mình đang có nghe, nhưng mình chỉ biết là có nghe vậy thôi, chứ không rõ là mình đang nghe cái chi chi, cái gì gì. Nhà thiền có một công phu, thôi, gọi là phương pháp cho dễ hiểu, là phương pháp mở rộng hết, mở toang ra cả lục căn (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý) để đón nhận lục trần (sắc thanh hương vị xúc pháp) trong cùng một lúc.
16/03/2018(Xem: 15799)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 14780)
Cùng là một tảng đá, một nửa làm thành tượng Phật, một nửa làm thành bậc thang. Bậc thang không phục hỏi tượng Phật rằng: - Chúng ta vốn dĩ cùng là đá, tại sao người ta chà đạp tôi, nhưng lại sùng bái người?! Tượng Phật trả lời: - Vì người chỉ chịu 4 nhát dao đã có được hình hài đó, còn ta lại trải qua trăm ngàn ngọn dao đục đẽo, đau đớn muôn vàn. Lúc đó bậc thang im lặng... Cuộc đời con người cũng thế: Chịu được hành hạ, Chịu được cô đơn,Gánh được trách nhiệm, Vác được sứ mệnh, Thì cuộc đời mới có giá trị...
12/03/2018(Xem: 7008)
Tắt máy. Xuống xe, Mỉm cười. Bình yên. Dạ thưa, con đã đi, mới vừa thượng sơn, và con đã đến. Lạy Phật. Lạy Pháp. Lạy Tăng. Những bước chân khẽ khàng, nhẹ bổng của con đi trên đất, qua sân chùa, theo Thầy từng bậc cấp lên gác chuông, đều cảm nhận được nguồn năng lượng của an lạc.
10/03/2018(Xem: 3966)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - sinh thì là chết?, Các phần trước của loạt bài "Sinh thì là chết?" (11.1, 11.2 và 11.3) đã ghi nhận khả năng liên hệ sinh 生 trong sinh thì với cách đọc Hán Việt thăng[2] 升 và phương ngữ ở phía Nam Trung Quốc (TQ) qua dạng sing/seng (shēng bình thanh, giọng BK bây giờ), hay là một cách dùng nhầm của tiếng Việt[3] (so với nghĩa sinh thì/sinh thời trong tiếng Việt hiện đại). Phần này bàn về khả năng sinh thì là kết quả thể hiện qua ngôn ngữ từ tư duy tổng hợp của người VN: kết hợp lòng tin Công giáo với truyền thống tôn trọng người đã ‘qua đời’ qua uyển ngữ Hán Việt (HV). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn
03/03/2018(Xem: 18714)
Vừa qua, bản thảo cuốn sách này, « Con Người và Phật Pháp » được tác giả Lê Khắc Thanh Hoài gởi đến cho tôi với lời đề nghị tôi có vài dòng đầu sách. Tôi có phần e ngại, vì có thể tôi không nắm rõ hết ý tưởng của tác giả và cũng có thể không nêu hết ý nghĩ của mình. Thế nhưng đối với một tác giả, một nữ cư sĩ Phật tử trí thức thuần thành, một nhà văn, một nhà thơ và là một nhạc sĩ mà tôi vẫn lưu tâm, cảm phục, cho nên tôi quên đi phần đắn đo mà mạnh dạn có mấy dòng, gọi là chút đạo tình và lòng trân trọng đối với chị Thanh Hoài.
01/03/2018(Xem: 12384)
- "Động Cửa Thiền" (ĐCT) là truyện ngắn đắc ý nhất của Tâm Không Vĩnh Hữu (TKVH), đã được rất nhiều trang web đăng tải, được người khác chuyển thể thành thơ lục bát, được vài tổ chức phi chính phủ đưa vào audio "đọc truyện", được đến 2 nhóm điện ảnh tự ý chuyển thể kịch bản phim để tham dự Liên hoan Phim Ngắn Quốc Tế, và cũng được nhiều tác "giả" tự tiện cải tên đổi hiệu lấy làm sáng tác của chính mình...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]